Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

ý tưởng kinh tế từ các chuyên gia tiền bối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.14 KB, 26 trang )

Lời nói đầu
Năm 2007, Nhà xuất bản Tri thức đã ra mắt bản dịch cuốn Ý tưởng mới từ các kinh tế gia
tiền bối (Hướng tới những tư tưởng kinh tế hiện đại). Hiếm khi chúng ta có thể tìm thấy một
tổng thuật các lý thuyết kinh tế học và thị trường thế giới hiện đại được trình bày một cách
rõ ràng, chặt chẽ và lôi cuốn đến như vậy.
Tuy nhiên, bản dịch đã được xuất bản tại Việt Nam lại thiếu sót một chương quan trọng
nói về Karl Marx. Đây là một chương hết sức thú vị thể hiện quan điểm của một học giả
phương Tây đối với người thày của chủ nghĩa cộng sản, Karl Marx. Nay tôi xin phép ra mắt
bạn đọc bản dịch tiếng Việt toàn bộ chương VI của nguyên bản tiếng Anh tái bản có chỉnh
sửa lần 2 vào năm 2007 tại Mỹ.
Bản dịch này do tôi hiệu đính lại từ một bản dịch của một dịch giả vô danh trên mạng.
Bản hiệu đính này đã có sự tham khảo và bổ sung các thuật ngữ kinh tế chính trị Marx-Lenin.
Tôi đã quyết định trích lại bằng tiếng Việt toàn bộ những đoạn trích của Marx mà tác giả sử
dụng từ bộ Toàn tập Mác - Ăngghen do NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành.
Đọc chương VI về Karl Marx, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn cảnh về các lý thuyết kinh
tế của Marx cũng như chủ nghĩa Marx mà hiếm một tác phẩm nào ở Việt Nam có được. Với
văn phong trong sáng, ngắn gọn nhưng rõ ràng, tác giả đã làm cho những tư tưởng của
Marx trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều với bạn đọc Việt Nam. Tôi hy vọng đây là một tác phẩm
có thể giải đáp được cho bạn đọc, nhất là những bạn đọc trẻ những câu hỏi về Marx và chủ
nghĩa cộng sản trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc.
YesMan2008
Thành viên Diễn đàn X-cafevn.org - Tôn trọng sự khác biệt

CHƢƠNG VI
KARL MARX - NHÀ TIÊN TRI GIẬN DỮ

Khi còn là một cậu bé, Adam Smith đã có lần bị vài tên ranh ma bắt cóc. Sau vài giờ bắt cóc,
chúng đã thả cậu xuống lề đƣờng và cậu đã đƣợc trả về cho gia đình. Một nhà viết tiểu sử đã nhận xét
rằng nhà kinh tế học đãng trí, ngây thơ không thể trở thành một kẻ xảo quyệt đƣợc. Ngƣời ta cũng nói
rằng may mắn là Karl Marx chƣa bao giờ bị các nhà tƣ bản bắt cóc. Ông ta không thể trở thành một
nhà tƣ bản giỏi giang đƣợc. Giống nhƣ việc ông không bao giờ là nhà tiêu dùng thông thái. Marx luôn


ngập chìm trong nợ nần.

Bằng những lời đanh thép và lối viết kích động, Marx đã đoán trƣớc sự sụp đổ của chủ nghĩa tƣ
bản. Trƣớc cả khi ông tiến hành nghiên cứu cẩn thận về những quy luật của chủ nghĩa tƣ bản và bộ
quy tắc bí ẩn quyết định sự phát triển của nền văn minh.

Vị trí của Marx trong lịch sử các học thuyết kinh tế là rất khó xác định. Bằng nhiều cách, các nhà
kinh tế học chính thống ngày nay lùa Marx sang cuộc đàm luận cocktail của những nhà tƣ bản. Tuy
nhiên vẫn có một tỷ ngƣời đang phải vật lộn để tồn tại dƣới những chế độ tự nhận mình là trung thành
với chủ nghĩa Marx. Cùng với Freud và Darwin, Marx tác động ghê gớm tới tƣ duy của thế kỷ XX.
Nhƣng trong suốt cuộc đời mình, Marx có rất ít tiếng tăm và ít ngƣời ủng hộ. John Stuart Mill, một
ngƣời có học vấn uyên bác nhất trong thời đại của Marx lại chƣa bao giờ nghe đến tên ông.

Marx là một ngƣời đƣợc tận hƣởng buổi bình minh của giai cấp tƣ sản trong thị trấn Trier vùng
Rhineland. Sinh năm 1818, ông đã hòa nhập với tầng lớp trung lƣu và thƣợng lƣu của Trier. Sau này,
Marx đã bày tỏ niềm tự hào rằng ngƣời cha Heinrich của mình, một luật sƣ xuất sắc, cũng sở hữu một
vƣờn nho. Ngƣời vợ tƣơng lai và là bạn thời thơ ấu của Marx là Jenny sống ngay gần đó. Cha của bà
là Nam tƣớc Von Westphalen đƣợc Marx coi nhƣ một ông bác lúc Marx còn bé.

Sau khi ngƣời anh ruột chết lúc bốn tuổi, Marx trở thành anh cả và bắt đầu bắt nạt những đứa em
gái kém thông minh hơn. Một trò chơi ƣa thích của Marx là “cƣỡi” lên lƣng em gái mình và bắt chúng
chạy hộc tốc nhƣ những con ngựa khắp các dãy phố của thị trấn Trier. Ngoài trò cƣỡi ngựa ra, Marx
còn ép những đứa em gái của mình tham gia những cuộc thi ăn bánh mà họ phải ăn những chiếc bánh
đƣợc cậu làm ra với hai bàn tay không rửa ráy gì và cứ để bẩn mà nhào bột. Mặc dù vậy, những đứa
em gái của Marx ngƣỡng mộ sự thông minh của cậu và những câu chuyện thú vị cậu kể cho các em.
Những bạn cùng lớp với Marx cũng yêu quý và sợ cậu, ngƣời làm cả lớp cƣời bằng những trò đùa tinh
quái và cũng làm cho mọi ngƣời sợ rùng mình bởi những câu thơ mỉa mai châm biếm của cậu.

