Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

TỔ CHỨC dạy học một số KIẾN THỨC CHƯƠNG DÒNG điện XOAY CHIỀU vật lí 12 THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CHO học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.67 KB, 111 trang )

TỔ CHỨC DẠY HỌC MỘT
SỐ KIẾN THỨC CHƯƠNG
DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU
VẬT LÍ 12 THPT THEO
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ
NGHIỆP CHO HỌC SINH


- Tầm quan trọng của giáo dục định hướng nghề nghiệp
cho học sinh trong trường phổ thông
- Quan điểm về giáo dục hướng nghiệp của các nước trên
thế giới
Trên thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển, họ luôn coi
trọng GDHN. Năm 1849 lần đầu tiên cuốn sách “Hướng dẫn
chọn nghề” được xuất bản tại Pháp, cuốn sách cho thấy
GDHN là một vấn đề không thể thiếu khi xã hội ngày càng
phát triển.
Các Mác đã khẳng định, lựa chọn nghề là một việc rất
quan trọng trong cuộc sống con người, do vậy lựa chọn nghề
cần đắn đo suy nghĩ, đó là trách nhiệm đầu tiên của thanh niên
khi vào đời.
Những năm 1918-1919 V.I.LêNin đã yêu cầu giáo dục
phổ thông cần cho học sinh làm quen với khoa học kỹ thuật,
với cơ sở của nền sản xuất hiện đại, đồng thời LêNin cịn chỉ
rõ: khơng nên dạy nghề ở lứa tuổi nhỏ, đề phịng tư tưởng
nghề nghiệp hóa các em quá sớm. Năm 1929 bà N.Crupxkai
đã làm sáng tỏ và cụ thể hóa những luận điểm của V.I.LêNin
trong bài viết “chọn nghề” đã chỉ rõ về ý nghĩa, tầm quan


trọng và sự cần thiết của công tác GDHN nhằm giúp cho


thanh thiếu niên chọn nghề chính xác.
Ngay trong những năm đầu của thế kỷ XX một số nước
như Anh, Mỹ, Pháp đã thành lập nhiều phòng hướng nghiệp,
với chức năng tư vấn chọn nghề cho thanh thiếu niên. Người
ta đã dùng các Test (trắc nghiệm) để xác định khả năng thích
ứng của con người với các nghề đang có nhu cầu tuyển dụng
lao động kỹ thuật.
Quan điểm của UNESCO: “Giáo dục trung học là giai
đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước vào
cuộc sống lao động thực sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho
học sinh lựa chọn một trong nhiều con đường khác nhau.
Hướng nghiệp là một q trình cung cấp cho người học
những thơng tin về bản thân, về thị trường lao động và định
hướng cho người học có các quyết định đúng đối với sự lựa
chọn nghề nghiệp. Hiện nay, người ta đã nhận thấy chỉ cung
cấp thông tin là không đầy đủ, mà cần phải chỉ ra sự phát
triển về mặt cá nhân, xã hội, giáo dục và nghề nghiệp của học
sinh. Một sự thay đổi khác có ảnh hưởng lớn đến hoạt động
nghề nghiệp, nó được nhận thức như là một q trình phát
triển, địi hỏi một cách tiếp cận chương trình chứ khơng chỉ
đơn giản là các cuộc phỏng vấn cá nhân tại các thời điểm


quyết định”[23] . Các hệ thống giáo dục cần phải được thiết
kế đủ linh hoạt để tính đến sự khác biệt cá nhân trong việc tổ
chức các mơ hình học tập, tạo những cầu nối cho những người
bị gián đoạn học tập có thể trở lại học theo hình thức chính
quy
Ở Liên bang Nga hướng nghiệp được thực hiện nhằm
mục tiêu:

- Đảm bảo quyền tự lựa chọn nghề của HS, giúp các em
tự thể hiện nhân cách của mình trong điều kiện quan hệ thị
trường.
- Chỉ rõ nhu cầu của thị trường lao động và tôn trọng
hứng thú nghề nghiệp của con người.
- Nâng cao khả năng thành thạo nghề của cá nhân nhằm
mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về con người lao
động.
Nhật Bản sớm quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
học vấn văn hóa phổ thông với kiến thức và kỹ năng lao động
- nghề nghiệp ở tất cả các bậc học. “Có khoảng 27,9% số
trường phổ thơng trung học vừa học văn hóa phổ thông vừa
học các môn học kỹ thuật thuộc các lĩnh vực cơ khí, ngư
nghiệp, cơng nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ vv.. Sau cấp II có
đến 94% học sinh vào cấp III, trong đó 70% học sinh theo


