Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tác động của tỷ giá USDVNĐ đối với giá bán sữa tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.33 KB, 26 trang )

Đề án môn học
Đề tài:
Tác động của tỷ giá đối với giá bán sữa tại
Việt Nam
Hà Nội, Tháng 11 năm 2010.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Bộ môn Kinh doanh quốc tế

* ~ * ~ * ~ *
MỤC LỤC
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................... 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: ........................................................................ 2
4. Kết cấu nội dung phân tích: ................................................................................ 2
3. Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam xét trong giai
đoạn 2008 – 2010: ...................................................................................................... 5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các
hoạt động kinh doanh quốc tế được quan tâm nhiều hơn đặc biệt là xuất nhập khẩu
và đầu tư nước ngoài. Nhìn nhận về các hoạt động này chúng ta không thể không
nhắc đến vấn đề tỷ giá hối đoái. Tỷ giá ra đời do có ngoại thương và nó đồng thời
có những tác động mạnh mẽ trở ngược trở lại hoạt động này. Ở Việt Nam hiện nay,
quản lý tỷ giá hối đoái vẫn là bài toán khó đối với các nhà kinh tế. Các doanh
nghiệp dễ bị ảnh hưởng khi tỷ giá thay đổi trong khi tỷ giá ở Việt Nam khó dự báo
và có nhiều biến động bất ngờ. Đặc biệt so sánh trong những năm gần đây, tỷ giá
giữa đồng USD và VND liên tục thay đổi và không theo quy luật, kéo theo tỷ giá
giữa VND và các ngoại tệ khác cũng có nhiều biến động.
Có nhiều ý kiến cho rằng ngành sữa Việt Nam là một trong những ngành bị
tác động nhiều nhất khi tỷ giá thay đổi. Hiện nay, ngành sữa Việt Nam vẫn phụ
thuộc khá nhiều vào nhập khẩu, trong nước chưa phát triển sản xuất sữa nguyên


liệu, nguồn cung không đủ cầu. Theo thống kê năm 2009, khoảng 72% lượng sữa
Việt Nam tiêu thụ phải nhập khẩu, trong đó khoảng 50% là sữa nguyên liệu và
22% sữa thành phẩm. Do đó khi tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào
của các doanh nghiệp ngành sữa. Và tác động của tỷ giá đối với ngành sữa được
thể hiện rõ nhất dưới sự biến động của giá bán sữa. Vậy tỷ giá tác động đến giá bán
sữa tại Việt Nam như thế nào và làm sao để kiểm soát cũng như hạn chế những tác
động xấu? Để tìm hiểu về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Tác động của tỷ giá
USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam” làm đề án nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
• Mục tiêu nghiên cứu: Đề xuất giải pháp hạn chế tác động xấu của tỷ giá
đối với giá bán sữa tại Việt Nam.
• Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu rõ tình huống tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại
Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010.
1
- Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam
trong giai đoạn 2008 – 2010.
- Đề xuất giải pháp hạn chế ảnh hưởng xấu của tỷ giá USD/VND đối với giá
bán sữa tại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa
tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu tác động của tỷ giá USD/VND đến
giá bán sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008– 2010 và kế hoạch đến năm 2011.
Đề án gồm 3 phần: Phần mở đầu; Nội dung phân tích; Phần kết luận.
4. Kết cấu nội dung phân tích:
Chương I: Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại
Việt Nam
Chương II: Phân tích tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa
tại Việt Nam

Chương III: Giải pháp hạn chế tác động của tỷ giá USD/VND đối với
giá bán sữa tại Việt Nam
2
Chương I: TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD/VND ĐỐI VỚI GIÁ BÁN SỮA
TẠI VIỆT NAM
1. Tình hình biến động tỷ giá của Việt Nam:
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả
giữa hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, khi
nhắc đến tỷ giá người ta thường hay dùng để chỉ tỷ giá USD/VND.
Nhìn lại tình hình biến động tỷ giá của Việt Nam, ta có thể chia thành 5 giai
đoạn. Thứ nhất, giai đoạn trước đổi mới năm 1986: Nền kinh tế nước ta trong tình
trạng kế hoạch hóa tập trung cao độ, ngoại tệ chuyển nhượng chủ yếu là đồng Rup.
Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá gây
khó khăn cho ngoại thương.
Giai đoạn hai, sau đổi mới năm 1986 đến hết năm 1991: Xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá. Quan hệ ngoại
thương với Đông Âu và Liên Xô bị gián đoạn, Việt Nam chuyển sang buôn bán
với khu vực sử dụng USD. Trên thị trường ngoại tệ, USD ngày càng khan hiếm.
Tỷ giá hối đoái USD/VND biến động mạnh theo xu hướng giá trị tăng liên tục kèm
theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn.
Giai đoạn ba, từ năm 1992 đến trước cuộc khủng hoảng Đông Nam Á 1997:
Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá làm cho giá USD bắt
đầu giảm (cuối năm 1991 tỷ giá USD/VND có lúc lên tới 14.500, đến tháng 3/1992
chỉ còn 11.550 và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992). Tình hình cung cầu ngoại
tệ và tỷ giá hối đoái luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến
đầu năm 1997.
Giai đoạn bốn, từ năm 1997 đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (2006):
Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á từ tháng 7/1997 đã khiến một loạt các
đồng tiền của các nước trong đó có Việt Nam bị mất giá so với USD. Để đối phó

