Văn học Phật giáo
Campuchia
1. Ngay từ đầu Công nguyên, các dân tộc ở Đông Nam á đã đón
nhận nền văn hoá ấn Độ thông qua con đường truyền giáo và buôn
bán.
Văn hoá ấn Độ ảnh hưởng lan toả một cách rộng rãi trên phần lớn
Đông Nam á. Ảnh hưởng này, nói theo G.Sơdet trong cuốn Lịch sử cổ đại
các quốc gia ấn hoá Viễn Đông là : ”Sự lan toả của một nền văn hoá có tổ
chức, dựa trên quan niệm hindu về vương quyền, được xác định đặc trưng
bằng sự tôn thờ Hindu giáo và Phật giáo, hệ thần thoại Purânas, tin theo
Dharmasâtras (Đạo Pháp) và lấy Sanskrit (Phạn ngữ) làm phương tiện diễn
đạt”. (1)
Văn học nghệ thuật khu vực này được xem như một dị bản của Ấn
Độ. Dấu ấn Phật giáo trong văn học các nước đó rất rõ rệt. Riêng ở
Campuchia, dấu ấn Phật giáo trong văn học lại càng đậm nét.
Đạo Phật ở Campuchia tồn tại song song hai trường phái: đạo Phật
phái Tiểu thừa và đạo Phật phái Đại thừa.
Phái Đại thừa xuất hiện vào cuối thế kỷ VIII ở Campuchia và các
nước thuộc đế chế Khơme.
Phái Tiểu thừa xuất hiện ở Campuchia ngay khi bắt đầu có đạo
Bàlamôn, sau đó vào cuối thế kỷ XII, nó bị lu mờ bởi phái Đại thừa trở
thành đạo của hoàng gia. Sang thế kỷ XIII, với sự thúc đẩy của Thái Lan,
đạo Phật Tiểu thừa phát triển và trở thành tôn giáo chính của Campuchia,
cũng giống như Lào, Thái Lan, Miến Điện và Xây Lan đều theo đạo Phật
Tiểu thừa.
2. Phật giáo là một thành tố hệ tư tưởng Campuchia đã để lại dấu
ấn trong văn học nghệ thuật.
Vậy thì có thể có một dòng văn học Phật giáo có con đường riêng của
mình nằm trong suốt lịch trình văn học Campuchia hay không? Và nếu có
thì căn cứ vào tiêu chí nào để khu biệt nó với các dòng văn học khác? Vấn
đề này cho đến nay vẫn còn chưa được bàn giải kỹ càng. Nhưng thực ra
vẫn có một bộ phận trong nền văn học Campuchia mang đậm dấu ấn của
tư tưởng triết học Phật giáo. Xem xét bộ phận văn học này có thể nhận thấy
khá rõ Phật giáo đã được đi vào văn thơ theo ba mạch:
Mạch thứ nhất là những tác phẩm trực tiếp bàn giải về triết học, về lý
thuyết Phật giáo; mạch thứ hai là những khái niệm, những nội dung triết
học sâu sắc của đạo Phật như những gợi ý, những luồng ánh sáng tiếp dẫn
giúp cho thi sĩ Campuchia cảm hứng sáng tác văn học; mạch thứ ba là các
tác phẩm mượn vỏ tôn giáo song tuyệt nhiên không mang nội dung Phật
giáo. Và như vậy, mỗi mạch tác phẩm đều có đối tượng, nội dung, thủ pháp
nghệ thuật riêng.
Phật giáo tuy được đi vào văn thơ theo ba mạch nhưng một điều chắc
chắn là văn học Phật giáo Campuchia là một đại hoà đồng, đại hỗn dung
của tư tưởng Phật giáo với tư tưởng ấn giáo, tư tưởng Phật giáo với tư
tưởng phồn thực, với các thuật phù thuỷ và các lễ nghi ma thuật, tư tưởng
Phật giáo của các Tông. ảnh hưởng đó đi vào văn thơ rất phong phú và
phức tạp.