học loại hình trường phổ thơng cơ bản và 30% học sinh theo
hướng học nghề” [24].
“Tại Hàn Quốc, trong các loại hình trường phổ thơng,
nội dung giảng dạy kỹ thuật - lao động là một bộ phận cấu
thành quan trọng trong chương trình giáo dục. Hết cấp II học
sinh sẽ đi theo hai luồng chính: phổ thơng và chun nghiệp.
Các trường kỹ thuật nghề nghiệp tuyển sinh trước rồi mới
chọn học sinh theo luồng phổ thơng” [24].
“Trung Quốc khuyến khích giáo dục suốt đời một cách
tích cực. Hiện nay, giáo dục dựa trên cộng đồng đang được
phát triển mạnh mẽ. Trong chương trình giảng dạy thường có
các mơn học tự chọn với mục tiêu trang bị cho học sinh
những kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để học sinh

có khả năng tham gia lao động nghề nghiệp ở các lĩnh vực
kinh tế - xã hội khác nhau hoặc tiếp tục học lên trình độ nghề
nghiệp cao hơn ở bậc đại học” [24].
Nội dung giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học
của cộng hịa Pháp được phân hóa theo nhiều phân ban hẹp
trong đó phần lớn là các ban kỹ thuật - công nghệ đào tạo kỹ
thuật viên. Kế hoạch dạy học ở các chuyên ban kỹ thuật công nghệ bao gồm nhiều mơn văn hóa phổ thơng và kỹ thuật
nghề nghiệp theo tỷ lệ khoảng 50/50. Việc cải cách chương


trình giáo dục cơng nghệ ở Pháp nhằm hồn thiện hệ thống
giáo dục kỹ thuật công nghệ ở tất cả các bậc học, làm cho nội
dung giáo dục công nghệ phù hợp với từng giai đoạn giáo dục
và trình độ phát triển khoa học kỹ thuật.
- Quan điểm về giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp trồng
người và công tác GDHN được thể hiện rõ trong đường lối
chủ trương, trong các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng toàn
quốc và Quyết định số 126/CP ngày 19 tháng 3 năm 1981 của
Hội đồng chính phủ về công tác hướng nghiệp trong trường
phổ thông và sử dụng hợp lý học sinh các cấp phổ thông cơ sở
và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường. Quyết định đã
chỉ rõ: “Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thơng
nhằm mục đích bồi dưỡng, hướng dẫn việc chọn nghề của
học sinh cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội đồng
thời phù hợp với năng khiếu cá nhân. Công tác hướng nghiệp
ở các trường gồm:
- Giáo dục thái độ lao động đúng đắn
- Tổ chức cho học sinh thực tập làm quen với một số

nghề


- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của
từng học sinh để khuyến khích, bồi dưỡng khả năng nghề
nghiệp thích hợp.
- Động viên hướng dẫn học sinh đi sâu vào những nghề,
những nơi đang cần lao động trẻ tuổi có văn hóa”.
Thơng tư 31-TT ngày 17 tháng 11 năm 1981 của Bộ
Giáo dục về hướng dẫn thực hiện quyết định 126/CP của Hội
đồng Chính phủ về cơng tác hướng nghiệp trong nhà trường
phổ thông và sử dụng hợp lý học sinh phổ thơng tốt nghiệp
trong đó đã chỉ rõ những hình tức giáo dục hướng nghiệp như:
Hướng nghiệp qua các môn học; Hướng nghiệp qua hoạt động
lao động sản xuất; Hướng nghiệp qua việc giới thiệu các
ngành nghề và Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa.
* GDHN qua hoạt động dạy học các mơn văn hóa, khoa
học cơ bản
Trong nhà trường phổ thơng, các mơn văn hóa, khoa học
cơ bản giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với q trình
phát triển tồn diện nhân cách của học sinh. Chúng đặt nền
tảng cho sự hiểu biết các quy luật phát triển tự nhiên, xã hội
và tư duy đồng thời cung cấp những cơ sở khoa học cho việc
giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giúp cho việc phát huy những sở


trường đa dạng của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc
sống và lao động nghề nghiệp.
Môn học nào cũng cần và cũng có khả năng hướng
nghiệp cho học sinh, tuy nhiên, đây là việc làm khó khăn đòi

