I.MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước phương Đông-nơi mà tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống văn hóa xã hội, tùy giai đoạn phát triển lịch sử của các nước thì tôn
giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh mẽ đến nếp sống tinh thần, thói
quen, suy nghĩ của con người.Trong các tôn giáo đó thì Đạo Phật-một trong
những tôn giáo lớn của thế giới đã du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ II sau
công nguyên và trở thành tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần,
xã hội Việt Nam cho đến ngày nay. Đất nước ta ngày nay đang trong công cuộc
xây dựng quá độ nên chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa Mác-Lênin là tư tưởng chủ
đạo, ngọn đèn dẫn đường, vũ khí lý luận nhưng bên cạnh đó bộ phận kiến trúc
thượng tầng cũ vẫn có sức sống dai dẳng,trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều
ảnh hưởng đến đời sống chính trị,in sâu vào tư tưởng,tình cảm của một bộ phận
dân cư lớn nước ta.Chúng ta không thể bỏ qua sự ảnh hưởng đó mà cần vận dụng
nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như
sau này. Do đó việc nghiên cứu lịch sử,giáo lý và sự tác động của đạo Phật đối
với thế giới quan,nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Đi vào
nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ,tác động tiêu cực hay
tích cực đến quá trình phát triển của đất nước và qua đó sẽ định hướng cho con
người có một nhân cách đúng đắn,tìm ra những phương hướng biện pháp hợp lý
trong quá trình ngày nay xây dựng đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Phật giáo có
lĩnh vực nghiên cứu tương đối rộng, ngoài việc nghiên cứu giáo lý,kinh điển,lịch
sử của Phật giáo còn đề cập đến các lĩnh vực như triết học,văn học,khảo cổ,tâm
lý học,xã hội học Phật học đã trở thành một trong những khoa học tương đối
quan trọng trong khoa học xã hội,có quan hệ mật thiết với xã hội học.Phật giáo
phát triển, truyền bá ở nước ta gắn liền với quá trình hình thành,phát triển tư
tưởng đạo đức con người và sự tồn tại, phát triển của Nhà nước Việt Nam. Vì
vậy, khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng ta không thể không đề cập đến Phật giáo và
những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
II.NỘI DUNG
Phật giáo ra đời từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại một vùng đất
thuộc phía Bắc Ấn Độ(nay thuộc lãnh thổ Nêpan) người sáng lập ra là Thái tử
Xitđacta (Buddha) pháp hiệu là Thích ca Mâu ni.Sự hình thành và phát triển của
Phật giáo chia làm hai giai đoạn:Thứ nhất từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên
đến giữa thế kỷ thứ IV trước công nguyên là thời kì hình thành Phật giáo,thứ hai
từ thế kỷ IV trước công nguyên đến công nguyên là thời kỳ bắt đầu Phật giáo
chia làm nhiều tông phái khác nhau trong đó có hai tông phái lớn là Thượng tọa
bộ và Đại chúng bộ. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII là thời kỳ Phật giáo Đại
thừa đối lập với Phật giáo Tiểu thừa.Sau thế kỷ thứ VIII Phật giáo đi vào suy tàn
trước sự tấn công của Hồi giáo cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Phật giáo
từng bước được khôi phục và trở thành tôn giáo của Ấn Độ.
Nội dung tư tưởng của đạo Phật thể hiện trong lời nói của đức phật: “trước kia và
ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải các chân lý về các nỗi đau khổ và giải thoát các
nỗi đau khổ. Cũng như nước của đại dương chỉ có một vị mặn. Học thuyết của ta
chỉ có một vị, đó là sự cứu vớt”. Như vậy, hạt nhân triết lý cơ bản của đạo phật là
đề cao tình yêu thương của con người đối với chúng sinh tập trung ở trong “tam
tạng kinh điển”.
