Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CƠ sở lý LUẬN và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu về ổn ĐỊNH tài CHÍNH QUỐC GIA TRONG TIẾN TRÌNH tự DO hóa THƯƠNG mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.77 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU VỀ ỔN ĐỊNH TÀI
CHÍNH QUỐC GIA TRONG
TIẾN TRÌNH TỰ DO HĨA
THƯƠNG MẠI


Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ thập kỷ 1990 đến nay tự do hoá thương mại và hội
nhập kinh tế quốc tế đã có bước phát triển đột biến mạnh mẽ
thể hiện trên các mặt: sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) bao gồm gần như tất cả các nền kinh tế thế giới
(hiện đã có 148 nước tham gia và hầu hết các nước còn tại
đều muốn tham gia); các khu vực thương mại tự do phát triển
mạnh mẽ từ EU, NAFTA, AFTA đến các khối kinh tế khác ở
hầu khắp các châu lục; các Hiệp định thương mại tự do song
phương phát triển chưa từng có giữa các quốc gia với nhau
như Mỹ - Singapore, Mỹ - Thái Lan... đến các Hiệp định
thương mại tự do giữa các khối thương mại tự do với các
quốc gia như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Nhật Bản...
Hàng rào thuế quan giữa các nước phát triển với nhau đã giảm
xuống cịn 3%, mức thuế quan qn bình của các nước đang
phát triển cũng đã được hạ thấp xuống còn khoảng 14%.
Những cam kết giảm bỏ hàng rào bảo hộ đang là nội dung chủ
yếu của các cuộc đàm phán đa phương và song phương hiện
nay.


Hầu hết chính phủ của các quốc gia đã thấy rõ tầm quan
trọng của việc phải đẩy mạnh tự do hoá thương mại và hội


nhập kinh tế quốc tế, và đã có các chính sách thúc đẩy những
xu hướng này.
Tự do hoá thương mại hiện đang là xu thế tất yếu khách
quan, tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia, dân tộc, đến
đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như cuộc
sống của mỗi con người. Tự do hố thương mại khơng chỉ tạo
ra cho các nước những cơ hội cho sự phát triển nhất là về kinh
tế - kỹ thuật và tạo ra khả năng giao lưu văn hóa, trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động
tích cực, tự do hố thương mại cũng có những ảnh hưởng tiêu
cực tới mỗi quốc gia.
Các nghiên cứu liên quan đến khái niệm “ổn định tài
chính”
Khái niệm về “ổn định tài chính” (fianancial stability) đã
được các nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu và lý giải
theo nhiều cách khác nhau.
Adrew Crockett (1997) đưa ra định nghĩa “ổn định tài
chính” là các tổ chức nịng cốt trong hệ thống tài chính hoạt


động ổn định, niềm tin của các chủ thể kinh tế vào các định
chế tài chính và thị trường tài chính ở mức độ cao. Garry
J.Schinasi (2005) cho rằng “ổn định tài chính” là một hệ
thống tài chính duy trì ở trạng thái khơng có khủng hoảng và
có khả năng: tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ hiệu
quả các nguồn lực kinh tế; đánh giá, phân bổ và quản lý rủi ro
tài chính; duy trì khả năng của mình để thực hiện các chức
năng chính ngay cả khi phải đối mặt với những cú sốc bên
ngồi hoặc tích tụ sự mất cân bằng bên trong.
Adrew Crockett (1997) định nghĩa khái niệm “mất ổn

định tài chính” (financial instability) là tình trạng mà chức
năng của hệ thống tài chính có xu hướng bị xấu đi bởi sự biến
động giá tài sản tài chính và các định chế trung gian tài chính
khơng có khả năng thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ của
mình. Mishkin (1999) cho rằng “mất ổn định tài chính xảy ra
khi những cú sốc gây gián đoạn dịng chảy thơng tin đối với
hệ thống tài chính làm cho hệ thống tài chính khơng thực hiện
tốt được chức năng của mình trong việc phân bổ vốn cho các
cá nhân và doanh nghiệp có cơ hội đầu tư hiệu quả”. Cách
định nghĩa này nhấn mạnh vai trò trung gian của hệ thống tài
chính trong việc cung cấp tín dụng và nhấn mạnh vai trò trung