3. Mạch tác phẩm thứ nhất xuất hiện và đạt tới sự phồn thịnh
Từ khoảng thế kỷ XV trở đi, ở các tác phẩm đó các tác giả bàn cãi,
thuyết giảng về những nguyên lý căn bản của triết học Phật giáo, và phần
lớn có tính chất vũ trụ quan. Khác với đạo Phật Đại thừa(2) là sự tận tuỵ
với Bodhisatv Lokecvara hay Avolokitecvara, đạo Phật Tiểu thừa(3) để
sang một bên mọi sự trừu tượng. Nó là sự thông thái và đạo đức. Cả cuộc
đời của người Campuchia thấm nhuần học thuyết này, họ rất mộ đạo và
thành tâm .
Học thuyết căn bản của đạo Phật bao hàm bốn chân lý thánh thần.
Trong lời thuyết pháp Binares, Đức Phật đưa ra “tính phổ biến của đau
khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự gạt bỏ đau khổ và con đường đưa đến sự
gạt bỏ đau khổ”(4).
Trên bình diện đạo đức, đời sống của mọi vật chịu tác động của luật
nhân quả (Karma) nghĩa là của hành động.
Đạo Phật Tiểu thừa tin rằng tất cả đàn ông và tất cả đàn bà đều bình
đẳng. Mỗi con người phải chịu trách nhiệm về chính hành động của mình.
Không có sự tha thứ cho những ngu xuẩn dốt nát.Mọi cá nhân phải khôn
ngoan trong việc sử dụng lý trí trước khi hành động.
Học thuyết tinh thần thuần tuý của đạo Phật ở Campuchia, lúc đầu chỉ
là một triết lý, về sau đã trở thành một tôn giáo và có mầu sắc tình cảm, làm
cho Đức Phật trở thành một vị thánh để người ta cầu nguyện. Mặt khác,
đạo Phật cũng trở thành một sức mạnh, một phép chữa bệnh, nghĩa là nó
tiếp nhận một loạt các sự mê tín và những phương thức chống lại cái xấu.
Đạo Phật ở Campuchia là một tôn giáo hợp lý có một triết học mạch
lạc, không bao giờ thúc đẩy bạo lực, kích thích dục vọng. Các sắc luật
thiêng liêng trình bày đạo lý Phật giáo nhấn mạnh vào lòng từ bi và sự nhẫn
nhục. Đạo Phật Tiểu thừa chủ trương an phận tự giác, từ bi bác ái, chú
trọng đến giới quy (những điều răn cấm) đối với bậc tu hành.
Những khái niệm như Vô minh, mối tương quan giữa Phật và bản
ngã; những quan niệm Phật giáo về hữu vô, về Luân hồi quả báo, về vũ trụ
khai tịch luận của đạo Phật nhằm làm sáng tỏ triết học Phật giáo, hoặc gợi
mở cho những tín đồ đạt tới sự giác ngộ. Có thể lấy sách Tripitaka, sách
Traiphum; chuyện Lokaneyyajataka (1754) và chuyện Ponha Sarak
Seraksa (1798) của Ôcnha Khleng Nong làm dẫn chứng.
Sách Tripitaka (ba chiếc giỏ) là một cuốn sách Kinh điển, tác phẩm đã
làm sáng tỏ triết học Phật giáo, nó trình bày ba khúc của giáo pháp nhà
Phật: (i) Giới luật; (ii) Những câu kinh kệ (để tụng niệm); (iii) Phần siêu hình.
Về giới luật: khi ở chùa các nhà sư phải trì thập giới, khi hoàn tục phải
trì ngũ giới. Tuy nhiên, lời thề thiêng liêng giữ sự trong sạch về tình dục thì
hầu như không bao giờ bị phá vỡ (5) .