Tam tạng kinh điển gồm:
Kinh Tạng: đây là bộ kinh ghi lại những lời dạy của đức Phật khi còn sống do đệ
tử của người là A – nan - đa tập hợp trong lần tập kết kinh điển lần thứ nhất. Bộ
Kinh Tạng gồm có: Trung bộ kinh; Tương ứng bộ kinh; Tăng bộ kinh; Tiểu bộ
kinh.
Luận Tạng: là sách ghi chép về giới luật do Phật định ra làm khuân phép cho các
đệ tử, nhất là giới tu hành noi theo. Điểm khác biệt rõ nét nhất về giáo lý với các
đạo khác chính là ở bộ kinh Luận Tạng này.
Luật Tạng: là bộ kinh được các đại đệ tử của đức Phật ghi lại sau khi người qua
đời. Mục đích của Luật Tạng là nhằm giới thiệu giáo lý của đạo Phật một cách hệ
thống và phê bình, uấn nắn những hiểu biết sai trái về đức Phật.
Bên cạnh đó, tư tưởng triết học Phật giáo còn ảnh hưởng sâu sắc tín ngưỡng đa
thần của người Arya, đặc biệt là ảnh hưởng triết lý từ đạo Bàlamôn như thuyết
nhân – quả, thuyết luân hồi nghiệp báo. Chính vì những yếu tố này mà về sau
đạo Phật bị lên án, phê phán là tiêu cực, thủ tiêu đấu tranh giai cấp.
Nội dung tư tưởng triết lý cơ bản của đạo phật được thể hiện ở hai vấn đề chính
là quan niệm về thế giới quan và nhân sinh quan.
Thứ nhất, quan niệm của Phật giáo về thế giới quan.
Về thế giới quan, tư tưởng của Phật giáo tập trung ở những mặt cơ bản sau:
Vô tạo giả: Đạo Phật cho rằng thể giới do các loại vật chất tạo thành. Mọi sự vật
trong vũ trị gọi là “vạn pháp” không do bất kỳ một thần linh nào tạo ra bằng
những phép màu mà là do những phần tử vật chất nhỏ bé nhất tạo nên. Những
vật chất nhỏ bé đó được gọi là “bản thể” hay ‘thực tướng”. Đây được xem như là
nội dung cơ bản nhất và khác tất cả các tôn giáo khác.
Vô thường: Đạo Phật cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ bao la không
đứng yên, không bất biến mà nó luôn luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng
là: thành – trụ – hoại – không đối với vạn vật trong vũ trụ, và: sinh – trụ – dị –
diệt đối với các sinh vật.
Phật giáo cho rằng: chết không phải là hết mà là chuẩn bị cho sự sinh thành mới.
Sinh – diệt là hai quá trình diễn ra đồng thời trong từng sự vật hiện tượng, không
gian và thời gian gọi là “sắc – không’
Thuyết Nhân – Duyên: Phật giáo cho rằng: tất cả mọi sự vật hiện tượng chuyển
động không ngừng, biến đổi không ngừng và chịu sự chi phối bởi quy luật nhân
duyên. Trong đó, nhân là một tạo quả còn duyên là phương tiện tạo ra tạo quả đó.
Khi nhân duyên hoà hợp thì sự vật sinh. Khi nhân duyên tan rã thì sự vật diệt.
Các nhân duyên trong sự vật hiện tượng tác động chi phối lẫn nhau.
Nội dung thế giới quan của đạo phật tập chung chủ yếu ở thuyết “duyên khởi”
gồm 12 cái nhân duyên (nhị thập nhân duyên). Đó chính là nguyên nhân gây ra
mọi nỗi khổ đau. Nhân duyên được phân ra thành nhân (nguyên nhân) – duyên
(hậu quả, kết quả) có quan hệ mật thiết với nhau. Cái này là tiền đề của cái kia và
ngược lại.
Quan niệm về sự vật hiện tượng trong thế giới, đạo Phật đưa ra “sắc – không” để
chỉ những sự vật có hình tướng mà con người có thể nhận thức được (sắc) và
những sự vật không có hình tướng con người không thể nhận biết được.
