MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI THẢO LUẬN THỨ BA: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI
TÀI SẢN
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 3 năm 2019
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
• KHÁI NIỆM TÀI SẢN:
Quyết định số 06/2017/QĐ-PT:
Diễn biến sự việc:
Ngày 04/05/2017, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa đã căn
cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số
17/2017/QĐST-DS giữa:
- Nguyên đơn: ông Phan Hai
- Bị đơn: ông Phan Quốc Thái
Ngày 12/05/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa
kháng nghị Quyết định đình chỉ trên với lý do: ông Phan Hai có quyền khởi
kiện vụ án vì ông là người có quyền và nghĩa vụ về tài sản do bà Lương Thị
Xàm để lại; và việc Tòa án cho rằng ông Hai không cung cấp được Giấy ủy
quyền của ông Phan Trọng Nguyên là không thỏa đáng.
Ngày 15/05/2017, ông Phan Hai kháng cáo quyết định của Tòa với lý do: Tòa
án cho rằng ông không cung cấp được Giấy ủy quyền của ông Phan Trọng
Nguyên và giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu tài sản đối với Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số phát hành 0926009 là không thỏa đáng.
Quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa:
1. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh,
tỉnh Khánh Hòa; không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Hai.
2. Sửa lại quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/2017/QĐST-DS như sau:
- Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về việc “Đòi lại tài sản” giữa ông Phan
Hai và ông Phan Quốc Thái.
- Trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo về việc “Đòi lại tài sản”
cho ông Phan Hai.
Hoàn trả cho ông Phan Hai 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm
3. Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Hai phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng phí dân sự phúc thẩm ông
Hai đã nộp.
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về một vài giấy tờ có giá?
1
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
- Bộ luật Dân sự 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ
nêu giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TTNHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy
tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác".
- Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại Công văn
141/TANDTC-KHXX, có thể liệt kê một số loại giấy tờ có giá như sau:
o Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng
khác được quy định tại Điều 1 Luật các công cụ chuyển nhượng
2005;
o Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005;
o Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát
sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 Luật quản lý
nợ công 2009;
o Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền
mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp
đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính
quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán
2006 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật chứng khoán sửa đổi
2010);
o Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 Nghị định
52/2006/NĐ-CP về Phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Câu 2: Trong bài viết Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, tác giả
Nguyễn Minh Oanh có coi “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà ” là tài sản không?
- Trong bài viết Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, tác giả
Nguyễn Minh Oanh coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” là tài sản. Trong bài viết có đoạn:
“Cần lưu ý là các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với
tài sản như giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà , giấy đăng kí ô tô, sổ tiết kiệm,… không phải là giấy tờ có giá. Nếu cần
phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của
người đứng tên trên giấy tờ đó”.
2
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
- Theo Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản” thì quyền sở hữu của người đứng tên là tài sản.
Câu 3: Trong bài viết Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tác giả Đỗ Thành Công
có coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
là tài sản không?
- Trong bài viết Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề
kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tác giả Đỗ Thành Công có
coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là
tài sản.
- Trong bài viết, tác giả cho rằng: “Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất
không phải là giấy tờ có giá tuy nhiên hoàn toàn có thể xem giấy chứng
nhận quyền sở hữu đất là vật. Điều này hợp lí bởi giấy chứng nhận quyền
sở hữu đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm chí là có
hình dáng cụ thể (là tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con
người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lí)”.
Câu 4: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và
bản án số 39 có câu trả lời không?
- Trong tực tiễn xét xử “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải giấy tờ có giá; chỉ là văn bản chứa đựng
thông tin về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, là văn bản chứng
quyền
- Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT đã xác định “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không là giấy tờ có giá.
- Bản án số 39 lại không đề cập tới.
Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và
Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao?
3
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không là tài sản. Vì:
o Theo Điều 105 BLDS 2015 có quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”.
o Theo Điều 115 BLDS 2015 quy định:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác”.
- Quyết định số 06 thể hiện điều đó qua kết luận “Như vậy, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử
dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không được
xem là giấy tờ có giá trị”.