hỏi người cán bộ quản lý nhà trường và giáo viên phải có
quan điểm, nhận thức đúng đắn về GDHN, đồng thời ln có
ý thức qn triệt tinh thần trong bài dạy văn hóa, khoa học cơ
bản.
* GDHN qua dạy học mơn cơng nghệ, dạy nghề phổ
thơng
Chương trình mơn cơng nghệ gồm kỹ thuật phục vụ, kỹ
thuật nông nghiệp, kỹ thuật cơng nghiệp. Ở bậc THPT,
chương trình tập trung vào lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp
và công nghiệp.
Giáo dục nghề phổ thông là hoạt động GDHN cho học
sinh phổ thông, một bộ phận của nội dung giáo dục tồn diện
góp phần chuẩn bị một số kỹ năng lao động có kỹ thuật cho
học sinh và góp phần định hướng nghề nghiệp để học sinh có
thể vận dụng vào cuộc sống lao động và lựa chọn hướng phát
triển phù hợp với năng lực của bản thân.
Giáo dục lao động không chỉ đơn thuần tổ chức cho học
sinh tham gia lao động mà có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp


cho học sinh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về lao động
và giáo dục thái độ lao động. Thơng qua đó, hình thành và
phát triển nhân cách cho học sinh, giúp học sinh có đủ năng
lực và phẩm chất, sẵn sàng về tâm thế để tham gia vào cuộc
sống lao động sau khi rời ghế nhà trường.
* GDHN cho học sinh thông qua hoạt động “Giáo dục
hướng nghiệp”
Hoạt động GDHN là con đường chính, có tầm ảnh
hưởng đặc biệt trong hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng vì
nó cung cấp cho học sinh những thông tin nghề nghiệp, hệ

thông đào tạo và thị trường lao động một cách có hệ thống, có
chủ đích. Qua hoạt động GDHN, các em biết được năng lực
của bản thân, điều kiện và truyền thống gia đình để định
hướng lựa chọn nghề nghiệp trong thế giới nghề nghiệp, chọn
hướng đi sau khi tốt nghiệp THPT một cách có ý thức, có cơ
sở khoa học nhằm đạt được ước mơ đích thực của mình.
Hoạt động GDHN qua nhiều dạng hoạt động như: tìm
hiểu nghề qua mô tả nghề, nghe giới thiệu về nghề; Thảo luận
tìm ra cách thức giải quyết những vấn đề về chọn nghề phù
hợp; Trao đổi với phụ huynh học sinh về việc định hướng
nghề cho học sinh; Giao lưu với những điển hình, những
gương vượt khó trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, học


tập; Tham gia ngoại khóa theo các chủ đề; Thực tập lao động
nghề qua học nghề phổ thông.
* Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa
Thơng qua hoạt động ngoại khóa học sinh có thể thu
thập được những thơng tin về các ngành nghề, về nhu cầu
nhân lực của xã hội, các em cũng có điều kiện thử sức với
những ngành nghề mà các em định chọn, nhờ đó giúp các em
có khuynh hướng nghề nghiệp ngày càng rõ, càng chính xác.
Năm 2001 Nghị quyết số 40 của Quốc hội khóa X, chiến
lược phát triển giáo dục 2001-2010, các văn kiện đại hội
Đảng một lần nữa nhấn mạnh đến việc GDHN cho học sinh
THPT nhưng vẫn chưa được các cấp lãnh đạo quan tâm đúng
mức vì chưa rõ tầm quan trọng của GDHN, vì thế GDHN ở
nước ta cịn nhiều hạn chế. Công văn 8410/BGD&ĐT-VP về
việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục lao động- hướng
nghiệp năm học 2007-2008 lại một lần nữa nhắc nhở các Sở

GD&ĐT : “Nghiêm túc triển khai thực hiện đủ hoạt động
GDHN ở các trường THCS, THPT,…” và “ Đẩy mạnh công
tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng để góp phần
phân luồng và chuẩn bị cho học sinh lớp 9 lựa chọn ban học
ở trường THPT hợp lý và giúp học sinh lớp 12 lựa chọn học
lên hoặc đi vào cuộc sống lao động”.