Traiphum là một tác phẩm bao quát những tư liệu về các quan điểm
tôn giáo, triết lý và khoa học của các tín đồ đạo Phật. Cuốn sách trình bày
có hệ thống giáo lý của đạo Phật, là cơ sở sự hình thành thế giới quan
trung đại của người dân Campuchia. Mục đích của Traiphum là khuyến
khích con người sống phù hợp với lý tưởng của đạo Phật, tránh điều ác, làm
điều thiện Xu hướng đạo lý rõ ràng của Traiphum không phải là kết cấu
của sự suy xét sâu xa của tác giả về đạo Phật, mà là sự phản ánh những
tâm trạng yếm thế chung điển hình cho đạo Phật ở 15 thế kỷ đầu sau Công
nguyên, khi bắt đầu xuất hiện vô số các giáo phái và khuynh hướng khác
nhau, và đạo Phật không còn là một học thuyết nhất quán nữa.
Lokaneyyajataka (nhập môn vào nguồn gốc những cuộc đời của Phật)
là tác phẩm nhằm đề cao lý tưởng Phật giáo. Đây là tác phẩm của Prê
Khleng Nong- nhà thơ nổi tiếng dưới triều vua Ang En và Ang Đuông. Ông
là một nhà sư, trông coi một ngôi chùa ở kinh đô Uđông và giữ một vai trò
quan trọng về chính trị và hành chính, Nong viết rất nhiều, phần lớn những
tác phẩm của ông đều bắt nguồn từ Kinh Phật (Dhamma Sutra), từ những
bài văn giáo quy Phật giáo, từ những Jataka (lịch sử cuộc đời của Phật).
Năm 1798, Nong viết tác phẩm Chuyện Ponha Sarak Seraksa (Phunnã
sara sira sâ) mục đích khuyên răn con người tìm ý nghĩa cuộc sống trong
Phunnã, nghĩa là trong tư cách đạo đức và trong những việc làm tốt.
Ngoài ra trong mạch tác phẩm thứ nhất này còn phải kể đến
Dasajataka (mười cuộc đời trước của Phật) gồm những tác phẩm có tên
sau:(i)- Temiyajataka; (ii)- Jannakajataka; (iii)- Suvanna samajataka; (iv)-
Nemiraja jataka; (v)- Mahosatha jataka; (vi)- Bhuradattajataka; (vii)-
Candakumajataka; (viii)- Naradajataka; (ix)- Vidhurajataka; (x)-
Vessantarajataka.
Những tác phẩm bình giảng lý thuyết Phật giáo kể trên mới chính là
văn học Phật giáo, thuần tuý bàn về giáo lý và tu hành. Đây là những tác
phẩm triết học hay tôn giáo học thuộc phạm trù Kinh và Lục của Phật giáo.
4. Mạch tác phẩm thứ hai cũng bắt đầu từ rất sớm, ngay từ thời
Angco.
Các nhà văn, nhà thơ Khơme tìm cảm hứng trong triết học đạo Phật,
xây dựng những nhân vật có tính người sâu sắc bị đưa đẩy vào những
cuộc thăng trầm vô tận gây nên bởi những việc làm của họ từ kiếp trước.
Những câu chuyện về các kiếp của Đức Phật (Jataka) đã trở thành nguồn
đề tài quan trọng của văn học. Một mặt các mẩu chuyện trong Jataka (6)
thường được dùng làm cái cốt cho những sáng tạo mới. Mặt khác, có hiện
tượng nhiều tác phẩm không lấy từ Jataka nhưng bắt chước dáng dấp của
kiểu chuyện này: nhân vật chính diện trong truyện là hiện thân của Phật Tổ.
Cho nên văn thơ ở mạch tác phẩm thứ hai này nhiều lúc chỉ làm việc
minh hoạ đơn giản cho giáo lý nhà chùa, bởi lẽ quan niệm nghiệp căn
(Karma) của Phật giáo chi phối hầu hết các tình tiết cốt truyện.