Quan niệm về thời gian và không gian:
Đạo Phật cho rằng: thời gian là vô cùng và không gian là vô tận. Khi xem xét
từng sự vật hiện tượng, đạo Phật chủ trương phải đặt những sự vật hiện tượng đó
trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. Nghĩa là phải tìm hiểu sự
vật hiện tượng từ điểm khởi đầu và kết thúc của nó.
Nói tóm lại với những quan niệm về thế giới quan ở trên, tư tưởng triết lý đạo
Phật đã mang nhiều yếu tố duy vật tiến bộ.
Thứ hai. Quan niệm của Phật giáo về nhân sinh quan.
Đạo Phật cho rằng con người không phải do một thượng đế hay bất kỳ một đấng
thần linh siêu nhiên nào tạo ra mà là do một “pháp” đặc biệt của thế giới tạo ra.
Pháp bao gồm hai phần là:
Phần sinh lý (còn gọi là “sắc uẩn”): là hình tướng được giới hạn trong xương,
thịt, da. Những vật chất này được tạo ra từ bốn yếu tố: địa (đất) – thuỷ (nước) –
hoả (lửa) – phong (gió). Trong đó, địa tạo nên phần cứng trong cơ thể như phần
xương, lông, tóc, lục phủ ngũ tạng; Thuỷ tạo ra máu, mồ hôi…; Hoả tạo ra nhiệt
cho cơ thể; Phong tạo ra khí thở…
Phần tâm lý (tinh thần ý thức): được tạo bởi tứ uẩn: Thụ – tưởng – hành – thức
và được biểu hiện bởi “thất tình”, cụ thể như sau: ái – ố – hỉ – nộ – ai – lạc – dục.
Theo đạo Phật, phần tâm lý muốn tồn tại phải luôn dựa vào phần sinh lý. Bên
cạnh đó, con người còn phải tuân theo “sinh – trụ – di – diệt” và sự giả hợp của
“ngũ uẩn”. Khi ngũ uẩn hoà hợp thì còn người tồn tại và ngược lại thì con người
chết, bị huỷ diệt.
Nội dung tư tưởng, triết lý cơ bản của Phật giáo thể hiện rõ nhất ở “tứ diệu đế” tức là 4 chân lý huyền diệu cao siêu để giải thoát nỗi khổ của chúng sinh gồm: Khổ
Đế – Tập Đế – Diệt Đế - Đạo Đế. Đức Phật khẳng định: “trước kia và ngày nay ta
chỉ nêu ra và lý giải các chân lý về các nỗi đau khổ và giải thoát các nỗi đau khổ.
Cũng như nước của đại dương chỉ có một vị mặn. Học thuyết của ta chỉ có một vị,
đó là sự cứu vớt”
+ Khổ đế:
Là chân lý bàn về các nỗi khổ của con người. Đạo phật cho rằng cuộc sống con
người là khổ ải. Khổ đau là tuyệt đối, là bản chất của sự tồn tại của cuộc sống.
Cuộc sống của chúng sinh là bể khổ. Trong các nỗi khổ mà từng chúng sinh phải
chịu đựng có bốn nỗi khổ lớn gọi là “tứ khổ”: sinh – lão – bệnh – tử khổ.
Ngoài ra, Phật giáo còn khẳng định nỗi khổ của chúng sinh tồn tại ở những dạng
khác như:
Ái biệt ly khổ: tức yêu nhau mà không được ở gần nhau là khổ;
Sở cầu bất đắc khổ: tức mong muốn mà không được như ý là khổ;
Ngũ thủ uẩn khổ: tức các cơ quan của cơ thể không hoàn thiện là khổ;
Oán tăng hội khổ: tức là thù ghét là khổ;
Thân là gốc của nỗi khổ;
Các thứ bệnh tồn tại trong cơ thể là khổ;
Chết vì nhiều nguyên nhân; bất hòa; khổ do ngoại cảnh gây nên mà không biết
được lý do.
+ Tập đế.