Suốt cuộc đời mình, Marx có thiên hƣớng và khiếu phê phán cay độc và lạm dụng việc chỉ trích cá
nhân. Ông đã thoát khỏi vài cuộc công kích đầy ác ý đối với nguồn gốc Do Thái của mình. Cha mẹ

của Marx đều xuất thân từ những dòng dõi giáo sĩ Do Thái xuất sắc. Chú của ông là ngƣời đứng đầu
giới giáo sĩ Do Thái ở Trier. Tuy vậy, những đạo luật bài Do Thái đã khiến cha của Marx quyết định
cải đạo sang Cơ đốc giáo, cho dù ông coi những ngƣời Do Thái mới chính là những "tín đồ cùng chí
hƣớng". Nhƣng con trai ông lại hắt hủi tổ tiên Do Thái của mình một cách hết sức ngang ngạnh. Các
học giả có thể tranh luận liệu ông có thực sự có tƣ tƣởng bài Do Thái hay không. Nhƣng không có gì
phải nghi ngờ rằng chính Marx đã từng thốt ra rất nhiều câu lăng mạ, sỉ nhục độc địa.
1


Giống nhƣ John Stuart Mill, Marx đã hít đủ cả hai thứ chất độc hại là chủ nghĩa lãng mạn và chủ
nghĩa duy lý. Cha cậu truyền thụ cho cậu chủ nghĩa duy lý của Pháp thế kỷ XVIII đã đƣợc những
ngƣời kinh nghiệm chủ nghĩa ở Anh làm cho đỡ cứng nhắc. Ông khuyên con trai mình "quy phục" với
"niềm tin của Newton, Locke và Leibnitz".
2
Trong khi đó, Nam tƣớc Von Westphalen đầy học thức đã
bỏ bùa mê cậu thanh niên trẻ tuổi Karl Marx bằng cách dắt cậu đi dạo khắp những cánh rừng điền
viên và kể cho cậu những câu chuyện của Shakespeares, Homer và những ngƣời theo phái lãng mạn.
Trớ trêu thay, chính ngài nam tƣớc quý tộc lại là ngƣời đƣa Marx đến với chủ nghĩa xã hội không
tƣởng và không có giai cấp. Trí óc sắc sảo và sáng suốt của ông Heinrich không mảy may tác động
đƣợc tới con trai mình nên Marx có lẽ đã tin vào những ý niệm mờ nhạt, mơ hồ của những ngƣời theo
chủ nghĩa không tƣởng. Nhƣng hễ ở đâu họ trông thấy hạnh phúc, là Marx lại thấy có đấu tranh.

Tại Đại học Tổng hợp Bonn, cuộc đấu tranh lớn nhất mà Marx đƣơng đầu là thói nghiện rƣợu và
thói tiêu tiền phóng túng của mình. Cậu đã thua cuộc còn ông Heinrich thì mất rất nhiều tiền. Marx
học luật và thu đƣợc một chút kinh nghiệm thực tiễn về luật pháp khi cậu bị bắt giam vì tội say mèm.
Kể từ khi trƣờng đại học có thùng rƣợu cho uống đến say thì việc bắt giam không còn nghiêm khắc
nữa. Những ngƣời khách có thể chơi bài và tiếp tục uống với ngƣời đang bị xử phạt. Sự tự do phóng
túng đã chứng tỏ tác dụng. Thắng lợi chính trị đầu tiên của Marx làm cho cậu trở thành vị chủ tịch hội
Tửu quán Trier.


Sau một năm với những bữa tiệc ở Bonn, Heinrich chuyển cậu con trai quý tử của mình sang Đại
học Berlin, một nơi ít chè chén nhậu nhẹt hơn. Ông hy vọng nhƣ vậy. Nhƣng Heinrich nhanh chóng
mất ngay hy vọng: "Cứ nhƣ thể là chúng tôi đƣợc làm bằng vàng. Cậu con trai quý tử của tôi tiêu sạch
700 đồng thale chỉ trong vòng có một năm, vi phạm mọi điều cam kết và các tục lệ. Trong khi đó
ngƣời giàu nhất cũng chỉ tiêu có hơn 500 đồng thôi".
3
Những ngƣời cho vay đã kiện Marx vài lần.
Việc này khiến cậu phải chuyển nhà ít nhất là mƣời lần trong vòng năm năm ở Berlin.

Heinrich còn phàn nàn nhiều hơn về sự phóng đãng: Marx là một kẻ lƣời biếng và bẩn thỉu. Một
ông thánh biện hộ cho những sinh viên đại học đầu tóc bù xù, không tắm rửa gì. Nƣớc da ngăm đen
làm cho cậu có cái biệt danh "Ngƣời Maroc". Những ngƣời bạn và những đứa con của ông sau này
thƣờng hay gọi ông nhƣ thế một cách trìu mến. Với màu da tối và mái tóc dài bết chặt vào nhau, cậu
xuất hiện nhƣ là một lời biện hộ bờm xờm cho một sinh viên.

Heinrich cũng phản đối sự vòng vo trong con đƣờng học vấn của Marx khi cậu chọn học môn luật
và triết học. Nếu Marx đi loanh quanh, chắc chắn cậu ta sẽ đi loanh quanh ở bên ngoài lớp học. Trong
những năm học cuối, cậu chỉ theo có vài cua học và trở thành một "sinh viên tự do phóng túng, một
ngƣời chỉ coi trƣờng đại học nhƣ là nơi cắm trại".
4
Mặc dù vậy, Marx học triết học theo cách của
riêng mình và gia nhập Phái Hegel trẻ, những ngƣời phê phán triệt để tôn giáo và những môn đệ theo
chủ nghĩa chiết trung của Hegel - một triết gia ở Berlin đã qua đời vài năm trƣớc khi sự nghiệp học
đại học của Marx bắt đầu. Marx đã tiếp thu một cách tài tình phƣơng pháp của Hegel và chứng minh
cho thế giới thấy rằng bỏ học đôi khi phải trả giá (mặc dù không phải trả giá về mặt tài chính).