Từ năm 1981 đến năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành chương trình, tài liệu và tiêu chuẩn ngành cho
GDHN trong các trường phổ thông như: Quyết định số
3759/GD-ĐT ngày 10/9/1996; Quyết định số 2600/GD-ĐT
ngày 15/5/1997 Quy định đối với các phịng dạy học và mơn
học nghề.: Làm vườn, chăn ni, làm mộc, sửa chữa xe máy,
gị hàn; Chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày 23/7/2003 về
tăng cường GDHN cho học sinh phổ thông; Văn bản số
6715/VP ngày 02/8/2004; Văn bản số 7078/BGD&ĐT-VP
ngày 12/8/2005; Văn bản số 6903/BGD&ĐT-VP ngày
07/8/2006 về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ về Giáo dục lao
động - hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.
Bộ GD- ĐT đã ban hành công văn 2258/BGDĐT-GDCN
ngày 5/4/2013 về việc phối hợp giữa cơ sở đào tạo TCCN và
TTGDTX trong tổ chức đào tạo TCCN nhằm thực hiện chỉ thị
sô 10/CP-TW ngày 5/12/2011 của Bộ Chính trị về triển khai
đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện tốt việc phân luồng HS
sau khi tốt nghiệp THCS theo hướng tăng tỉ lệ HS vào học các
trường TCCN , đồng thời hỗ trợ các TTGDTX dạy bổ túc văn
hóa THPT gắn với giáo dục nghề nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào
tạo đề nghị các sở giáo dục và đào tạo thực hiện một số công
việc cụ thể như sau:



“+ Chỉ đạo các trường TCCN, cao đẳng, đại học và
các cơ sở giáo dục khác được giao nhiệm vụ đào tạo TCCN
phối hợp với các TTGDTX cấp huyện, các tỉnh tổ chức tuyển
sinh HS tốt nghiệp THCS để đào tạo TCCN đồng thời dạy văn
hóa theo chương trình GDTX cấp THPT trên cơ sở các điều
kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo và chuẩn đầu ra
nhằm thực hiện hiệu quả giải pháp phân luồng HS sau THCS.
+ Hướng dẫn cơ sở đào tạo TCCN và trung tâm GDTX
phối hợp tổ chức đồng thời việc dạy văn hóa theo chương
trình GDTX cấp THPT với đào tạo TCCN cho người học có
bằng tốt nghiệp THCS (theo nhu cầu người học) nhằm tạo
điều kiện cho người học vừa hoàn thành chương trình GDTX
cấp THPT và Chương trình đào tạo TCCN. Việc dạy văn hóa
được thực hiện theo các quy định hiện hành của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về GDTX; việc đào tạo TCCN được thực hiện
theo các quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
đào tạo TCCN. Kết quả các mơn văn hóa trong chương trình
GDTX cấp THPT được cơng nhận là kết quả các học phần
văn hóa trong chương trình đào tạo TCCN. Sau khi hồn
thành chương trình GDTX cấp THPT và chương trình đào
tạo TCCN, nếu đủ điều kiện theo quy định hiện hành, người
học có thể tham dự kỳ thi quốc gia tốt nghiệp THPT và kỳ thi


tốt nghiệp TCCN để có cơ hội nhận được hai bằng tốt nghiệp
(bằng tốt nghiệp THPT hình thức vừa làm vừa học và bằng
tốt nghiệp TCCN); hoặc tham dự một trong hai kỳ thi nói trên
để có cơ hội nhận một trong hai văn bằng tốt nghiệp trên”

[25].
Ở các trường THPT, HS khơng được học song song hai
chương trình: học văn hóa và TCCN nên việc định hướng
nghề nghiệp cho các em còn nhiều hạn chế. Một số trường
THPT bố trí dạy giáo dục tổng hợp với thời lượng 1 tiết/1
tuần. Tuy nhiên nội dung dạy trong các giờ học này không
được quy định cụ thể, giáo viên lên lớp những giờ này thường
là GVCN lớp. Nội dung dạy là do giáo viên chủ nhiệm tự lựa
chọn. Thậm chí, những giờ học này còn được GVCN sử dụng
để làm giờ sinh hoạt với mục đích giải quyết một số cơng việc
của lớp. Do đó, hiệu quả của việc định hướng nghề nghiệp đối
với học sinh chưa cao.
- Đặc điểm cấu trúc nội dung chương “Dịng điện xoay
chiều” - Vật lí 12 THPT
- Đặc điểm chương “Dòng điện xoay chiều” - Vật lí
12THPT
Chương “Dịng điện xoay chiều” là một phần của Điện
học, trong đó đề cập đến các vấn đề:


1. Khái niệm về dòng điện xoay chiều và các đại lượng
vật lí đặc trưng cho dịng điện xoay chiều.
2. Mối liên hệ giữa các đại lượng vật lí trong các loại
mạch điện xoay chiều không phân nhánh.
3. Vấn đề truyền tải điện năng đi xa.
4. Nguyên tắc hoạt động và cấu tạo của máy biến áp.
5. Nguyên tắc hoạt động và cấu tạo của máy phát điện
xoay chiều một pha, ba pha.
6. Nguyên tắc hoạt động và cấu tạo của động cơ không
đồng bộ ba pha.