Là sự tập hợp chứa đựng những chân tướng những sự khổ não, là nguyên nhân về
các nỗi khổ đau. Đạo phật cho rằng nguyên nhân của khổ đau là do dục vọng –
tham muốn của con người gây nên và đến khi chết vẫn phải chịu khổ đau. Tất cả
những nỗi khổ đau mà chúng sinh phải gánh chịu là do “nhị thập nhân duyên” tạo
ra mà khởi đầu là “vô minh”.
+ Diệt đế.
Là chân lý về cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau. Đạo Phật cho rằng chúng
sinh muốn thoát khỏi mọi sự khổ đau thì phải từ bỏ mọi ham muốn, dục vọng, sự
giận giữ và mê muội.
Ham muốn hay dục vọng của con người là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nỗi khổ
đau còn nguồn gốc sâu xa là từ “nhị thập nhân duyê” mà bắt đầu từ “vô minh”.
Cho nên theo đạo Phật, chúng sinh muốn diệt trừ nỗi khổ thì đầu tiên phải diệt trừ
“vô minh’. Vì “vô minh” bị diệt thì trí tuệ mới sáng và hiểu rõ được bản chất sự
tồn tại không còn dục vọng, không còn hành động sai quấy để tạo ra “nghiệp”. Và
chỉ có như vậy, chúng sinh mới thoát khỏi nỗi khổ vòng luân hồi sinh – lão – bênh
– tử.
+ Đạo đế.
Là chân lý về các con đường đúng đắn để giải thoát con người. Đây chính là xuất
phát từ sự đúc kết quá trình tu hành đắc đạo của đức Phật.
Đạo Phật đưa ra lý luận về “tam học” là: giới - định – tuệ. Đây chính là quá trình tu
hành để đạt đến giác ngộ.
Giới: là những điều cấm quy định với những người tu hành để không phạm sai lầm
do thân và ý tạo ra.
Định: là phương pháp làm cho người tu hành không tán loạn phân tâm, loại trừ ý
nghĩ sai lầm tạo điều kiện cho trí tuệ bừng sáng.
Tuệ: là yêu cầu đòi hỏi phải có trí tuệ sáng suốt để diệt trừ vô minh, tham dục. chỉ
có như vậy mới diệt trừ được nỗi khổ.
Trong ba yếu tố trên, Giới được nhà Phật coi là quan trọng nhất, ngăn cản con
người không phạm vào “ngũ giới” (còn gọi là năm điều cấm) là: không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không bịa đặt, không uống rượu để định và tuệ phát
sáng.
Theo đạo Phật, gồm có tám con đường – cách để giải thoát nỗi khổ gọi là “bát
chính đạo”.
Chính kiến: nhận biết đúng đắn.
Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
Chính ngữ: nói năng đúng đắn.
Chính nghiệp: hành động đúng đắn.
Chính mệnh: kiếm sống đúng đắn.
Chính tịnh tiến: nỗ lực đúng đắn, phải từ bỏ điều ác làm điều thiện.
Chính niệm: thương nhớ – tưởng nhớ đúng đắn. phải tập chung tâm và thần vào
suy nghĩ, lời nói, hành động đúng.
Chính định: tập chung tinh thần vào một đạo đúng đắn.
Để theo đuổi được những con đường này và giải thoát mình khỏi mọi nỗi khổ đau,
người tu hành phải thực hiện những điều kiêng kị là “ngũ giới”.
Như vậy, với những quan niệm triết lý về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo
Phật cho thấy tất cả những quan niệm này nhằm chống lại đạo Bàlamôn, chốnglại
sự bất bình đẳng trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà những tư tưởng cơ bản của triết lý
Phật giáo mang nhiều yếu tố duy vật sơ khai tiến bộ gắn bó với cuộc sống của con
người. Từ quan niệm trên, đạo Phật không thừa nhận xã hội có đẳng cấp. Đức phật
nói rằng “không thể có đẳng cấp trong những dòng máu cùng đỏ như nhau. Không
thể có đẳng cấp trong những giọt nước mắt cùng mặn như nhau”.
Về tích cực.