Thật không may, Marx chƣa bao giờ chứng minh đƣợc điều này với cha mình. Cha cậu đã qua đời
vào năm 1838. Marx vẫn giữ đƣợc lòng thƣơng trìu mến đối với cha mình, cậu luôn mang theo mình
một bức ảnh của cha. Nhƣng Marx không bao giờ thể hiện lòng yêu mến nhƣ vậy đối với mẹ cậu, cậu
chỉ coi bà nhƣ một nguồn tài trợ keo kiệt. Cậu không tham dự đám tang của bà và cũng chẳng hề chảy

nƣớc mắt khi bà qua đời.
Sau cái chết của cha, Marx nghĩ khôn ngoan hơn cả là nên kết thúc việc học hành ở đây. Đột nhiên
cậu hăm hở rời bỏ học thuật rồi từ chối nộp bản luận văn về triết học Hy Lạp của mình theo các thủ
tục nghiêm ngặt ở Đại học Berlin. Thay vào đó, cậu gửi luận văn tới Đại học Jena, một xƣởng sản
xuất bằng cấp có tiếng. Một cua học từ xa sáu tuần lẽ ra phải kéo dài hơn. Chỉ vài ngày sau đó, Jena
đã lấy con dấu cao su mục nát của mình và phong tặng cậu học vị tiến sĩ.
Nhà báo trẻ tuổi
Với mảnh bằng trong tay, Marx loanh quanh trong giới báo chí, viết rồi sau đó làm biên tập cho tờ
Rheinische Zeitung, một tờ báo tự do của giới trung lƣu. Thật trớ trêu, ông kiểm soát đƣợc các tay bút
cấp tiến hơn của tờ báo, những ngƣời có khuynh hƣớng cộng sản chủ nghĩa. Chính phủ chuyên chế
Phổ rất muốn kiểm duyệt sự phê phán và Marx thƣờng phải làm việc với các quan chức ngốc nghếch
này. Có lần họ đã kiểm duyệt và cấm quảng cáo cho bản dịch tác phẩm Hài kịch Thánh thần của
Dante. Tại sao? Ở nƣớc Phổ, nhà ngƣơi không đƣợc nhạo báng thánh thần thông qua hài kịch.
Một ngƣời quan sát giai đoạn Marx làm việc ở tờ báo đã phác họa chân dung của nhà biên tập trẻ:

Karl Marx ngƣời xứ Trier là một con ngƣời mạnh mẽ mới có 24 tuổi. Mái tóc đen, dày, xoăn,
trùm lên cằm, lên cánh tay, mũi và cả tai. Anh ta độc đoán, hống hách, mạnh mẽ, đầy đam mê,
vô cùng tự tin. Nhƣng đồng thời rất ham hiểu biết và học hỏi, một nhà biện chứng không ngơi
nghỉ. Một ngƣời với sự thông thái kiểu Do Thái đã đẩy mọi quan điểm của học thuyết Hegel
trẻ tới kết luận cuối cùng. Và sau đó, nhờ sự tập trung nghiên cứu về kinh tế của mình, anh ta
đã sẵn sàng đƣa niềm tin của mình đến với chủ nghĩa cộng sản. Dƣới sự lãnh đạo của Marx,
tờ báo non trẻ ngay lập tức bắt đầu nói năng liều lĩnh.
5


Chính phủ phản ứng lại sự xấc xƣợc của Marx bằng cách đƣa ra một lựa chọn: hoặc là tờ báo phải
đóng cửa, hoặc là Marx phải rời bỏ nó. Marx đã từ chức.

Ông đã mất việc làm. Nhƣng đồng thời ông lại kiếm đƣợc một ngƣời vợ là Jenny von
Westphanlen. Những ngƣời họ hàng của cô nghĩ rằng con gái của nhà quý tộc đã kết hôn với một kẻ

thấp kém. Tuy nhiên họ không biết rằng cô ta sẽ tụt dốc bao xa.

Năm 1843, gia đình Marx chuyển đến Paris. Ở đó Marx biên tập một tạp chí chính trị mới, bắt đầu
xem xét chủ nghĩa cộng sản, nhập bọn với đám ngƣời cấp tiến trẻ và ngạo mạn. Những ngƣời mà
Heinrich Heine mô tả nhƣ là một "đám ngƣời vô thần và tự cho mình là Chúa".
6
Tờ tạp chí chỉ xuất
bản một số. Ngay sau đó Marx và những ngƣời bạn theo chủ nghĩa cộng sản của ông bất đồng với
đồng chủ biên Arnold Ruge. Ruge cũng học cách bất chấp đám đông vô thần này: "Họ mong muốn
giải phóng con ngƣời… nhƣng lúc này đây họ đặt trọng tâm lớn nhất vào của cải và đặc biệt là vào
tiền… Để giải phóng những ngƣời vô sản về mặt trí tuệ và thể xác khỏi gánh nặng của sự bần cùng,
họ mơ có một tổ chức có thể phổ biến sự nghèo khổ này và bắt tất cả mọi ngƣời phải chịu cái gánh
nặng của sự nghèo khổ đó".
7