* Nội dung kiến thức cơ bản của chương “Dòng điện
xoay chiều” - Vật lí 12 có thể chia làm các nhóm:
+ Nhóm 1: Nhóm kiến thức về quan hệ giữa dịng điện
và điện áp xoay chiều trong các loại mạch điện xoay chiều
không phân nhánh.
+ Nhóm 2: Nhóm kiến thức về các loại máy điện (máy
phát điện, động cơ điện ba pha, máy biến áp).


- Sơ đồ cấu trúc nội dung của chương “Dòng điện xoay
chiều” - Vật lí 12
Dịng điện xoay chiều là một phần của Điện học, trong
đó người ta đi nghiên cứu nguyên tắc tạo ra dòng điện xoay
chiều, các đại lượng vật lí đặc trưng cho mạch điện xoay
chiều.
Ở chương này, ta nghiên cứu về phương thức sản xuất ra
dòng điện xoay chiều, cách biến đổi dòng điện xoay chiều và
phương thức truyền tải dòng điện xoay chiều đi xa. Lơgic nội
dung kiến thức của chương có thể được mơ tả bằng sơ đồ sau:


Dòng điện xoay chiề
Các khái niệm
Đại cương về dòng điện xoay chiều

Cường độ hiệu dụng

Hệ thống dòng điện x
Các giá trị tức thời




Đi
Các giá trị tức thời, cực đại, hiệuCác
dụng
giá trị cực đại


Đi


Các giá trị hiệu dụng

Dòng điện xoay chiều
Các đại lượng đặc trưng

Đi

Tần số góc, chu kì, tầ
Pha và pha ban đầu
Cơng suất
Hệ số cơng suất

Quan hệ giữa dịng điện và điện áp trong các mạch điện xoay chiều
Đoạn mạch chỉ có R
u cùng pha với i
Các máy điện (máy phát điện xoay chiều, động cơ không đồng bộ ba pha, máy biến áp)

Nguyên tắc hoạt động
Cấu tạo

Ứng dụng


- Sơ đồ cấu trúc nội dung của chương “Dòng điện xoay
chiều” - Vật lí 12
- Các mục tiêu dạy học chương “Dịng điện xoay chiều” Vật lí 12 [15]


- Mục tiêu về kiến thức
Sau khi học xong về “Dịng điện xoay chiều” - Vật lí 12,
học sinh cần:
+ Viết được biểu thức của cường độ dòng điện và điện
áp tức thời.
+ Phát biểu được định nghĩa và viết được cơng thức tính
giá trị hiệu dụng của cường độ dịng điện, điện áp.
+ Viết được các cơng thức tính cảm kháng, dung kháng
và tổng trở của mạch có R, L, C mắc nối tiếp và nêu được đơn
vị đo các đại lượng này.
+ Viết được cơng thức tính cơng suất điện và cơng thức
tính hệ số cơng suất của đoạn mạch RLC nối tiếp.
+ Nêu được lí do tại sao cần phải tăng hệ số công suất ở
nơi tiêu thụ điện.
+ Nêu được những đặc điểm của đoạn mạch RLC nối
tiếp khi xảy ra hiện tượng cộng hưởng điện.
2.3.2. Mục tiêu về kĩ năng
+ Vẽ được giản đồ Fre-nen cho đoạn mạch RLC nối tiếp.