- Bản án số 39 không đề cập tới.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng dất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với
pháp luật nước ngoài)
- Hướng giải quyết của thực tiễn xét xử liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chưa thoả đáng nếu nhìn
từ khái niệm tài sản. Vì:
o Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tồn tại dưới một hình thức
vật chất nhất định, có hình dạng cụ thể (là tờ giấy), nằm trong khả
năng chiếm hữu của con người và có giá trị sử dụng. Việc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không tham gia vào giao dịch trao
đổi cũng không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Trên thực tế,
cũng có những tài sản mà Nhà nước ta cấm lưu thông như: vũ khí,
trang thiết bị quân dụng,....
o Việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản
dẫn tới nhiều hậu quả về mặt lí luận và thực tế. Mặt khác, nhận
thức này cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử
dụng đất. Cụ thể, theo quy định hiện hành của Pháp luật Việt Nam,
quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ khác của quyền sở hữu
(quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) chỉ có thể
thực hiện trên đối tượng là tài sản. Như vậy, việc coi Giấy chứng
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ đi quyền
chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại
giấy tờ này.
Câu 7: Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà không là tài sản. Vì:
o Theo Điều 105 BLDS 2015 có quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”.
o Theo Điều 115 BLDS 2015 quy định:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác”.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà”.
- Theo tôi, hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” rất hợp lí và rõ
ràng.
- Vì “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không thuộc quyền tài sản mà chỉ là giấy chứng nhận cho quyền tài sản
và không thuộc giấy tờ có giá.
Câu 9: Bitcoin là gì?
- Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT, ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh
bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009.
Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà
không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào. Do đó không
cần có lệ phí giao dịch và cũng không cần phải cung cấp tên thật.
- Bitcoin không thể in như tiền mặt – chúng được tạo ra bởi một hệ thống
máy tính trên toàn cầu. Quy mô mạng lưới này ngày càng mở rộng với
sức mạnh từ những siêu máy tính tham gia.
Câu 10: Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
5
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
- Theo Tòa án, Bitcoin không là tài sản theo pháp luật Việt Nam.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin
trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
- Theo tôi, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với
khái niệm tài sản ở Việt Nam là hợp lý.
- Vì hiện tại chưa có bất kì quy định pháp lý nào quản lý việc giao dịch
Bitcoin từ Chính phủ Việt Nam. Tháng 2/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam ra thông cáo báo chí, trong đó ghi rằng việc sử dụng Bitcoin làm
phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Khi
không công nhận Bitcoin là tiền tệ hay phương tiện thanh toán, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã phủ nhận thẩm quyền của mình đối với
Bitcoin. Ngoài ra, Bộ Công Thương hiện tại vẫn chưa công nhận Bitcoin
là hàng hóa hay dịch vụ, phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin.
Việc này cũng bãi bỏ cơ sở để thu thuế Bitcoin vì không thể đưa Bitcoin
vào danh mục hàng hóa hay dịch vụ để thu thuế. Ngày 21/8/2017, Thủ
tướng Chính phủ đã ký phê duyệt hoàn thiện đề án khung pháp lý để quản
lý các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo, trong đó có Bitcoin. Đây là tín
hiệu trực tiếp từ phía Chính phủ rằng các giao dịch Bitcoin sẽ được hợp
pháp hóa vào tháng 8/2018 với khả năng phân loại Bitcoin vào danh mục
tài sản ảo.
- Như vậy, việc sở hữu, giao dịch, đào Bitcoin tại Việt Nam không phải là
vi phạm pháp luật mà là chưa có luật điều chỉnh. Việc thanh toán, sử dụng
Bitcoin cũng không vi phạm pháp luật. Bởi khi không công nhận Bitcoin
là phương tiện thanh toán thì cũng đồng nghĩa với việc trao đổi hàng hóa
với Bitcoin không phải là thanh toán theo đúng định nghĩa của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
- Hiện tại, ở Việt Nam đã có 2 sàn giao dịch Bitcoin được đăng kí chính
thức dưới danh nghĩa doanh nghiệp đã hoạt động từ tháng 3/2014 cho đến
nay và vẫn không bị hạn chế giao dịch dân sự.