Truyện Vessandor kể về đời Đức Phật vào trước kiếp sinh cuối cùng
dưới trần thế, trước khi ngài giác ngộ thành Phật. Kiếp này gọi là Kiếp sinh
lớn (tiếng Pali: Maha Jati). Truyện hoàng tử Vessandor đã hoàn thành sứ
mệnh cuối cùng của mình dưới trần thế với tư cách là một Bồ Tát- một
người sắp trở thành Phật, tức là tự mình chuẩn bị giác ngộ ở kiếp sinh cuối
cùng dưới trần thế. Do đó, cuộc đời của hoàng tử là một lý tưởng cho lòng
tin. Nhân dân thích nghe về cuộc đời của ông, vì lòng hỉ xả cao cả của
hoàng tử đã làm cho họ xúc động sâu sắc. Vessandor là một truyện rất phổ
biến trên khắp lục địa Đông Nam á, nó ảnh hưởng lớn lao đến cuộc sống
của đông đảo quần chúng. Vessandor đóng một vai trò chủ đạo trong lịch
sử văn viết Phật giáo Campuchia (cả bằng tiếng Khơme lẫn tiếng Pali), bởi
vì câu chuyện chứa đựng những cách mô tả hóm hỉnh và đẹp đẽ, nó trở
thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ và nghệ sĩ Campuchia. Bản dịch
đầu tiên tác phẩm này ra ngôn ngữ văn học Khơme có lẽ vào khoảng thế kỷ
XIX do vua Ang Đuông viết năm 1837.
Pannansa Jataka (50 Jataka) xuất hiện ở Campuchia vào đầu thế
kỷ XVIII và đã thâm nhập nhanh chóng vào nền văn học dân tộc, trở thành
nguồn cảm hứng lớn đối với truyện thơ Campuchia. Khác với tác phẩm
Phôcaculcộma (1804) của Prê Khleng Nong bàn về Tam thiên thi Phật giáo,
về quan niệm Nghiệp Căn; khác với tác phẩm Cơrông Xôphẹ
Mứt(7) (Krum Subhamitr - 1798) của Kossa Thippađây Kao trình bày một
trong nhiều kiếp sống khác nhau của Đức Phật; trong truyện Môranăc
Miada (8) (1877) của nhà sư Prê Thom Panha Uc thì không đả động gì đến
Bồ Tát, tuy nhiên ảnh hưởng của Phật giáo ở đây là luật nhân quả ngấm
ngầm tham gia vào để chi phối sự diễn tiến của câu chuyện. Cái phong vị
thiên về bi kịch, về phiêu lưu tình ái, về cái kỳ ảo đã thực sự tạo nên cái
mạch quán xuyến câu chuyện.
Một tác giả khác cũng rất quan tâm đến đề tài Bồ Tát là Phiêcđây
Acsa Tân với tác phẩm Truyện Sabba Siddhi (1899) gợi lại một kiếp sống
rất quen biết của Phật khi còn là Bồ Tát. Phật đã trải qua rất nhiều kiếp
sống, trong đó có một kiếp “Cheap Kabbas” (loài chim sẻ Aegithinatiphia)
trong một khu rừng cùng với con sẻ cái. Trong một tai nạn cháy rừng, đàn
con bị chết, chim cái khóc lóc và trách mắng chim đực chỉ vì mải la đà với
chim cái khác mà để tai hoạ xảy ra. Chim đực giải thích hết lẽ nhưng chim
cái vẫn không nghe. Chim cái quyết định tự sát và thề rằng khi nào tái sinh
nhất định sẽ không nói một lời với bất kỳ người đàn ông nào. Chim đực
cũng quyết định tự sát và mong gặp lại chim cái ở kiếp sau. Sau khi chết,
chim cái đầu thai thành công chúa con vua; nàng vô cùng xinh đẹp, nhưng
từ khi sinh ra nàng không nói với người đàn ông nào , kể cả vua cha. Vua lo
lắng, cho truyền khắp nước rằng, nếu người đàn ông nào nói chuyện được
với công chúa thì người ấy sẽ được lấy nàng làm vợ.