+ Chủ trương giải thoát con người khỏi những nỗi khổ đau; thực hiện bình đẳng
giữa các chúng sinh chống lại quan điểm phân biệt đẳng cấp, khuyên con người
phải thương yêu lẫn nhau. Đây chính là tư tưởng nhân văn cao cả phù hợp với đại
bộ phận nhân dân bị áp bức, đáp ứng nhu cầu của xã hội đương thời và chống lại
chế độ đẳng cấp Vacna hà khắc. Và trên thực tế, đạo Phật góp phần làm loãng rất
nhiều quan niệm khắt khe của đạo Bàlamôn và Vacna.
+ Trong hoàn cảnh xã hội ấn Độ thời cổ đại, đạo Phật đã đề ra được lý thuyết về
con đường giải thoát về mặt ý thức. Điều này làm cho quần chúng nhân dân tin
tưởng vì tìm thấy ở đạo này một sự an ủi, một niềm tin vào tương lai.
+ Nghi lễ đạo phật rất đơn giản, điều này phù hợp với hoàn cảnh của người dân lao
động nghèo khổ thuộc các đẳng cấp dưới cho nên nó được hưởng ứng nhiệt tình.
Đạo phật phản ánh tình yêu thương đồng loại.
Về tiêu cực.
Giáo lý của đạo phật về nguồn gốc các nỗi khổ đau không phù hợp với thực tế.
Học thuyết tự tu dưỡng của đạo Phật không góp phần làm giảm mâu thuẫn xã hội
mà đẩy mâu thuẫn đó lên đỉnh cao của nó. Và đương nhiên những tư tưởng của đạo
Phật không hợp với một xã hội còn đầy dẫy những bất công trong xã hội ấn Độ cổ
đại bấy giờ.
Nhưng xét cho cùng, sự ra đời của đạo Phật với những tư tưởng triết lý cơ bản trên
cũng đã có thể coi là một cuộc cách mạng vĩ đại trong xã hội ấn Độ cổ đại chống
lại những luật lệ hà khắc do chế độ đẳng cấp Varna, luật Manu và đạo Bàlamôn tạo
nên. Chính vì lẽ đó, đạo Phật ra đời nhanh chóng phát triển mạnh mẽ về số lượng
tín đồ và trở thành tôn giáo thế giới. Và đương nhiên, những nhà sư chân đất với
màu vàng thánh thiện của Phật đã tiếp tục sự nghiệp giải thoát nỗi khổ đau của con
người.
Sau khi đức Phật về cõi cực lạc, trên cơ sở của sự phát triển Phật giáo, các đệ tử
cảu Phật đã định kỳ họp lại. Tại các cuộc họp về sau càng bất đồng ý kiến giữa các
chư tăng, thượng toạ về việc hiểu và giảng chú kinh Phật. Xuất phát từ nguyên
nhân này mà trong bản thân tôn giáo này đã có sự phân chia dẫn đến hình thành
các tông phái khác nhau:
Phái của các vị trưởng lão, gọi là phái Thượng Toạ (Theravada) theo xu hướng bảo
thủ, chủ trương bám sát kinh điểm, giữ nghiêm giới luật. Phật tử chỉ giác ngộ được
cho bản thân mình, chỉ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đắc đạo chỉ lên được La
Hán, thoát khỏi cảnh luân hồi, tai sinh.
Phần đông tăng chúng còn lại không tán đồng, họ công khai lập hội nghị riêng, lập
ra phái Đại Chúng (Mahasangika), chủ trương không câu nệ cố chấp vào kinh điển,
khoan dung, độ lượng trong việc thực hiện giáo luật, thu nạp rộng rái tất cả những
ai muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người, thờ nhiều Phật, nhân vật lý
tưởng của phái là Bồ Tát.
Tại các lần tập kết lần thứ ba và thứ tư, phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng và
tự xưng là Đại Thừa (Mahayana), nghĩa là “cỗ xe lớn”, “con đường giải thoát lớn”.
Còn phái Thượng Toạ được gọi là phái Tiểu Thừa, nghĩa là “cỗ xe nhỏ”, “con
đường giải thoát nhỏ”.