6
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
• CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU:
Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09/09/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là tài sản riêng
của cụ Dư Thị Hảo. Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn buôn bán, giao nha số 2
Hàng Bút cho vợ chồng con trai là ông Nguyễn Đắc Chính và bà Nguyễn Thị
Châu quản lý. Năm 1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác nên cho
ông Nhữ Thị Hải thuê. Nhưng chị Vân lại khai là ông nội thuê nhà số 2 Hàng
Bút từ cụ Hảo từ năm 1954. Chị không biết cụ Hảo, chị chỉ biết ông Chính là
người cho nhà chị thuê nhà. Khi cho thuê có lập giấy tờ nhưng sau này bị mất.
Sau khi ông Hải chết thì cháu ông là chị Nhữ Thị Vân vẫn sử dụng đến nay.
Năm 1999, vợ chồng bà Châu gặp chị Vân để đòi nhà. Chị Vân yêu cầu tìm nhà
khác nhưng khi tìm được nhà thì chị Vân không đồng ý nên hai bên không thoả
thuận được. Năm 2001, chị Vân bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng chị
Dương Thị Ngọc Lan và anh Nguyễn Hồng Sơn. Giấy mua bán nhà là giấy viết
tay có chữ kí của 3 anh em là chị Vân, anh Lâm và anh Lân, giấy mua bán nhà
không có xác nhận của cơ quan thẩm quyền. Anh chị đã sửa chữa nhà hết
25.000.000 đồng. Cùng năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản
nhà số 2 Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác
nhận của UBND xã Kim Chung). Tháng 1/2007, cụ Hảo chết. Bà Vân yêu cầu
chị Vân trả lại nhà số 2 Hàng Bút ( tầng 1) có diện tích 32,05m2 và đồng ý
thanh toán tiền sửa chữa nhà là 25.000.000 đồng cho chị Lan anh Sơn.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 15 ngày 12/04/2005, Toà án quận Hoàn
Kiếm quyết định: Chấp nhận yêu cầu đòi nhà của cụ Hảo với chị Vân và chị
Lan. Buộc phải trả nhà cho cụ Hảo tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút. Việc mua bán
nhà gữa chị Vân và chị Lan mà xảy ra tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án
khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm thì chị Nhữ Thị Vân và chị Dương Thị Ngọc Lan có
đơn kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 253/2005/DS-PT ngày 29/11/2005, Toà án
nhân dận thành phố Hà Nội quyết định: Huỷ bán án dân sự sơ thẩm. Giao hồ
sơ cho Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm giải quyết lại.
Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc
Lan, anh Nhữ Duy Lâm có đơn kháng cáo.
7
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Toà quyết định huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 90/2011/DSPT
ngày 30/05/2011 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao Hà Nội và huỷ
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày 31/08/2010 của Toà án
nhân dân thành phố Hà Nội.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết
suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế
hệ”, “Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng
Bút từ năm 1954”, “nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân
từ sau năm 1975”, “đến năm 2004 cụ Hảo mới kiện ra toà” “Ngày
18/02/2001 chị bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn
Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan”
- Căn cứ Khoản 1 Điều 179 BLDS năm 2015:
“1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.”
Vì gia đình chị Vân đã ở nhà số 2 Hàng Bút nhiều thế hệ cộng với khoản
thời gian bắt đầu ở từ năm 1954 đến khi cụ Hảo kiện ra toà năm 2004 là
tầm 50 năm, chị Vân bán tầng 1 nhà số 2 hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn
chị Lan => chị Vân nắm giữ và chi phối trực tiếp đối với tài sản nhà đất
đang tranh chấp => Khẳng định của Toà án hoàn toàn hợp lý.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn : “...Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm
hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Bộ luật dân
sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu...” đã khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.