Là một kẻ trong đám ngƣời đó, Friedrich Engels trở thành một ngƣời quan trọng trong cuộc đời và
sinh kế của Marx. Là con trai của một ông chủ công xƣởng giàu có, Engels có hai cuộc sống. Ban
ngày ông làm việc trong doanh nghiệp của cha mình và kiếm đƣợc một đồng lƣơng đáng kể nhƣ một
nhà tƣ bản. Ban đêm ông đọc Hegel và các nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù là một ngƣời
Đức, Engels sống ở Anh trong vài năm và cai quản doanh nghiệp dệt may của gia đình. Sau một thời
gian sống ở Manchester, ông viết bài bóc trần và phê phán gay gắt sự nghèo khổ ở nƣớc Anh có tên là
Tình cảnh giai cấp công nhân Anh năm 1844. Nhƣng Engels không tự nguyện đem những thu nhập tƣ
bản của mình chia cho ngƣời nghèo hay từ bỏ những thói hƣ tật xấu kiểu tƣ sản của mình. Thực ra,
ông dƣờng nhƣ không bị giằng xé gì về mặt tâm lý bởi cuộc sống lƣỡng phân của mình. Ông cảm thấy
khá thoải mái với trò đi săn cáo, nhâm nhi những cốc rƣợu xê rét và đấu kiếm. Ông có thể nâng một
cốc champagne hảo hạng và uống mừng ngƣời vô sản một cách rất hào hoa. Khi nào không săn đuổi
cáo thì ông săn đuổi phụ nữ. Ông cũng tuyên bố rằng: "Nếu tôi có một thu nhập 5.000 franc, tôi sẽ
không làm gì mà chỉ việc vui thú với đàn bà cho tới khi chết. Nếu không có đàn bà Pháp, cuộc đời sẽ
không còn gì đáng sống nữa."

8
Đúng là một bƣớc nhảy vọt khỏi quan niệm của Socrates: "Không
khám phá hết cuộc đời thì thật không đáng sống".

Trong những năm 1840, Marx bắt đầu xây dựng những học thuyết sau này làm thay đổi thế giới.
Tất nhiên không phải ai cũng tán thành. Chính quyền Phổ liệt quan điểm trong những bài viết của
Marx vào sổ đen khi tuyên bố Marx mắc tội mƣu phản. Khi nƣớc Pháp trục xuất ông một năm sau đó,
ông đã lánh sang Bỉ.

Những bài viết phản động đã buộc Marx và gia đình của ông phải di chuyển từ một nƣớc châu Âu
này sang một nƣớc châu Âu khác là gì vậy? Trong những năm 1840, Marx xây dựng những cơ sở triết
học và lịch sử cho việc nghiên cứu chủ nghĩa tƣ bản. Những lý thuyết này chứng minh điều gì? Nào là
những nền móng của chủ nghĩa tƣ bản sẽ nhanh chóng suy sụp, nào là quần chúng sẽ sớm vùng lên
làm cách mạng và làm rung chuyển những kẻ có của cho tới khi họ phải lật nhào khỏi chân đế của
mình.

Nhà duy vật lịch sử
Triết học và lịch sử của Marx đều sử dùng những thuật ngữ của Hegel, nhƣng ông không sử dụng
nhƣ một con vẹt. Marx dùng đúng những từ đó nhƣng ông thay đổi trật tự. Để hiểu đƣợc ông làm điều
đó nhƣ thế nào, trƣớc hết hãy xem xét một nguyên lý cơ bản của ngƣời thầy thông thái của ông.
Hegel dạy rằng mục tiêu của triết học nằm ở những tri thức có đƣợc từ việc khám phá ra những ý
niệm. Những ý niệm và tinh thần loài ngƣời dẫn dắt lịch sử. Thế giới vật chất, những thứ mà chúng ta
nhìn thấy và sờ mó đƣợc và những thiết chế trong xã hội đều đƣợc dẫn dắt bởi những ý niệm. Nhà xã
hội học ngƣời Đức - Max Weber cũng dùng luận điểm này trong công trình nổi tiếng của mình là Nền
đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Nói một cách đơn giản, Weber tin rằng sự nổi
dậy của đạo Tin Lành sẽ dẫn tới chủ nghĩa tƣ bản; nghĩa là lòng tin vào Chúa đã chuyển thành những
thiết chế kinh tế.
Theo Hegel, chúng ta có thể truy tìm dấu vết của lịch sử nhờ những chủ nghĩa dân tộc từng có ảnh
hƣởng lớn: thời đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và nhiều thời đại khác nữa. Là một ngƣời yêu nƣớc,
Hegel nghĩ nƣớc Phổ là ngƣời lãnh đạo thời đại của nó.

Marx phản đối chủ nghĩa duy tâm của Hegel. Theo gót nhà triết học Đức Ludwig Feuerbach, Marx
tìm kiếm những lực lƣợng duy vật trong lịch sử. Theo tác phẩm Bản chất đạo Cơ đốc của Feuerbach,
Chúa chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những mong muốn, những đòi hỏi và những đặc trƣng của con
ngƣời. Con ngƣời sáng tạo ra Chúa; Chúa không sáng tạo ra con ngƣời. Cái thực sự có trên đời là con
ngƣời đã dẫn đến ý tƣởng về Chúa. (Những tác phẩm của Feuerbach làm cho Marx sau này lên án tôn
giáo, coi đó là "thuốc phiện của nhân dân".
9
Chừng nào mà con ngƣời còn biểu hiện những khát khao
của mình lên Chúa và cõi âm thì họ sẽ thụ động chấp nhận những điều kiện vật chất và sự bất công ở
thế giới thực tại)
Cho tới giờ Marx có vẻ giống một kẻ đào tẩu khỏi trƣờng phái Hegel hơn là một ngƣời theo phái
Hegel Trẻ. Nhƣng Marx vẫn giữ lại cái then chốt trong phƣơng pháp của Hegel là phép biện chứng.
Hegel quả quyết rằng lịch sử, giống nhƣ thực tại, không tuân theo dạng thức từ từ và bằng phẳng. Nó
cũng không bao gồm hàng loạt những sự kiện xảy ra độc lập. Lịch sử hàm chứa sự đấu tranh giữa
những mặt đối lập. Mọi tƣ tƣởng đều có mặt đối lập của nó. Các nhà triết học thƣờng tóm lƣợc phép
biện chứng của Hegel bằng cách nói rằng mọi luận đề hay tƣ tƣởng đều bị phản bác bởi những phản
đề của nó. Cuộc chiến giữa những tƣ tƣởng này tạo ra một hợp đề hay một luận đề mới. Rồi luận đề
mới này lại gặp những phản đề của nó. Thế giới luôn thay đổi. Lịch sử không bao giờ lặp lại chính nó.
Mặc dù những nhà sử học ba hoa có thể lặp lại chính họ.
Hãy so sánh phƣơng pháp biện chứng với cách tiếp cận kiểu Newton đối với kinh tế học, một cách
tiếp cận chỉ nhìn thấy những mối quan hệ nhân quả không thay đổi. Điều duy nhất không thay đổi
trong cách nhìn nhận của Hegel là luôn luôn tồn tại sự biến chuyển.
Marx lắp ráp phƣơng pháp biện chứng vào chủ nghĩa duy vật. Engels sau này đặt tên cho sự kết
hợp này là chủ nghĩa duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nếu cái đầu của Hegel ở trên
mây thì Marx muốn cắm mũi của chúng ta xuống đất. Ông nói rằng lịch sử xảy ra trên Trái đất. Hãy
quên việc nghiên cứu tôn giáo, đạo đức hay chủ nghĩa dân tộc đi. Chỉ cần nhìn ra cửa sổ và hãy xem
cách thức mà con ngƣời phải vật lộn để có đƣợc những thứ thiết yếu chỉ cốt cho đủ sống. Chẳng có
lịch sử nếu không có con ngƣời. Và cũng chẳng có con ngƣời nếu không có thức ăn. Do vậy, "hành
động lịch sử đầu tiên là …sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn những nhu cầu đó".
10