Chim sẻ đực, sau khi chết, đầu thai thành con trai một gia đình giàu
có, lấy tên là Sabba Siddhi. Chàng học được phép ảo thuật, có thể hoá thân
vào đồ vật, loài vật và người (chẳng kể người hoặc vật đó sống hay chết).
Đáp lời truyền gọi của vua, chàng vào cung, với phép ảo thuật của mình,
chàng đã nói chuyện được với công chúa và được lấy nàng làm vợ. Vua
phong cho chàng chức tể tướng (Obbarach).
Chủ đích của Phiêcđây Acsa Tân là muốn phản ánh một kiếp của
Phật khi Phật còn là Bồ Tát, nhưng ảo thuật đã đóng vai trò quan trọng
trong diễn tiến câu chuyện. Vậy mà, theo luật tái sinh thì việc sản sinh có
điều kiện (paticcasa muppada) một thứ “ý chí luận” dựa trên sức mạnh của
ảo thuật, là trái với các nguyên lý của trí tuệ nhà Phật. Dù thông minh,
Sabba Siddhi cũng không thể làm cho công chúa Sovannkêssa nói nếu
không có sự trợ giúp của ảo thuật. Sự hoá thân của hai linh hồn ấy rồi sự
gặp gỡ nhau, rồi sự tái hợp (Tái+ Hợp) của họ dưới một mái nhà, minh hoạ
triết lý luân hồi của đạo Phật, cụ thể hoá dưới hình thức một khái niệm rất
phổ biến về “lứa đôi tiền định”. Người Khơme thường bị thuyết phục bởi
triết lý này, nghĩa là mọi việc đều được định trước cả. Tâm lý của người
Khơme không “Âu hoá” và không “Macxit”, nó bị chi phối bởi cái mà người
ta gọi là “Chủ nghĩa định mệnh có ý thức” (9) .
- Có thể coi thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX là một giai đoạn văn học riêng
mà ở đó tính nhân bản nổi trội lên như một nét đặc sắc nhất. Tạo nên nét
đặc sắc này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó tư tưởng Phật giáo với
những triết lý về nhân sinh, về vũ trụ đóng góp một phần quan trọng. Có thể
nói Bo Tum Thêrát Xom là tác giả đầu tiên trong văn học Campuchia (cuối
thế kỷ XIX- đầu XX) đã có một phần sáng tạo liên quan đến những cảm
hứng bắt nguồn từ triết lý Phật giáo. Trong tác phẩm Truyện Tum Tiêu (10),
ông đã cảm nhận nỗi đau thân phận con người qua những triết lý về Nghiệp
Căn Quả Báo. Ông đã quan tâm và đề cập đến nỗi khổ đau của con người
với tư cách là một cá thể. Ông đã mở ra một hướng mới, mà về sau, từ thế
kỷ XX văn học sẽ tiếp nối với những “gam màu” đậm hơn, nhức nhối hơn.
Ngọn gió từ bi thổi qua vườn văn học Campuchia thấm nhuần trong
các tác phẩm, lấy Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo. Truyện Tum Tiêu là một
minh chứng rõ nét cho điều đó.
“Cửa Phật từ bi” xuất hiện trong Truyện Tum Tiêu thông qua hình
tượng sư thầy chùa Prêh Vihia Thôm, thông qua những cảm xúc, tư duy
của Tum(11) và những ý tưởng răn dạy của bản thân tác giả. Tác giả đã
dùng chữ Nghiệp của nhà Phật để giải thích căn nguyên nỗi khổ đời Tum.
Trong Truyện Tum Tiêu có thể bắt gặp thứ triết lý Nghiệp báo, Quả báo có
mầu sắc siêu hình của triết lý Phật giáo.