tâm của thông tin bất đối xứng trong việc gây ra sự bất ổn
định tài chính.
Chant (2003) và Alawode, Al Sadek (2008) đã dẫn ra
cách mà ngân hàng trung ương các nước đưa ra định nghĩa về
ổn định tài chính. Theo Ngân hàng Trung ương Achentina,
"ổn định tài chính” là một tình trạng mà khu vực dịch vụ tài
chính có thể huy động tiết kiệm của người dân và cung cấp
một hệ thống thanh tốn trên tồn quốc một cách có hiệu quả,
an tồn và bền vững theo thời gian. Theo Ngân hàng Liên
bang Đức, “ổn định tài chính” là khả năng của hệ thống tài
chính vận hành tốt các chức năng kinh tế vĩ mô ngay cả trong
thời kỳ kinh tế căng thẳng và điều chỉnh cơ cấu. Còn đối với
Ngân hàng Trung ương Châu Âu, “ổn định tài chính” là một
tình trạng mà hệ thống tài chính bao gồm các trung gian tài
chính, thị trường và cơ sở hạ tầng thị trường tài chính có khả
năng chịu đựng những cú sốc và lấy lại sự cân bằng tài chính
bằng cách thực hiện tốt chức năng trung gian tài chính, tránh

để xảy ra sự gián đoạn của các hoạt động trong hệ thống tài
chính.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ổn định tài chính” hầu như
khơng được sử dụng mà thay vào đó khi nhắc đến các vấn đề


liên quan đến an ninh tài chính quốc gia, các nhà nghiên cứu
sử dụng thuật ngữ “an ninh tài chính” với ý nghĩa nội hàm
tương đương.
Theo Nguyễn Văn Nam và cộng sự (2001), “an ninh tài
chính là sự đảm bảo cho hệ thống tài chính được ổn định lâu
dài, khơng bị tổn thương, có khả năng ngăn ngừa, chống đỡ
hoặc hấp thụ một cách hiệu quả những mối đe dọa hay tác
động tiêu cực của các cú sốc trong và ngồi nước, đặc biệt
trong q trình hội nhập kinh tế”. Nguyễn Toàn Thắng và
cộng sự (2010) cho rằng “ổn định tài chính” là khi hệ thống
tài chính có cơ sở nền tảng tốt về khn khổ pháp lý, khn
khổ chính sách, cơ chế điều hành, hệ thống thanh toán, hệ
thống thơng tin, hệ thống kế tốn, hệ thống thơng tin tín
dụng… đầy đủ, rõ ràng; hệ thống giám sát nhằm quản trị rủi
ro, duy trì kỷ luật thị trường, tránh cho khu vực tài chính bị
tổn thương; các yếu tố môi trường thuận lợi tạo điều kiện kinh
tế vĩ mô.
Xuất phát từ những khái niệm về ổn định tài chính hay
an ninh tài chính chúng ta có thể thấy rằng đối tượng trong
khái niệm về an ninh tài chính là hệ thống tài chính quốc gia.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường dần mở


cửa, bên cạnh những lợi ích của tự do hóa thương mại, tự do

hóa đầu tư và tự do hóa tài chính, các nước đều cần thận trọng
với các mối đe dọa lên hệ thống tài chính quốc gia. Các mối
đe dọa này có thể làm nguy hại dẫn tới trục trặc hoặc đổ vỡ
từng phần, thậm chí có thể gây ra khủng hoảng cả hệ thống tài
chính của một quốc gia và lây lan ra hệ thống tài chính tồn
cầu. Chính vì vậy, cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu cả
về mặt lý thuyết và thực chứng liên quan đến tác động mà tự
do hóa thương mại gây ra đối với ổn định tài chính quốc gia,
cũng như các nghiên cứu liên quan đến đảm bảo an ninh tài
chính trong tiến trình tự do hóa thương mại.
Các nghiên cứu liên quan đến tác động của tự do hóa
thương mại
Phân tích tác động tổng thể của tự do hóa thương mại
dịch vụ đối với nền kinh tế Việt Nam, nhóm chuyên gia
Joshep Francois và cộng sự (2011) đã tiến hành một loạt các
đánh giá. Việc đánh giá bao gồm xác định các rào cản đối với
dịch vụ ở Việt Nam, sử dụng mơ hình định lượng (mơ hình
cân bằng tổng thể khả tính - CGE) cho các tình huống chính
sách. Các tác giả xem xét tác động trong bốn tình huống chính
sách

khác

nhau.