Các nhà sử
học duy tâm có lẽ cũng viết lịch sử của xứ Oz nhƣ vậy.
Marx vẽ ra con đƣờng đi của lịch sử từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến tới chủ
nghĩa tƣ bản rồi tới chủ nghĩa xã hội. Con đƣờng này không nằm ở trên các vì sao hay trong các quy
luật mà là trong sản xuất, cụ thể hơn là trong mối quan hệ của con ngƣời với quá trình sản xuất. Mỗi
một hệ thống sản xuất đều tạo ra những giai cấp thống trị và bị trị. Mỗi một thời đại đƣợc đánh dấu
bởi một cách thức nhất định để những kẻ cai trị bóp nặn thêm thu nhập cho mình. Trong thời đại La
Mã, bất cứ kẻ nào sở hữu nô lệ đều nắm quyền sở hữu đối với sản lƣợng do nô lệ làm ra. Trong thời
kỳ phong kiến, các địa chủ nắm quyền sở hữu những sản lƣợng của nông nô. Dƣới chủ nghĩa tƣ bản,
những ngƣời chủ công xƣởng và đất đai nắm quyền sở hữu những sản lƣợng của những ngƣời làm
công cho họ. Sự sống còn của giai cấp trị vì dựa vào lao động của giai cấp phục tùng. Điều này có
đem lại cho những ngƣời công nhân quyền mặc cả lớn hơn không? Không. Những ngƣời công nhân
phải hợp tác với giai cấp thống trị vì những kẻ thống trị kiểm soát những phƣơng tiện sản xuất. Ngƣời
công nhân không thể "lấy những bộ đồ bằng đá cẩm thạch và đi về nhà". Họ không sở hữu những đồ
vật bằng đá cẩm thạch đó.
Do đó, tồn tại một sự phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên những kẻ cai trị vẫn cố ra vẻ nhƣ thể là họ
chẳng cần đến những ngƣời công nhân nhƣ những ngƣời công nhân cần họ. Nếu thành công, họ sẽ
bành trƣớng thêm sự thống trị của họ.
Họ cố duy trì địa vị của họ bằng cách nào? Những quan điểm của Hegel về đạo đức, chủ nghĩa dân
tộc và tƣ tƣởng đã đề cập đến điều này. Giai cấp thống trị sử dụng tín ngƣỡng, luật pháp, văn hóa, tôn
giáo, đạo đức và lòng yêu nƣớc nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất. Một ngƣời công nhân yêu nƣớc sẽ
huýt sáo khi anh ta làm việc và không gian lận với ngƣời chủ bằng cách giải lao đi uống cà phê quá
nhiều. Ngày nay, các nhà máy chế tạo ô tô và sản xuất bia thích gắn kết nƣớc Mỹ với hình ảnh của
một "ngày làm việc chăm chỉ và trung thực". Giấc mơ Mỹ vỡ tan trong một giai điệu quảng cáo quen
thuộc "bóng chày và xúc xích nóng, bánh táo và Chevrolet". Chevrolet thực sự thay thế ngƣời mẹ.
(Liệu giấc mơ phức cảm của ngƣời Mỹ có cả ham muốn dành cho chiếc xe ô tô của ngƣời Cha
không?)
Hệ thống luật pháp và đạo đức của chúng ta dạy chúng ta cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lẩn trốn
công việc của mình. Vậy tại sao những ngƣời chủ sở hữu lại đƣợc hƣởng lợi nhuận kiếm đƣợc nhờ
mồ hôi của chúng ta? Chúng ta đáp lại rằng bởi vì họ sở hữu tài sản. Marx hỏi tiếp: Nhƣng tại sao