Tum đã phạm vào thuyết “diệt dục” của nhà Phật. Phật giáo khuyên
con người không nên chạy theo công danh phú quý, chạy theo tình dục.
Rơi vào những khát vọng mong muốn có nghĩa là rơi vào bể khổ. Tác giả
Bô Tum Thêrát Xom cũng không thoát ra khỏi con đường triết luận về “bể
khổ của nhà Phật”.
Khi nói về căn nguyên đã đưa đến thân thế trầm luân của Tum :
Cửa Phật rộng lòng thầy chẳng hẹp ?
Đã đi tu sao chẳng đuôi đầu ?
Khoác áo Phật là không giới tính
Nay con đà nặng nỗi trần ai
(12)
.
Lời quở mắng của sư thầy và lời tiên đoán về số phận của Tum đã
báo trước một điều gở, một sự trừng phạt đối với con người chạy theo cám
dỗ!
Con người trong cách nhìn nhận của Bô Tum Thêrát Xom là bị đày
đoạ trong cõi trần và mang theo suốt cuộc đời nỗi đau khổ nghiệp chướng.
Nó sẽ được giải thoát khi đến với triết học Phật giáo. Nghĩa là, khi sống họ
chìm nổi trong “bể khổ”, và khi chết họ được về cõi vĩnh hằng. Tum và Tiêu,
hai nhân vật chính của Truyện Tum Tiêu trước khi chết, đã cầu nguyện
Tam Bảo(13) phù hộ cho họ được lên cõi Thiên Đàng.
Phật giáo yêu cầu tín đồ phải khắc phục Tham, Sân, Si thì Bô Tum
Thêrát Xom chấp nhận sự “nổi giận” của Tum.
Tum, một chàng trai thông minh, khôi ngô, có tài, dù đã được nghe
thuyết giáo về Nghiệp, về Tâm, vẫn không tìm được sự giải thoát khi quy y
đầu Phật. Những ngày “nương náu” nơi cửa Phật đối với chàng chỉ là vô
vọng. Cuộc đời tu hành đơn điệu, buồn bã, giam hãm chí trai trong cảnh
chùa nghiêm nghị và thanh bạch với những điều răn của Phật giáo đã làm
cho Tum không sao chịu đựng được, chàng chỉ muốn hoàn tục vì nhớ
người yêu.
Bô Tum Thêrát Xom tự trói buộc trong giới luật nhà chùa, tu được quả
phúc, cho đến tận lúc qua đời ông vẫn là một nhà sư. Câu chuyện ông viết
ra mang ý đồ răn dạy của Phật giáo, ông nói đến Nghiệp chướng, Thiện
căn, Tam bảo, Luân hồi quả báo, Kiếp sau nhằm làm rõ thêm những nỗi
khổ đau, bất trắc của mọi số phận. Con người tìm đến cửa Phật không phải
với tư thế tích cực, chủ động “Kiến tín thành Phật”, mà là tìm đến một đấng
siêu phàm để cầu xin sự cứu rỗi, để tìm đến sự thoát ly dù đó chính là điều
không thể đạt được. ý nghĩa khách quan của tác phẩm đã vượt ra ngoài ý
đồ của tác giả.
Có thể nói, Bô Tum Thêrát Xom đã phát hiện ra con người với sự
phong phú của bản sắc cá nhân song từ “những điều trông thấy” của hiện
thực đời sống, ông lại càng nhận ra một điều khác: những tài hoa, những
bản lĩnh cứng cỏi không được thể chế xã hội chấp nhận. Họ, hoặc là từ bỏ
cái “tôi” bướng bỉnh biết ý thức về mình, hoặc suốt đời chịu khổ đau, đầy
đoạ. Con người trẻ đẹp, tài hoa thuở ấy chưa tìm ra lối thoát kể cả việc tìm
đến cửa Phật.