- Khẳng định trên của Tòa án nhân dân tối cao là có phần đúng đắn. Bởi từ
quyết định giám đốc thẩm này có thể thấy chưa xác minh được ông Hải
thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay là thuê nhà của ông Chính từ năm
1968. Trong khi đó, ông Chính lại không xuất trình được tài liệu cụ Hảo
ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Có thể nhận ra quyền chiếm
hữu, sở hữu nhà đất này cũng như thời điểm xác lập giao dịch cho thuê
chưa thực sự rõ ràng. Vì thế, bị đơn là chị Nhữ Thị Vân - người không
8
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
trực tiếp giao dịch để thuê nhà đất, cũng như không nắm rõ giao dịch thuê
nhà đất này có thể không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó
là không có căn cứ pháp luật (thỏa mãn điều 189 BLDS 2005) nhưng chị
Vân lại khai có biết về việc thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho
ông Chính. Vậy thì chị Vân có thực sự biết hay không biết việc chiếm
hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật của mình? Theo cảm nhận cá
nhân, tôi thấy Tòa án nhân dân tối cao đã kết luận hơi nóng vội.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án đã khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế
hệ”, tuy có tranh chấp “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”.
- Căn cứ Điều 182 BLDS năm 2015:
“1. Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một
khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó
hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.
2. Việc chiếm hữu không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán
về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184
của Bộ luật này.”
Chị Vân hoàn toàn chiếm hữu liên tục đối với nhà đất có tranh chấp =>
Khẳng định của Toà án hoàn toàn hợp lý.
Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định của Tòa án?
- Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm dựa vào đoạn:
9
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
“Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân
sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu : Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động
sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”
- Quyết định của Tòa án là hợp lý.
o Theo Khoản 1 Điều 183 BLDS 2015:
“Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách
minh bạch, không giấu giiếm; tài sản đang chiếm hữu được sử
dụng theo tính năng công dụng và được người chiếm hữu bảo
quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”.
o Chị Vân đã ở cùng gia đình tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 một
cách minh bạch, không giấu giếm, bố chị xem căn nhà là tài sản
của mình và cũng đã nâng cao nền nhà, thay cửa.
Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
- Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
qua đoạn:
“Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình nhà chị Vân
từ sau năn 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản
hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bố năm 2001); đến năm
2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là
không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu
trên”.
- Khẳng định này của Tòa án là hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các bên
liên quan. Vì:
o Theo quy định tại Khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự:
“Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động
10
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó kể
từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”.
o Do vậy, chị Vân đã chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng
thửa đất đó ngay tình, liên tục, công khai từ 30 năm trở lên nên chị
Vân trở thành chủ sở hữu tài sản kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu. Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, người
kiện đòi tài sản phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đòi tài sản của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, kể cả
trường hợp gia đình chị Vân không chứng minh được là đã chiếm
hữu, sử dụng thửa đất đó ngay tình, liên tục, công khai từ 30 năm
trở lên thì điều đó cũng không có nghĩa là gia đình chị Vân phải trả
lại thửa đất cho người khởi kiện
Câu 6: Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền
không? Vì sao?
- Nếu cụ Hải thuê nhà của cụ Hảo từ năm 1954 thì chị Vân được hưởng
quyền dân sự vì thời hiệu hưởng quyền của chị đã hết nên chị được xác
lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp. Vì theo Khoản 1, Điều
247, BLDS 2005 và Điều 236, BLDS 2015:
“Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể
từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”
Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm
2004 (thời điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Toà yêu cầu chị Vân trả nhà) thì
đã được 50 năm. Theo quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản
trên 30 năm nên trở thành chủ sở hữu của tài sản này.
- Nếu cụ Hải thuê nhà của ông Chính từ năm 1968 thì cụ Hảo vẫn là chủ sở
hữu nhà đất nên chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp.
11
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
12
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
• CHUYỆN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN:
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro đối
với tài sản theo quy định của Bộ luật Dân Sự 2015.
- Điều 162 Bộ luật Dân Sự 2015 quy định:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong
phạm vi quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở
hữu tài sản hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời
- Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài.
- Bà Dung nhận ghe xoài trước khi vụ cháy chợ xảy ra dẫn đến việc ghe
xoài bị hư. Vì thế, sau khi nhận hàng, bà Dung chính là chủ sở hữu của
ghe xoài thông qua giao dịch mua bán giữa bà Dung và bà Thủy.
Câu 3: Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên.
- Vì ghe xoài bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 441 Bộ luật Dân Sự 2015 quy định
1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên
mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
13