chúng ta phải chấp nhận hệ thống luật pháp này?
Theo Marx, những kẻ cai trị, những kẻ có quyền lợi trong chế độ tƣ hữu đã thôi miên quần chúng
lao động. Sức thuyết phục và sự ám thị làm cho ngƣời Mỹ mơ đến cổ phiếu, trái phiếu và những chiếc
BMW. Tất nhiên, một cá nhân nghĩ rằng những giấc mơ là của riêng anh ta và tự anh ta tiếp nhận
những ám thị đó một cách vô thức. Marx gọi những tƣ tƣởng, luật pháp và quy tắc đạo đức tƣơng ứng
với thiết chế xã hội là thượng tầng kiến trúc.
Câu nói nổi tiếng của Marx trong lời tựa cho cuốn sách của ông Góp phần phê phán khoa Kinh tế
Chính trị là: "Phƣơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt, xã hội, chính
trị và tinh thần… Không phải ý thức của con ngƣời quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ."
11
Những nông nô cúi mình và thể hiện lòng trung thành với lãnh chúa. Thợ phụ tự hào khi đƣợc làm
việc cùng thợ cả. Ngƣời làm công ăn lƣơng cố gắng đƣợc đề bạt bằng cách làm việc tích cực hơn. Tất
cả họ làm việc cần cù và mong kiếm đƣợc một cuộc sống tốt hơn trong chế độ đang cai trị họ.
Marx không lập luận rằng giai cấp thống trị chủ mƣu xây dựng nên thƣợng tầng kiến trúc. Những
ngƣời hữu sản có lẽ thực sự tin vào tôn giáo của họ và không xem tôn giáo nhƣ một công cụ để lợi
dụng. Thƣợng tầng kiến trúc xuất hiện bởi quá trình sản xuất đã bóp méo và làm xơ cứng nhận thức
của mọi ngƣời. Đối với Marx, "con ngƣời làm ra lịch sử của chính mình, nhƣng không phải làm theo
ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực
tiếp có trƣớc mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết nặng
nhƣ quả núi đè nặng lên tâm trí của những ngƣời đang sống".
12
(Điều bất ngờ là sau này Engels đã
thừa nhận rằng Marx và ông đôi khi nhấn mạnh quá mức quan hệ nhân quả giữa sản xuất và thƣợng
tầng kiến trúc. Những tƣ tƣởng đôi khi có những hậu quả thực tế của nó)
Nếu một nguyên tắc đạo đức hay nền văn hóa tự động nảy sinh để củng cố thêm cho xã hội phân
chia giai cấp thì tại sao Marx lại công kích mở màn trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
rằng "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trƣớc đến ngày nay là lịch sử đấu tranh giai cấp"?
13
Tại sao

mọi ngƣời phải đấu tranh? Có ai biết đấu tranh ngay từ đầu không? Những ngƣời chủ bóp nặn công
nhân và công nhân bằng lòng chấp nhận sự bóp nặn một cách thoải mái nhƣ một tín hữu giáo hội
Thống Nhất (Moonie) bị thôi miên đem tặng những bông cúc ở sân bay. Chừng nào mà ngƣời
Moonie/công nhân đƣợc hƣởng lợi một cách hình thức thôi thì nền kinh tế vẫn cứ vận hành và lợi
nhuận vẫn cứ chảy đều vào tài khoản ngân hàng của các ông chủ.
Sự nổi loạn diễn ra khi có sự thay đổi trong công nghệ sản xuất. Một công nghệ mới hay một
phƣơng pháp mới làm thay đổi chất lƣợng hay số lƣợng của đất đai, lao động và tƣ bản. Những phát
minh, phát kiến, giáo dục và sự gia tăng dân số khiến cho những lực lƣợng sản xuất vật chất luôn biến
động. Với một tập hợp mới những lực lƣợng vật chất, quá trình sản xuất cũ trở nên lỗi thời. Chẳng
hạn, nô lệ có thể đem lại lợi nhuận khi mà tỷ lệ giữa đất đai và ngƣời lao động còn cao. Nhƣng nếu
những chiếc máy kéo và máy gặt làm việc hiệu quả hơn nô lệ hoặc nếu số ngƣời lao động tăng lên thì
nô lệ sẽ tạo ra ít lợi nhuận hơn. Tƣơng lai nằm ở trong quá trình sản xuất mới.
Tuy nhiên đừng quên rằng toàn bộ hệ thống luật pháp, đạo đức, chính trị lại dựa vào phƣơng pháp
cũ. Các mục sƣ thƣờng dạy rằng an phận nông nô là con đƣờng dẫn tới vƣơng quốc của Chúa. Đó là
một sự thực vĩnh cửu đƣợc khắc sâu trong tâm trí và trên những phiến đá của các thánh đƣờng Trung
cổ. Thật vậy, thƣợng tầng kiến trúc có vẻ tĩnh.
Đấu tranh xảy ra khi giai cấp cai trị cũ tự cô lập mình khỏi vòng quay năng động của lịch sử bằng
cách bám chặt lấy những tƣ tƣởng cũ kỹ và ngăn trở sự phát triển của nền kinh tế. Marx viết rằng cối
xay quay tay sinh ra địa chủ phong kiến. Còn động cơ hơi nƣớc loan báo sự hiện diện của nhà tƣ bản
công nghiệp. Nhƣng các lãnh chúa phong kiến chống lại ngƣời kế tục mình là những nhà công nghiệp.
Sau đó thợ cả phƣờng hội cãi lộn với chủ công xƣởng. Hãy quên đi những câu chuyện bịa đặt về Ngài
Lancelot và Galahad. Cuộc đấu thƣơng trên lƣng ngựa với những cây thƣơng sắc nhọn nhất diễn ra
không phải giữa những hiệp sĩ châu Âu thời Trung cổ mà là giữa các lãnh chúa và những lực lƣợng
thƣơng mại.
Giai cấp thống trị luôn luôn vấp phải mối đe dọa khi mà đất đai, lao động, tƣ bản hay công nghệ
thay đổi. Họ có thể đổ nhào từ trên mái của những ngôi nhà đƣợc xếp từ những quân bài trong khi kêu
khóc cho "chân lý vĩnh cửu" trong triết lý của họ. Lịch sử xáo bài và ai nắm giữ lá bài K thì ngƣời đó
có thể bị chém đầu.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn. Ngày xửa ngày xƣa, những tên lính gác nhanh nhẹn
đã sốt sắng cảnh báo lãnh chúa rằng sẽ có một cơn lũ. Gã lãnh chúa này chạy ngay đến thánh đƣờng