Tư tưởng Phật giáo đi vào văn học thế kỷ XVIII- đầu XIX chủ yếu theo
mạch cảm hứng thứ hai. ở mạch cảm hứng này, tư tưởng triết lý và giáo lý
đạo Phật được cảm nhận dưới dạng thức cụ thể của đời sống hiện thực. Vì
thế những khái niệm triết học khô khan, trừu tượng, khó hiểu của đạo Phật
đã trở nên gắn bó gần gũi với những niềm vui trần thế và được minh chứng
bằng những biến cố, sự việc thường nhật của cuộc đời. Mạch tác phẩm này
do vậy nhạt chất triết lý mà đậm chất trữ tình. Và cũng chính vì vậy, chúng
có đời sống bền lâu trong thời gian và ảnh hưởng rộng lớn trong quần
chúng. Một điều chắc chắn rằng tư tưởng triết học Phật giáo đã góp một
phần quan trọng làm nên giá trị bất tử của những tác phẩm này, đặc biệt là
tác phẩm nổi tiếng Tum Tiêu.
5. Mạch tác phẩm thứ ba là những tác phẩm mang vỏ tôn giáo
nhưng tuyệt nhiên không mang nội dung Phật giáo.
Có thể lấy tác phẩm Nàng Ca Cây (1815) của vua Ang Đuong ;
Truyện Hans Yant (Thiên nga bằng máy); Truyện Chau Sratốp Chek (Người
tự trang điểm bằng những bẹ lá chuối) của Yos Nghin sáng tác làm minh
chứng.
Truyện thơ Nàng Ca Cây lấy đề tài từ trong Jataka. Nhưng câu
chuyện về người vợ phản bội trong Nàng Ca Cây không giống như
trong Jataka. Những nhân vật mượn ở Jataka tuy rõ ràng cũng phản ánh
tấn kịch con người, nhưng phần nhiều là vua, là hoàng tử, là thần thánh bị
truất giáng. Những truyện như Chàng Rôthisen và Nàng Koongrê;
Sudhanna Kumara; Cơrông Xôphẹ Mứt; Phôcaculcộma chỉ để minh
chứng “bằng mọi giá” triết lý nhân quả của Phật giáo. Còn truyện Nàng Ca
Cây lại là một tấn kịch tâm lý, miêu tả tình yêu đắm say muôn thuở. Các
nhà văn Khơme, cũng như công chúng của họ, rất thích những cái cụ thể,
hiện thực. Sau khi “thổi” tính người vào tính thần kỳ , hay ngược lại, sau khi
trộn lẫn ảo thuật vào triết lý nhà Phật, sau khi tạo ra những nhân vật và
những vị nửa thần nửa người để ném họ vào tấn kịch con người trong cái
kỳ ảo kề bên cái hiện thực, các nhà văn Khơme thế kỷ XIX đã làm cho thơ
Khơme bước từ trên trời xuống! Hơn nữa công chúng Khơme rất coi trọng
đời sống tâm linh, họ mệt vì những biến cố của các đế vương, sự sa sút
của các ông hoàng, những cảnh nên thơ của cái kỳ ảo, những cái đó không
phải là thế giới của họ, nên họ quay ngay về tấn kịch con người nạn nhân
của chính mình, bị bỏ rơi không phương cứu chữa trong sự cô quạnh của
cuộc sống hàng ngày và phải đương đầu với những thành kiến xã hội. Vì
vậy, truyện Nàng Ca Cây - kẻ không chung thuỷ- được công chúng Khơme
đặc biệt chú ý. Sự không chung thuỷ của nàng Ca Cây, bị tác giả lên án
nghiêm khắc, chỉ là tấn kịch của một người đàn bà không thích nổi với sự
tồi tệ của Vương triều. Đó cũng là tấn kịch muôn thuở, trong thời gian và
trong không gian. Garuđa, người yêu của nàng Ca Cây, phải chăng là biểu
tượng, là sự thể hiện những chàng trai cường tráng, đầy sinh lực, được
đàn bà ưa thích. Dù sao, nhân danh luân lý, thi phẩm đó vẫn là lời trừng
giới, lời răn đe đối với những phụ nữ Khơme giàu dục tình và ảo tưởng.