Trước

hết





tự do hóa thương mại dịch vụ trong khn khổ cam kết gia
nhập WTO. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động tổng thể
của việc gia nhập WTO đến nền kinh tế Việt Nam là tích cực,
cụ thể là làm tăng GDP thêm gần 2%. Tiếp đó, Báo cáo phân
tích tác động của ba khuôn khổ tăng cường tự do hóa. Cả ba
khn khổ này đều được xây dựng trên cơ sở các cam kết
WTO, vì thế, kết quả tự do hóa theo các khn khổ này tăng
cường cho tác động của cam kết WTO. Do tự do hóa theo
cam kết gia nhập WTO đã ở mức đáng kể, các khn khổ tự
do hóa ở cấp độ khu vực chỉ tác động tăng cường ở mức
tương đối nhỏ. Khuôn khổ khu vực được xem xét đầu tiên là
tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Do
thương mại dịch vụ chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong
tổng thương mại giữa các nước ASEAN, tác động trong tình
huống này tương đối hạn chế. Hai khn khổ cịn lại được
xem xét là hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Việt
Nam - EU. Các tác giả cho rằng Việt Nam sẽ cắt giảm các rào
cản đối với Hoa Kỳ và EU xuống mức bình quân của các
nước OECD. Tác động tổng thể đối với nền kinh tế ở mức hạn
chế, tuy nhiên một số lĩnh vực cũng có sự chuyển biến nhất
định.


Nguyễn Văn Nam và các cộng sự (2001), Phạm Minh
Huệ (2008) đã phác thảo một khung khổ lý thuyết về sự ổn
định tài chính quốc gia. Theo đó đánh giá tác động của tự do
hóa thương mại đến ổn định tài chính quốc gia trên 4 phương
diện sau: nguồn thu ngân sách, cán cân vãng lai, lạm phát và

nợ nước ngoài. Nguyễn Văn Nam và cộng sự (2001) cũng đã
khảo sát tác động của cải cách thương mại lên nền kinh tế
nước ta giai đoạn 1990 – 2000. Đây là khoảng thời gian Việt
Nam mới bắt đầu mở cửa nền kinh tế, gia nhập một số tổ chức
thương mại và bước đầu kí kết các hiệp định thương mại tự
do. Bài viết đã khái lược những cải cách thương mại cơ bản
nhất trên các bình diện khác nhau, tác động của chúng lên chỉ
số tài chính Việt Nam, đưa ra những quan điểm cơ bản về việc
cải cách thương mại ở nước ta và một số kiến nghị, giải pháp
trên cơ sở xác định được mối nguy hiểm đe dọa sự ổn định tài
chính và thực trạng nền kinh tế.
Phân tích tác động của tự do hóa thương mại lên nguồn
thu ngân sách, David Bevan (1996) đã sử dụng mô hình cân
bằng tổng thể để xem xét mối quan hệ giữa tự do hóa thương
mại và thâm hụt ngân sách dựa trên nguồn dữ liệu tại Kenya.
Kết luận được đưa ra rằng, trong ngắn hạn, tự do hóa thương


mại gây nên sự sụt giảm nguồn thu ngân sách từ thuế xuất
nhập khẩu và các doanh nghiệp thuộc khu vực thay thế nhập
khẩu, được bảo hộ cao. Tuy nhiên, trong dài hạn, thương mại
tự do mang lại những lợi ích cho ngân sách, ngoại trừ sự thất
thu trực tiếp từ thu thuế nhập khẩu, song có thể được bù đắp
nếu mức nhập khẩu gia tăng mạnh.
Jiandong Ju và Shang-Jin Wei (2012) đã phân tích mối
quan hệ giữa cải cách thương mại và cán cân vãng lai với
trường hợp của Trung Quốc và nhận thấy rằng, tự do hóa
thương mại ở đất nước đang phát triển sẽ thường dẫn đến
dòng vốn chảy ra. Ngược lại, tư do hóa thương mại ở đất
nước phát triển thường dẫn đến dòng vốn chảy vào. Do đó,

cải cách thương mại có hiệu quả có thể đóng góp vào sự mất
cân bằng tài khoản vãng lai tồn cầu, nhưng sự mất cân bằng
này khơng cần đến chính sách điều chỉnh.
Tìm hiểu mối tương quan giữa lạm phát và tự do hóa
thương mại, Romer (1993) đã đưa ra giả thuyết rằng lạm
phát thấp hơn ở các nền kinh tế mở và nhỏ. Kiểm chứng cho
mệnh đề này, Mukhtar (2010), Samadi, Ghalandari, Bayani
(2010), Ramzan và cộng sự (2013), Manni, Afzal (2012),
Kurihara (2013), Shaheen, Muhammad Ali (2013) đã phân