với biến động, Chính phủ đã đưa ra các biện pháp mạnh nhằm bình ổn tỷ giá, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đóng vai trò điều tiết và quản lý tỷ giá. Sau sự kiện khủng
3
hoảng, tỷ giá USD/VND tương đối ổn định, tỷ giá tăng nằm trong sự kiểm soát của
Ngân hàng.
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay: Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp
vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Gia nhập WTO với những cơ hội và
thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có những biến lớn
trong chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, đặc điểm
của giai đoạn này là tỷ giá thường xuyên biến động mạnh, không ổn định, các
chính sách điều hành tỷ giá chỉ có tác dụng trong ngắn hạn.
2. Biến động tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010:
Giai đoạn 2008 -2010 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ.
Tỷ giá trở thành một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trên các diễn
đàn kinh tế. Tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này không ổn định, nhìn chung tỷ
giá năm sau tăng cao hơn năm trước.
Năm 2008 nổi bật với sự kiện 3 lần nới biên độ và cơn sốt USD vào tháng
6/2008, tỷ giá USD/VND lên tới con số 19.400 đồng. Sau đó nhờ sự can thiệp của
NHNN, tỷ giá nhanh chóng giảm mạnh và ổn định trở lại. Thị trường ngoại tệ Việt
Nam trong năm 2008 gồm 4 giai đoạn. Giai đoạn đầu: Từ 01/01 đến 25/03, tỷ giá
USD/VND liên ngân hàng liên tục giảm, từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng.
mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD. Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức
15.700 – 16.000 đồng/USD. Giai đoạn hai: Từ 26/03 đến16/07, tỷ giá tăng với tốc
độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự
do. Tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến
19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần. Giai
đoạn ba: Từ 17/07 đến 15/10, tỷ giá giảm mạnh và dần đi vào bình ổn. Nhờ có sự
can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh
từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn. Giai đoạn 4:
Từ 16/10 đến tháng 12, tỷ giá USD/VND liên ngân hàng tăng đột ngột trở lại từ

mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Sau khi NHNN tăng biên
độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới
mức 17.440 đồng/USD.
4
Năm 2009 là năm đánh dấu bởi sự căng thẳng của tỷ giá, ở thị trường tự do,
tỷ giá có nhiều biến động dữ dội. Năm 2009 biến động tỷ giá cũng được chia làm 4
giai đoạn xét trên thị trường liên ngân hàng. Giai đoạn một: Tháng 1 đến tháng 3,
tỷ giá USD/VND dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.700 đồng, lúc đó tính
thanh khoản thị trường kém, nguồn cung khan hiếm. Giai đoạn hai:Từ tháng 4 đến
hết tháng 9, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của Ngân hàng nhà nước, tỷ giá dao
động trong khoảng 17.000VND đến 17.800 VND. Giai đoạn ba: Tháng 10 đến
24/11, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11. đạt đỉnh ở mức 19.750 vào 24/11. Chỉ
đến khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập vàng trở lại, tỷ giá ở thị trường này
giảm trong 2 ngày. Giai đoạn bốn: Từ 25/11 đến hết năm 2009, tỷ giá giao dịch
liên ngân hàng giảm từ mức cao 19.800 đồng xuống 18.500 đồng. Cùng với USD,
những ngoại tệ khác cũng tăng giá mạnh mẽ mà tỷ giá tính chéo giữa VND với
một số ngoại tệ khác được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu là một ví dụ. Kết
thúc năm 2009, tỷ giá USD/VND dừng lại ở mức 18.500VND.
Năm 2010, trong 8 tháng đầu năm tỷ giá tăng chậm, nhưng cuối năm tỷ giá
tăng chóng mặt và bất ổn định. Ngày 11/2/2010, NHNN tăng biên độ tỷ giá USD/
VND thêm 3% lên mức 18.544 VND và cố định từ thời điểm đó đến tháng 8.
Nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, ngày 17/8/2010, NHNN thực hiện điều chỉnh
tỷ giá bình quân liên ngân hàng USD/VND từ mức 18.544 VND lên mức 18.932
VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%. Do
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, tỷ giá từ tháng 8 tăng liên tục, đỉnh điểm lên tới
20.800VND vào đầu tháng 11. Chính phủ đã phải có những biện pháp can thiệp,
đưa tỷ giá trở về ổn định dao động quanh mức 20.000VND.
3. Tác động của tỷ giá USD/VND đối với giá bán sữa tại Việt Nam xét
trong giai đoạn 2008 – 2010:
Trong giai đoạn 2008 – 2010, tỷ giá hối đoái tương đối ổn định nhưng luôn