+ Giải được các bài tập đối với đoạn mạch RLC nối tiếp.
+ Giải thích được nguyên tắc hoạt động của máy phát

điện xoay chiều, động cơ điện xoay chiều ba pha và máy biến
áp.
+ Tiến hành được thí nghiệm để khảo sát đoạn mạch
RLC nối tiếp.
2.3.3. Mục tiêu về thái độ
+ Có hứng thú học mơn vật lí nói chung và những kiến
thức về “Dịng điện xoay chiều” nói riêng, sẽ u thích tìm
đến khoa học, biết trân trọng đối với những đóng góp của vật
lí học cho sự tiến bộ của xã hội và những công lao to lớn của
nhà khoa học.
+ Có thái độ khách quan trung thực, có tác phong
chun cần, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác và tinh thần hợp tác
trong học tập cũng như trong việc áp dụng những kiến thức về
“Dòng điện xoay chiều” vào thực tế của cuộc sống và khoa
học kĩ thuật.


- Tìm hiểu tình hình dạy học chương “Dịng điện xoay
chiều” - Vật lí 12
- Mục đích điều tra:
Tìm hiểu thực tế dạy học nội dung kiến thức chương
“Dòng điện xoay chiều” - Vật lí 12 ở một số trường THPT,
Trung tâm GDNN-GDTX trên địa bàn thị xã Sơn Tây - Hà
Nội nhằm thu thập các thông tin về:
+ Phương pháp dạy học mà giáo viên đã sử dụng và
những thuận lợi, khó khăn giáo viên gặp phải trong quá trình
dạy học chương “Dịng điện xoay chiều” - Vật lí 12.
+ Mức độ kiến thức và kĩ năng mà học sinh nắm được
khi học các kiến thức chương “Dòng điện xoay chiều”, những
sai lầm, khó khăn, vướng mắc về kiến thức, kĩ năng giải bài

tập, thực hành thường gặp ở học sinh và những kĩ năng giải
quyết các vấn đề liên quan cịn yếu.
+ Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo
của học sinh trong quá trình học tập và nghiên cứu các kiến
thức chương “Dịng điện xoay chiều”.


+ Đặc biệt, tình hình tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng
tạo trong dạy học vật lí ở các trường THPT và trung tâm
GDNN-GDTX trên địa bàn thị xã Sơn Tây.
Từ những kết quả tìm hiểu, điều tra trên chúng tôi lấy làm
cơ sở để xây dựng nội dung, phương pháp, nhiệm vụ và hình
thức tổ chức dạy học một số kiến thức chương “Dịng điện xoay
chiều” - Vật lí 12 theo định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
- Phương pháp điều tra
Để đạt được mục đích trên, chúng tơi đã sử dụng một số
phương pháp điều tra sau đây:
- Phỏng vấn lãnh đạo nhà trường, tổ trưởng tổ chuyên
môn về cơ sở vật chất phục vụ môn học, năng lực của giáo
viên bộ môn, chất lượng đào tạo chuyên môn.
- Điều tra từ GV: trao đổi trực tiếp với GV, dùng phiếu
điều tra, tham khảo giáo án giảng dạy của GV (theo mẫu
phiếu điều tra GV, phụ lục 1).
- Điều tra từ HS: trao đổi trực tiếp với HS, dùng phiếu
điều tra, xem vở ghi chép hay cho HS làm bài kiểm tra (theo
mẫu phiếu điều tra HS, phụ lục 2).


- Phân tích kết quả điều tra.
- Đối tượng điều tra

Chúng tôi đã tiến hành điều tra đối với 5 GV dạy mơn
vật lí và 90 HS của trường THPT Tùng Thiện - thị xã Sơn
Tây - Hà Nội. Đồng thời, chúng tôi tiến hành điều tra đối với
5 GV dạy mơn vật lí và 80 HS tại trung tâm giáo dục nghề
nghiệp-giáo dục thường xuyên Sơn Tây - thị xã Sơn Tây - Hà
Nội. Trên cơ sở phân tích các kết quả điều tra chúng tôi nhận
thấy:
- Kết quả điều tra
- Đối với giáo viên
* Tình hình GV
- Tất cả các GV giảng dạy bộ mơn vật lí của trường
THPT Tùng Thiện và trung tâm GDNN-GDTX Sơn Tây đều
được đào tạo chính quy tập trung từ các trường Đại học sư
phạm trong cả nước như: Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, Đại học Sư phạm Thái Nguyên…
- Phần lớn GV được đánh giá chuyên môn khá, giỏi
giảng dạy đúng chuyên môn, một số là GV dạy giỏi cấp tỉnh