+ Phái Nam Tông (hay còn gọi là phái Tiểu Thừa).
+ Phái Bắc Tông (hay còn gọi là phái Đại Thừa).
Từ hai tông phái này, Phật giáo lại chia nhỏ thành những tông nhánh khác. Trong
đó, phái Nam Tông đi truyền bá sớm hơn sang vùng Đông Nam á cổ đại còn phái
Bắc Tông thì truyền bá muộn hơn và địa bàn chủ yếu ở vùng Tây Tạng, Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Nhưng càng về sau thời Bắc thuộc và trung – cận đại,
phái Bắc Tông càng phát triển mạnh dẫn đến quá trình truyền bá lại những nơi đã
có Phật giáo: Phật giáo Nam Tông.
Cứu vớt và giải thoát luôn là mục đích và nội dung của nhân sinh quan, tư tưởng
triết học đạo phật. Phật giáo bác bỏ “sự tồn tại” của “đấng sáng tạo” nhưng lại tiếp
thu tư tưởng “luân hồi”, nghiệp” từ Bà- la-môn. Nhân sinh quan phật giáo là nói
gọn là giải pháp luận. Tuy vậy, hạn chế là để đạt mục đích cuối cùng, Phật giáo lại
thực hiện bằng cách loại bỏ dần nguyên nhân của sự tồn tại của thế giới hiện thực.
Bởi lẽ: Đối tượng giải thoát và cứu rỗi của Phật giáo là tất cả chúng sinh. Niết bàn
hay trạng thái giải thoát chính là trạng thái đã đoạn trừ được những ràng buộc trần
thế những đau khổ phiền não do “vô minh”, “tham dục” gây ra. Niết bàn là trạng
thái tâm hồn hoàn toàn được giải thoát, tĩnh lặng, trong sáng thanh tịnh, cực lạc
siêu không gian, siêu thời gian.
Trong suốt quá trinh hình thành và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều đóng
góp đáng kể đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của dân tộc trên nhiều lĩnh vực,
trong đó có giáo dục. Có thể nói, Phật giáo được xem là một trong những nhân tố
quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm, chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức
trong xã hội. Trong hệ thống giáo lý Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy những cơ
sở lý luận xác thực cho vấn đề đạo đức xã họi, hướng con người tói Chân, Thiện,
Mỹ.
Ta biết rằng, khi xem xét bất kỳ tôn giáo nào với tư cách là một hình thái ý thức xã
hội độc lập với các hình thái ý thức xã hội khác, dễ dàng nhận thấy nó chứa đựng
không ít các nội dung đạo đức, bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng đạo
đức….Điều này được thể hiện rõ nét ở đạo Phật. Có thẻ thấy, bên cạnh những giá
trị đặc thù như bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, Phật giáo khi du nhập vào
Việt Nam còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính xã hội như hiếu
thảo cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác…Toàn bộ
những giá trị này được kết tinh, thể hiện tập trung trong nội dung giáo lý của Phật
giáo thông qua hai cấp độ nhận thức là trình độ tâm lý và tình độ hệ tư tưởng.
Tuy nhiên, người Việt tiếp nhận Phật giáo từ tâm lý, bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam, dựa vào đó mà lọc bỏ, kế thừa, phát huy các quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực
đạo đức sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Do đó, nội dung cũng
như tính chất, đặc điểm của giáo dục Phật giáo không thể không chịu sự quy định
của các yếu tố tự nhiên và xã hội.