và cầu xin Chúa cứu giúp. Khi mà nƣớc lũ tràn đến những bậc thềm của tòa thánh đƣờng, một nông
nô đã chèo một con thuyền nhỏ đến chỗ bậc thềm và đề nghị vị lãnh chúa lên thuyền. "Không, cám
ơn. Ta tin vào Chúa, và ta tin vào công lý. Chúa sẽ cứu ta." Khi nƣớc dâng lên, gã lãnh chúa bƣớc lên
bục giảng kinh. Lần này một chiếc xuồng máy chạy vội đến chỗ ông ta. Khi nƣớc vỗ mạnh vào bục
giảng kinh, ngƣời lái tàu la lên: "Tôi sẽ cứu ngài. Hãy nhảy lên đây!" Lại một lần nữa gã lãnh chúa
quý tộc đáp lại: "Đừng lo. Ta tin vào Chúa. Chúa sẽ cứu ta. Ta không cần những cái máy ồn ào." Cuối
cùng, nƣớc đã nhấn chìm thánh đƣờng. Khi lãnh chúa nắm đƣợc đỉnh ngọn tháp cao nhất, thân thể
ông ta bị sóng đánh tả tơi. Một chiếc trực thăng bay đến trên đầu ông ta. Viên phi công hét lên: "Xin
ngài, ông chủ của tôi. Hãy nắm lấy cái thang này." Gã lãnh chúa lại đáp: "Đừng lo. Ta tin vào Chúa.
Chúa sẽ cứu ta." Một lúc sau, nƣớc dâng lên cao hơn và gã lãnh chúa chìm nghỉm.
Trên thiên đƣờng (suy cho cùng ông ta là một vị lãnh chúa tốt), ông ta gặp đƣợc Chúa. "Chúa",
ông nói, "tôi tin Ngài cả đời. Tôi làm theo mọi điều mà thầy tu khuyên bảo tôi. Khi mà những ngƣời
khác nghi ngờ và quay sang nhờ đến máy móc, tôi tin Ngài sẽ cứu tôi. Nhƣng Ngài làm tôi thất vọng."

"Tên ngốc!" Chúa ngắt lời. "Ngƣơi nghĩ ai đã đƣa thuyền, xuồng máy và trực thăng đến hả!"

Ai không tuân theo dòng chảy của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngƣời đó sẽ bị chết chìm dƣới dòng
chảy đó. Marx mô tả dòng chảy:

Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lƣợng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có ... những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của
các lực lƣợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay
đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thƣợng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Khi xét
những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất - mà ngƣời ta có thể
xác nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản
xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với
những hình thái tƣ tƣởng trong đó con ngƣời ý thức đƣợc cuộc xung đột ấy và đấu tranh để
giải quyết cuộc xung đột ấy.
14


Bởi vì chủ nghĩa tƣ bản dựa trên hệ thống phân chia giai cấp nên tất yếu dẫn tới cách mạng và
thắng lợi của giai cấp công nhân. Tác phẩm bất hủ của Marx, cuốn Tư Bản đã phác họa "những xu
hƣớng đang tác động và đang đƣợc thực hiện với một tất yếu gang thép".
15
Chỉ có một xã hội không
giai cấp mới có thể tránh khỏi đƣợc các cuộc cách mạng. Và theo quan điểm của Marx, một xã hội
không có giai cấp cuối cùng sẽ xuất hiện. Những nhà tƣ bản thối nát cuối cùng sẽ bị tiêu diệt. Sau
nhiều thế kỷ bị chiếm đoạt thành quả của mình, cuối cùng những ngƣời công nhân sẽ đƣợc tự do.
Nếu chủ nghĩa tƣ bản "tất yếu" phải sụp đổ để biến thành chủ nghĩa xã hội, thì chắc hẳn chủ nghĩa
phong kiến phải sụp đổ để biến thành chủ nghĩa tƣ bản? Có phải chủ nghĩa tƣ bản là điểm dừng cần
thiết trên con đƣờng tiến tới chủ nghĩa cộng sản? Nếu vậy thì đó không phải là một cuộc tàn sát vô cớ
hay một cuộc nổi dậy kém may mắn của nhân loại nhƣ nhiều ngƣời xã hội chủ nghĩa không tƣởng
quan niệm. Marx bị cự tuyệt bởi những ngƣời lãng mạn phản khoa học, những ngƣời mô tả chủ nghĩa
tƣ bản nhƣ là một tai nạn tồi tệ do những kẻ xấu xa tạo ra. Thực ra, Marx cũng viết những lời tán
dƣơng hùng hồn dành cho các nhà tƣ bản. Bởi vì theo quan điểm của ông, chủ nghĩa tƣ bản đã giải
phóng con ngƣời thoát khỏi những điều kiện tồi tệ hơn. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx
không dành cho những tay lái buôn ngớ ngẩn có óc hoài cổ:
Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phƣơng tiện giao thông trở nên vô
cùng tiện lợi, giai cấp tƣ sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất và trào lƣu văn minh.
Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những vạn lý trƣờng
thành và buộc những ngƣời dã man bài ngoại một cách ngoan cƣờng nhất cũng phải hàng phục
… Giai cấp tƣ sản, trong quá trình thống trị giai cấp chƣa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực
lƣợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lƣợng sản xuất của tất cả các thế hệ trƣớc kia gộp
lại.
16

Marx đã phê phán giai cấp tƣ sản nhƣng ông lại dành những lời công kích hiểm độc nhất cho
những ngƣời có tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa nhƣng bất đồng quan điểm với ông. Không phải là ngƣời
có thể tập hợp đƣợc những ngƣời khác quanh mình. Ngay cả với những ngƣời bạn chân thành nhất,
ông cũng chỉ giống nhƣ một con mãng xà đang cuộn tròn mình lại. Marx có lẽ sẽ rất căm ghét đảng

Xanh và mơ những thành viên của nó bị nghẹn vì những Quả Nho ngớ ngẩn của họ. Ông viết rằng chủ
nghĩa tƣ bản "đã cứu một bộ phận đáng kể dân chúng khỏi sự ngu ngốc của cuộc sống thôn quê".
17