và có trình độ Thạc sĩ chun ngành lí luận và phương pháp
dạy học bộ mơn vật lí. Đội ngũ GV phần lớn có tuổi đời trẻ,
năng động, nhiệt tình và tâm huyết với công việc chuyên môn.
Song không tránh khỏi hạn chế do thiếu kinh nghiệm, áp lực
của cuộc sống gia đình, trách nhiệm cơng việc. Mặt khác, do
đội ngũ GV mỏng nên chiếm nhiều thời gian lên lớp, dẫn đến
việc chuẩn bị các tiết dạy chính khóa và nhiệm vụ giao về nhà
cho HS chưa chu đáo, chưa đa dạng.
* Phương pháp dạy học
Qua việc tổng hợp kết quả ở phiếu điều tra, tham khảo ý
kiến GV, trao đổi trực tiếp, tham khảo giáo án của các GV vật

lí của trường THPT Tùng Thiện và trung tâm GDNN-GDTX
Sơn Tây về tình hình dạy học chương “Dịng điện xoay chiều”
- Vật lí 12, chúng tơi nhận thấy:
- Hầu hết GV vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ,
thuyết trình, thơng báo. Các giáo án của GV chủ yếu là tóm
tắt lại kiến thức SGK, chưa hoạch định hoặc hoạch định chưa
rõ các hoạt động của GV và HS trong mỗi giờ học. Vai trò tổ
chức, định hướng của GV chưa được thể hiện rõ. Quá trình
thực hiện bài dạy, nhiều khi GV vẫn chỉ diễn đạt bằng lời: Mô


tả, giải thích hiện tượng, giảng giải, chưa nhấn mạnh cho HS
những kiến thức cơ bản hay nội dung quan trọng.
- Trong quá trình giảng dạy, GV cũng đưa ra các câu hỏi
hoặc các tình huống có vấn đề cho HS, nhưng chúng tơi thấy
các câu hỏi đó vẫn mang tính chung chung, cịn rời rạc, các
tình huống khơng cụ thể, làm cho HS khơng có cái nhìn tổng
qt về vấn đề hay cách giải quyết toàn diện vấn đề, khơng có
tác dụng phát triển tư duy cho HS.
Ví dụ: Khi dạy về máy phát điện xoay chiều, động cơ
không đồng bộ ba pha, máy biến áp, truyền tải điện năng, GV
chỉ đưa ra các câu hỏi liên quan giới thiệu qua loa cho HS và
yêu cầu HS về nhà tự tìm hiểu thêm mà khơng sử dụng bằng
các mơ hình hay thí nghiệm, vì vậy q trình dạy học sẽ khiến
cho HS bị thụ động, không tự lực nhận thức được vấn đề.
- Phương pháp dạy học chưa phát huy được tính tích cực
và chưa phát triển được tính sáng tạo của HS. Trong các giờ
học, có những hoạt động mà HS có thể thực hiện được, có thể
giúp HS phát huy tính tích cực hoặc phát triển năng lực sáng
tạo nhưng GV vì nhiều lí do đã làm hộ cho HS.



Ví dụ: Khi dạy kiến thức về nguyên tắc tạo ra dòng điện
xoay chiều, GV chỉ dạy nguyên tắc dạng lí thuyết mà khơng
u cầu HS thiết kế, chế tạo DCTN và tiến hành thí nghiệm
để thấy được nguyên nhân xuất hiện suất điện động xoay
chiều. Nếu GV yêu cầu HS thiết kế, chế tạo DCTN và tiến
hành thí nghiệm thì có tác dụng rất lớn trong việc phát huy
tính tích cực, tăng sự hứng thú trong học tập, giúp các em
hiểu bài kĩ hơn, đặc biệt cịn có tác dụng trong việc phát triển
năng lực sáng tạo và khả năng tư duy của HS.
Hầu hết GV được hỏi (8/10 GV) đều cho rằng phần kiến
thức này khá trừu tượng, rất khó dạy cho HS hiểu rõ bản chất,
tuy có nhiều ứng dụng trong thực tế và khoa học kĩ thuật
nhưng số giờ dành cho học chính khóa lại rất hạn chế (cả
chương trình chuẩn và chương trình nâng cao đều được phân
phối 14 tiết, cả tiết bài tập và thực hành). Điều này sẽ làm cho
HS rất khó khăn trong việc hiểu sâu kiến thức. GV cũng cho
biết ít khi họ sử dụng thí nghiệm trong khi nghiên cứu bài mới
vì khơng đủ thời gian; một số GV có làm thí nghiệm biểu diễn
cho HS nhưng khơng thường xun, chỉ làm các thí nghiệm
có sẵn trong phịng thí nghiệm.


×