Xuất phát điểm là nước sản xuất nông nghiệp cộng với tính chất khắc nghiệt của
điều kiện tự nhiên như thiên tai, hạn hán, mất mùa nên người Việt rất trọng sự
đoàn kết, gắn bó cộng đồng cũng như sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Bên cạnh
đó còn phải nhắc đến tinh thần trong lao động cần cù, tiết kiệm trong lao động sản
xuất. Có thể khẳng định đây chính là một trong những giá trị căn bản mà khi nhắc
đến đạo đức xã hội của người Việt, chúng ta không thể không nhắc đến. Sự hình
thành hệ giá trị của dân tộc Việt Nam ngoài ra còn gắn liền với tiến trình vận động,
phát triển của lịch sử, văn hóa, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật… Do nằm ở vị trí địa
lý chiến lược, là đầu mối giao thông quốc tế quan trọng cùng sự giàu có về tài
chánh nguyên thiên nhiên nên Việt Nam trong lịch sử đã luôn là mục tiêu xâm
lược, tranh giành của nhiều quốc gia. Lẽ dĩ nhiên, để bảo vệ độc lập chủ quyền,
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc, người Việt luôn hướng tới các lợi
ích cộng đồng, cùng nhàu bảo vệ các giá trị chung. Do đó, trong nấc thang giá trị
xã hội, việc ưu tiên các giá trị cộng đồng hay nói cách khác là đề cao các giá trị
đạo đức xã hội là đặc điểm nổi bật trong đời sống dân tộc Việt Nam.
Có thể nói, những đặc điểm cơ bản trên đây của xã hội Việt Nam là cơ sở thực tiễn
quan trọng để các giá trị đạo đức Phật giáo thực sự bén rễ, nảy sinh trong lòng dân
tộc Việt Nam.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải lưu ý đến tính chất đặc thù của Phật giáo trong
việc truyền tải các nội dung đạo đức đến các cá nhân, xã hội so với một số hình
thái ý thức xã hội khác. Đạo đức tôn giáo có đặc điểm là những qui phạm, điều răn,
cấm đoán…thuộc hệ thống giáo lý tôn giáo ngoài việc khuyến khích hướng thiện
còn tạo ra sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi. Chẳng hạn trong một số trường hợp,
khi tu hành đạt đến năng lực “ tự giác”, con người hành động có đạo đức chủ yếu
là do triết lý đạo đức tôn giáo đã thẩm thấu vào họ, trở thành nhân sinh quan trong
cuộc sống.
Như vậy, khởi nguồn từ những lý do trên đây, đạo phật trong suốt quá trình thăng
trầm lịch sử lâu đời, đã khẳng định chân giá trị đích thực đối với sự nghiệp sáng
tạo và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống như: hiền hòa, lễ độ, kiên nhẫn,
vị tha, độc lập tự chủ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau… có thể nói, với tư cách là
một tôn giáo, triết thuyết thì Phật giáo chứa đựng nhiều nội dung mang tính giáo
dục sâu sắc. Hơn nữa, Phật giáo còn đảm nhiệm vai trò là một chủ thuyết đạo đức,
tham gia tích cực vào việc xác lập, định hình nên hệ thống giá trị đạo đức trong xã
hội. Tuy vậy, khi xem xét vấn đề giáo dục đạo đức xã hội của Phật giáo Việt Nam
nhất thiết phải lưu ý đến những đặc trưng mang tính dân tộc, quy định tính chất,
nội dung, cách thức giáo dục.
Trong khi đó, về mặt thực tiễn, Phật giáo Việt Nam đã từng đảm nhiệm xuất sắc vai
trò giáo dục giá trị, đạo đức xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử quy định, Phật giáo trong
suốt quá trình tồn tại, phát triển đã khong ngừng thể hiện vai trò giáo duc, định
hướng giá trị, đạo đức xã hội. Tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng của tưng thời khác
nhau mà ảnh hưởng của Phật giáo đối với vấn đề giáo dục giá trị và đạo đức xã hội
cũng khác nhau.