có những cơn “sốt” đột ngột mà doanh nghiệp khó lường trước được. Tính trung
bình từ đầu năm 2008 đến cuối năm 2010, tỷ giá USD/VND tại thị trường tự do đã
tăng đến 22%. Biến động tỷ giá là một nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của giá
5
bán các sản phẩm sữa. Giá sữa bột tại Việt Nam trong vòng 3 năm qua đã tăng 16
lần, mỗi lần tăng từ 3-10%.
Giá trị một hộp sữa được cấu thành từ 30% bột sữa, 30% phí cho dây
chuyền sản xuất, nhân công, 20% bao bì, vận chuyển và khoảng 20% dành cho chi
phí quảng cáo, tiếp thị. Bột sữa hiện nay chủ yếu được nhập khẩu, vào khoảng
72% nguyên liệu để sản xuất cho thị trường trong nước. Như vậy nếu các yếu tố
khác không đổi thì khi tỷ giá biến động, chắc chắn có ảnh hưởng đến chi phí sản
xuất sữa. Tỷ giá không phải nguyên nhân duy nhất dẫn đến biến động của giá bán
sữa nhưng không thể phủ nhận tác động của tỷ giá. Tỷ giá ảnh hưởng nhiều nhất
đến việc nhập khẩu sữa nguyên liệu, đến giá sữa thành phẩm ngoại nhập (giá được
tính theo đơn vị tiền tệ là USD). Khi tỷ giá tăng đẩy chi phí đầu vào lên rất cao, để
tránh bị thiệt hại quá nhiều, các doanh nghiệp sữa buộc phải thay đổi giá sữa thành
phẩm, và kết quả là tăng giá bán các sản phẩm sữa.
Biến động tỷ giá và các đợt tăng giá sữa giai đoạn 2008 – 2010
Năm 2008, trung bình giá nhập khẩu nguyên liệu sữa dao động trong khoảng
4.400 – 5000USD/tấn và theo xu hướng giảm dần từ đầu năm. Tuy nhiên cơn sốt
giá USD tháng 6/2008 đã khiến nhiều doanh nghiệp sữa bị đẩy cao chi phí đầu vào.
Tháng 7/2008, các sản phẩm sữa đã đồng loạt tăng giá từ 7 đến 15%. Các loại sữa
Friso tăng giá 5-15%. Tương tự, Mead Johnson tăng bình quân 10%, giá mới các
loại sữa hộp thiếc EnfaMama A+ loại 900g từ 225.000 đồng lên 259.000 đồng/hộp.
Similac Mom 700g của Abbott từ 191.500 đồng/hộp lên 207.500 đồng/hộp; Đây là
mức giá các hãng thông báo cho đại lý, trên thực tế giá bán lẻ còn tăng cao hơn
mức các công ty công bố trên 10%.Sau cơn sốt, tỷ giá giảm dần nhưng so với đầu
năm 2008, tỷ giá vẫn tăng 8%, chi phí nhập khẩu của các doanh nghiệp sữa so với
đầu năm đã tăng lên rất nhiều, các doanh nghiệp sữa vẫn giữ nguyên giá bán.
Bước sang năm 2009, như đã thống kê ở trên, trong 10 tháng đầu năm, tỷ giá