Ông sẽ đáp lại những ngƣời ủng hộ chủ trƣơng "quay về với thiên nhiên" bằng những cuốn sách lịch
sử để họ hiểu cuộc sống thời kỳ tiền công nghiệp khủng khiếp nhƣ thế nào. Marx đã đáp lại một cách
gay gắt cuốn Triết học của sự khốn cùng của Pierre Proudhon bằng cuốn Sự khốn cùng của Triết học.
Những ngƣời thông minh không cố gắng xóa bỏ hay "nhớ lại" những giai đoạn lịch sử và gửi chúng
trở về công xƣởng nhỏ bé của Chúa để sửa chữa.
Chủ nghĩa tư bản là một điều kiện tất yếu cho chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chủ nghĩa tƣ bản sản xuất ra
rất nhiều của cải. Nó cho phép một hệ thống ít phải điều hành hơn là chủ nghĩa xã hội có thể kế tục.
Các quốc gia tiền tƣ bản chủ nghĩa không thể hy vọng vào việc làm cách mạng cộng sản chủ nghĩa để
lật đổ các lãnh chúa hay Nga Hoàng. Marx không để ý tới nƣớc Nga. Ông cũng không trông chờ chủ
nghĩa cộng sản sớm xảy ra ở Đức, bởi vì chỉ có 4% lao động nam giới làm việc trong các công xƣởng
lúc bấy giờ. Những xiềng xích có lẽ sẽ bị gãy vụn đầu tiên ở Anh và ở Pháp, những thành trì của chủ
nghĩa tƣ bản tiên tiến. Nƣớc Pháp sẽ báo hiệu khi nào nƣớc Đức chín muồi cho chủ nghĩa cộng sản:
"Khi tất cả những điều kiện bên trong đã chín muồi, ngày phục sinh của nƣớc Đức sẽ đƣợc báo hiệu
bằng tiếng gáy của chú gà trống xứ Gô loa."
18

Tư Bản và sự sụp đổ của Chủ nghĩa Tư bản
Marx không chỉ cao ngạo chờ đợi tiếng gáy của chú gà trống. Thay vào đó ông tự cao tự đại thảo
ra một công trình phân tích cẩn thận và đầy đủ về chủ nghĩa tƣ bản là cuốn Tư Bản. Trong thập niên
1850, Marx tự chôn mình trong đống sách giáo khoa kinh tế học ở Bảo tàng Anh quốc ở London. Gia
đình ông nhịn đói trong khi ông phân tích sự khổ sở trừu tƣợng của giai cấp vô sản. Gia đình Marx
sống trong một căn hộ nhếch nhác ở một trong những khu nghèo nhất ở London. Một mật thám theo
dõi Marx đã mộ tả chân dung sống động hiếm có về sự bần cùng mà gia đình ông phải chịu đựng:

Khi một ai đó bƣớc vào phòng của Marx, mắt họ bị cay xè vì khói than và mùi thuốc lá tới
mức lúc đầu ngƣời ta phải dò dẫm y nhƣ ở trong một cái hang… Mọi thứ đều bẩn thỉu và đầy

bụi, ngay cả việc ngồi xuống cũng hết sức nguy hiểm. Chỗ này thì có cái ghế ba chân, chỗ kia
thì bọn trẻ chơi đùa và họ chuẩn bị cơm nƣớc trên một cái ghế có vẻ còn nguyên vẹn.

Đối với bản thân Marx, "ông là một ngƣời cực kỳ bừa bãi, hay chỉ trích ngƣời khác cay độc, một
chủ nhà nghèo khổ. Ông sống giống kiểu dân gipsy. Hiếm khi thấy ông tắm, chải chuốt và thay đồ lót.
Ông còn thƣờng xuyên say bí tỉ. Ông thƣờng tiêu phí thời gian của ngày một cách vô ích, nhƣng nếu
ông phải làm việc thì ông làm việc cả ngày đêm không mệt mỏi". Jenny mặc dù lớn lên trong gia đình
quý tộc "nhƣng cũng chịu đƣợc cảnh nhà cửa bần cùng nhƣ thế này".
19

Gia đình Marx mất ba đứa trẻ vì bệnh viêm phổi, viêm phế quản và bệnh lao trong năm năm bất
hạnh ở London. Điều khủng khiếp nhất là những ngƣời làm dịch vụ tang lễ lại không cho nợ. Jenny
trở nên vô cùng phiền muộn. Đã có lần bà phải đi ăn xin 2 bảng để mua quan tài cho đứa con. Mặc dù
Marx thƣờng hay thô lỗ với những ngƣời xung quanh, nhƣng ông vẫn còn chút lòng thƣơng xót với
những đứa con của mình. Bản thân ông cũng suy sụp khi chúng qua đời:

Bacon nói rằng những ngƣời thực sự quan trọng có rất nhiều mối liên hệ với thiên nhiên và với
thế giới. Họ có rất nhiều thứ để quan tâm nên họ dễ dàng vƣợt qua những mất mát. Tôi không
thuộc về những ngƣời quan trọng nhƣ vậy. Cái chết của những đứa con đã hủy hoại sâu sắc
trái tim và khối óc của tôi và tôi cảm thấy sự mất mát chỉ nhƣ mới ngày hôm qua thôi.
20

Marx cố nhiên quy cảnh ngộ tuyệt vọng của mình cho giai cấp tƣ sản và hứa là sẽ bắt họ phải trả
giá cho những tai họa của gia đình ông và sự ốm đau của chính ông, kể cả những đám mụn đỏ trên
mặt ông.

Marx hiếm khi tự trách mình. Lẽ ra ông phải làm nhƣ vậy. Marx còn ý thức rất trẻ con về kinh tế
gia đình. Có ngƣời đã mô tả điều đó giống nhƣ việc một đứa trẻ cứ hét to ở đầu con kênh này và

×