Trước khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, đã tồn tại một số tín ngưỡng tôn giáo
dân gian như thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng, Thổ đại, thờ cúng tổ tiên… thể hiện đạo
lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội,
Phật giáo cùng với quá trình du nhập đã giải đáp được những băn khoăn mang tính
triết lý nhân sinh mà tín ngưỡng dân gian chưa thể giải đáp như: nguồ gốc con
người, ýnghĩa cuộc sống, vấn đề họa phúc trong cuộc đời … Với những tư tưởng
về “vô thường, vô ngã”, “từ, bi, hỷ, xả”, “nghiệp chướng, luân hồi”, “nhân quả”…
Phật giáo đã phần nào đáp ứng nhu cầu về tâm linh của người dân lúc bấy giờ. Do
đó, Phật giáo đã nhanh chóng tạo lập được cơ sở thực tiễn vững chắc cho sự tồn tại
và phát triển của mình trên đất nước Việt Nam. Cùng với quá trình du nhập và phát
triển đó, những chuẩn mực đạo đức Phật giáo cũng xâm nhập và tác động nhất định
đến nền đạo đức của dân tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo đã góp phần bổ khuyết
những giá trị đạo đức mới, phù hợp với tâm lý, đạo đức của người Việt, làm phong
phú và sâu sắc thêm hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào đạo lý truyền thống dân tộc,
ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người. Người
Việt tiếp nhận Đạo Phật không phải chỉ là nội dung triết lý ẩn chứa trong đó, mà
quan trọng hơn là những hành vi đạo đức mưng tính thiện. Họ tiếp thu Phật giáo
không phải với tư cách là một hệ tư tưởng với các giáo lý cao siêu, mà là những
điều rất gần hũi với tâm tư, tình cảm của mình. Chẳng hạn Phật dạy công bằng, bác
ái, từ, bi, hỷ, xả, không oán ghét, thù hận …rất gần với tâm lý, bản sắc văn hóa
Việt Nam. Phật giáo vì thế từ yếu tố ngoại sinh đã phát triển tương đối rộng rãi,
hòa nhập với nền văn hóa dân tộc, tác động mạnh mẽ đến nếp sống của mỗi con
người cũng như cộng đồng dân tộc.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử qui định nên người Việt tiếp nhận Phật giáo không
phải ở những luận thuyết trừu tượng, cao siêu mà chỉ đi vào những nội dung mang
tính thực tiễn, vận dụng để giải quyết những vấn đề cuộc sống. Điều này phần nào
giải thích hiện tượng một bộ phận người dân Việt Nam không hiểu một cách tường
tận những triết lý cao siêu của nhà Phật về vô thường, vô ngã, thập nhị nhân duyên,
tứ diệu đế, nghiệp báo, luân hồi …nhưng họ vẫn tự coi mình là tín đồ Đạo Phật.
Hầu như người dân Việt nào cũng tin rằng: sống có đạo đức thì sẽ gặt hái được
những điều thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân thường đạo lý, ắt sẽ bị quả
báo. Đại đa số người dân không thuộc kinh Phật ngoài mấy câu niệm “Nam mô A
Di Đà Phật”, hay “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” song họ đều cảm thấy rất mãn
nguyện, hướng tới Đức Phật với niềm tin mọi đau khổ, bất trắc sẽ được diệt trừ.
Điều này đã được GS. Trần Văn Giàu khẳng định trong “Giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam – Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980” như sau: “Tín
ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân không biết gì về
triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ biết chuyện quả báo, luân hồi. Từ
lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành một thứ đạo đức học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu
nạn là hạt nhân, chúng sinh có thể hiểu và làm được, không cao xa, rắc rối như triết
lý Phật giáo nguyên thuỷ. Tu nhân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở
kiếp sau”.
Trong thực tế hiện nay, thì những yếu tố tín ngưỡng được thể hiện rất rõ trong cuộc
sống hằng ngày, theo đa số các phật tử đều ăn chay vào những ngày lễ, rằm, mùng
một, ngày đầu năm, tụng kinh, đi lễ chùa. Họ có niềm tin rất lớn vào Quan âm và
đạo lý của Phật giáo rằng ăn chay sẽ cảm thấy nhẹ người và thanh thản hơn, cài
hoa hồng màu đỏ cho những ai còn mẹ và cài hoa hồng àu trắng cho những ai mất
mẹ vào ngày lễ Vu lan báo hiếu, thả hoa đăng và đặt những điều ước của mình vào
đó để được thoải mái tinh thần hơn.