Truyện Nàng Ca Cây mượn vỏ tôn giáo nói về cuộc sống thực, chứng
tỏ truyện thơ Khơme đã bắt đầu loé lên nhu cầu thể hiện tình cảm của con
người cận hiện đại.
Truyện thơ nổi tiếng Chau Sratôp Chek của Yos Nghin là tác phẩm
được công chúng Khơme thích thú.
Truyện thơ Chau Sratôp Chek xứng đáng được hưởng sự chú ý đặc
biệt. Theo giáo sư Vandy Kaonn nhận định: Đứng về mặt quan điểm xã hội
học, tác phẩm này là một trường hợp nghiên cứu rất lý thú về những “biểu
hiện tập thể” ở người Khơme. Những biểu tượng thường thay thế cho
những tích trò ca kịch, không những diễn tả một thế giới trong đó cái kỳ
diệu và ảo thuật trộn lẫn với nhau, mà còn diễn tả, nhất là diễn tả tâm lý
công chúng Khơme.
Theo Viện Phật học Phnôm Pênh cho biết thì truyện Chau Sratôp
Chek không tìm thấy ở trong Mười Jataka và cũng không có ở trong
Năm mươi Jataka, mặc dầu tác giả nói rằng nhà thông thái Mao kể lại
cho ông nghe câu chuyện này là ở Tukanipatra.
Những truyện thuộc mạch tác phẩm thứ ba này hầu như đã biến dạng
hoàn toàn (Pram ray Jataka). Đề tài chủ yếu của những tác phẩm
như Chuyện Hans Yant (Thiên nga bằng máy), Chuyện Kyah Sankh (ốc
biển) viết năm 1729 là những tác phẩm nói đến sự phiêu lưu, tuy nhiên luật
Karma vẫn ngấm ngầm chi phối diễn tiến của câu chuyện.
Có thể nói, các nhà văn nhà thơ Khơme chịu ảnh hưởng Phật giáo
đều muốn làm rõ luật Nhân Quả nhằm giúp người dân Campuchia hiểu
được con đường giải thoát để họ tránh được mọi đau khổ. Và mục đích tối
cao của Đạo Phật là đạt đến Nirvàna, sự tận diệt hoàn toàn. Các nhà văn
nhà thơ Khơme cũng muốn nhấn mạnh rằng, trên cơ sở đạo đức Phật giáo,
người ta có thể xây dựng một xã hội hoà bình, sung sướng, đầy lòng nhân
ái và sự tin cậy. Họ cũng muốn củng cố hơn nữa đức tin vào đạo Phật, mà
theo đó thì tất cả các hành động bạo lực đều hoàn toàn bị bác bỏ. Và kẻ ác
sẽ bị trừng trị dưới địa ngục trong các cuộc đời sau của chúng.
Nhìn chung lại, ba mạch cảm hứng trong dòng văn học mang đậm
dấu ấn Phật giáo có những đặc điểm và thành tựu khác nhau. Mỗi mạch
cảm hứng, dù thiên về triết lý cao thâm hay cuộc sống đời thường đều có
những phần, những tác phẩm đạt đến độ sâu sắc, có thể xếp vào hàng
danh tác. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đã trở thành một thành tố tâm hồn
Campuchia, tự nó không tồn tại độc tôn, không hình thành một dòng văn
thơ riêng biệt dù trong một giai đoạn hay suốt chiều dài lịch sử văn học
Campuchia. Tư tưởng từ bi bác ái, phi danh lợi, đầy tính nhân bản của Phật
giáo đã thổi một làn gió làm dịu bớt tư tưởng khoa trương thái quá của Ấn
Độ giáo (Hindouisme)./.