có nhiều biến động nhưng không đột ngột và dự báo được, các doanh nghiệp sữa
chủ động hơn trong quản lý nhập khẩu, tăng cường phát triển nguồn nguyên liệu
trong nước, giá nguyên liệu sữa và sữa thành phẩm nhập khẩu cũng giảm mạnh,
giảm áp lực tỷ giá. Giá bán sữa tương đối ổn định. Nhưng thời điểm từ tháng 10,
6
áp lực tỷ giá tăng cao, tỷ giá USD có thời điểm tăng hơn 13,2% so với đầu năm.
Nguồn cung ngoại tệ khan hiếm. Theo đánh giá của công ty sữa Vinamilk, tỷ giá
USD bình quân đã tăng hơn 6%. Chênh lệch tỷ giá làm giá trị nhập khẩu sữa
nguyên liệu và sữa thành phẩm đội lên rất nhiều. Giá nguyên liệu sữa tuy ở mức
3750 USD/tấn nhưng tăng 50% so với tháng 9/2009.Chi phí tăng thêm khoảng
900.000USD/tháng, theo Vinamilk, giá bán sữa mặc dù có tăng 6% nhưng mức
tăng này không đủ bù đắp chi phí. Theo tính toán của công ty, để bù lại sự tăng chi
phí do tỷ giá, giá bán sữa sẽ phải tăng đến 35%.
Đầu năm 2010, NHNN tiếp tục nới biên độ, tỷ giá tăng nhẹ và giữ nguyên
không giảm. Các doanh nghiệp sữa không đủ khả năng tiếp tục bù đắp chi phí. Lý
do được đưa ra là do ảnh hưởng tăng chi phí từ cuối năm 2009 trong khi đến năm
2010 tỷ giá không giảm mà tiếp tục tăng nhẹ. Tháng 1/2010 hàng loạt các công ty
sữa như: Công ty Cổ phần Thực phẩm Dinh dưỡng Đồng Tâm Nutifood, Dutch
Lady Việt Nam (tên mới là Công ty FrieslandCampina Việt Nam) cũng có mức
điều chỉnh tăng từ 5-8% đối với các sản phẩm sữa. Các loại sữa nhập khẩu của
Abott Hoa Kỳ cũng có mức tăng khoảng 7,4%. Đại diện nhà phân phối của Abbott
Hoa Kỳ giải thích tuy giá nhập khẩu vẫn giữ nguyên, nhưng tỷ giá giữa USD và
VND có sự thay đổi nên phải thay đổi giá bán sữa.
Tám tháng đầu năm 2010, tỷ giá được giữ ổn định, tuy nhiên trong tháng 7,
sữa lại bước vào đợt tăng giá mới. Một số hãng sữa giải thích rằng do tỷ giá biến
động từ cuối năm 2009 nhưng doanh nghiệp giữ nguyên giá bán, đến thời điểm này
do không thể bù đắp chi phí nên mới đưa ra quyết định tăng giá. Theo trung tâm
thông tin công nghiệp và thương mại (bộ Công thương), từ đầu năm 2010, giá sữa
đều đặn tăng, tập trung vào hai đợt là tháng 1, tháng 3. Những ngày cuối tháng 7,
đầu tháng 8/2010 các hãng sữa ngoại lại tiếp tục tăng giá thêm gần 7%, đây là lần

tăng thứ 3 trong năm nay. Từ cuối tháng 8, NHNN quyết định tăng mạnh tỷ giá
USD/VND và nới rộng biên độ, sau đó giá USD tăng nhanh và khó kiểm soát. Giá
bán sữa lại tăng trong tháng 9 từ 8 – 10%. Một số loại sữa tăng giá như Similac IQ
hộp 400g tăng 0,66% (từ 178.300 lên 191.000 đồng/hộp); Gain Plus IQ 400g tăng
0,66% (từ 160.600 lên 172.000 đồng/hộp); hãng Dream XO (Hàn Quốc) tăng 5%
7
đối với các loại sữa. Mặc dù từ tháng 10, tỷ giá USD/VND tăng chóng mặt nhưng
Thông tư 122 quy định niêm yết giá sữa có hiệu lực từ 1/10/2010 do đó giá sữa
không có thay đổi.
Như vậy, nhìn lại các đợt tăng giá bán sữa qua 3 năm, ta có thể thấy được
mỗi khi tỷ giá tăng thì sau đó giá bán sữa cũng tăng theo. Lý do chủ yếu được đưa
ra là vấn đề chi phí đầu vào quá cao, các doanh nghiệp sữa phải tăng giá bán để bù
đắp chi phí. Khi tỷ giá ổn định, tăng hoặc giảm nhẹ thì giá bán sữa cũng được giữ
ổn định và không thay đổi. Tuy nhiên có trường hợp giá sữa vẫn tăng do ảnh
hưởng của nhân tố khác, trong giới hạn bài nghiên cứu chỉ dừng lại nhìn nhận ở
góc độ ảnh hưởng của tỷ giá.
8

×