tích dữ liệu và sử dụng một số phương pháp như phương
pháp tự động hồi quy vector (VAR), phương pháp ước lượng
sử dụng dữ liệu bảng tĩnh áp dụng cho trường hợp tại
Pakistan, Iran, Bangladesh và một số quốc gia châu Á. Về
mặt lý thuyết, có hai quan điểm trái ngược nhau và đều có
những ý kiến tán đồng. Một bên là tự do hóa thương mại
làm cho tốc độ lạm phát trở nên chậm hơn và bên kia cho
rằng tự do hóa thương mại làm gia tăng lạm phát. Tuy nhiên
kết luận vẫn chưa thực sự rõ ràng. Các nghiên cứu này
khẳng định có một mối quan hệ dài hạn đáng kể giữa mở
cửa thương mại và lạm phát và khẳng định giả thuyết của
Romer ở Pakistan, Iran nhưng ngược lại ở các quốc gia
Trung đông và Bắc Phi.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và
nợ nước ngoài tại Pakistan, Sabahat và Sabihuddin Butt
(2008), nghiên cứu trường hợp của Pakistan – đất nước đứng
trước thách thức hàng đầu là giảm bớt gánh nặng nợ nần để
theo đuổi con đường phát triển bền vững, công bằng xã hội và
giảm đói nghèo. Nghiên cứu chỉ ra rằng trong một số trường

hợp, tự do hóa thương mại có tác động thuận lợi đến khả năng
trả nợ của nền kinh tế do nó dẫn đến gia tăng nguồn ngoại hối


như xuất khẩu ròng và đầu tư trực tiếp nước ngồi. Nhưng
trong các tình huống khác, khi các nền kinh tế phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu các mặt hàng thiết yếu, kết quả lại ngược
lại vì tự do hóa thương mại đòi hỏi cắt giảm và dần loại bỏ
thuế xuất nhập khẩu và khoảng cách tài chính có thể được lấp
đầy bởi tăng vay nợ. Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế góp
phần đáng kể vào tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Zakaria
(2012) đã tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng
phương pháp hồi quy ước lượng (GMM – General Method of
Moments) trên cơ sở số liệu kinh tế trong hơn 30 năm của
Pakistan. Kết quả cho thấy mở cửa thương mại có tác động
đáng kể đến con số thống kê về nợ nước ngồi của Pakistan.
Nó có vai trị như một chất kích thích cho việc tích lũy nợ
nước ngoài. Kết quả trên là khách quan với nhiều thơng số kỹ
thuật áp dụng vào mơ hình. Nó cũng cho thấy nợ nước ngoài
cũng phụ thuộc vào một số yếu tố nội sinh khác và các biến
chính chính. Biến động trong nợ nước ngồi có thể được giải
thích bởi các cú sốc thương mại, chính sách tài chính của
Chính phủ, dự trữ ngoại hối, chính sách đầu tư nước ngoài và
tỷ lệ lạm phát trong nước.


Các nghiên cứu liên quan đến giải pháp nhằm ổn định
tài chính
Nguyễn Văn Nam và cộng sự (2001) cho rẳng các chính
sách, biện pháp nhằm hỗ trợ an nình tài chính nước ta trong

tiến trình tự do hóa thương mại phải thực hiện trên các
nguyên tắc cơ bản: (i) Phải đặt lợi ích của tổng thể tồn xã
hội, dân tộc trong dài hạn lên trên hết; (ii) Phải bám sát chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước; (iii) Trong dài hạn
các chính sách, biện pháp phải hướng tới giảm thiểu thất thu
ngân sách từ thuế nhập khẩu, tăng nguồn thu ngân sách từ
ngoại tệ và các nguồn khác, giảm nợ nước ngoài, tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa trong nước;
(iv) Bảo đảm tính đồng bộ, tương thích với các chính sách
kinh tế vĩ mơ khác.
Đào Quốc Tính (2013) nghiên cứu các giải pháp đảm
bảo an ninh tài chính dựa trên các mặt: đảm bảo an ninh tài
chính cho thị trường tiền tệ - ngân hàng, cho thị trường chứng
khoán, cho các khoản vay nợ nước ngồi và một số kiến nghị
đối với Quốc hội, Chính phủ và các bộ/ ngành. Theo đó định
hướng tổng thể và giải pháp cơ bản đảm bảo cho nền tài chính
quốc gia hoạt động an tồn, ổn định, phát triển và tránh được


tác động của các cuộc khủng hoảng trong và ngoài nước là
xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ
vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mơ, tài chính tiền
tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh
tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và huy động, phát huy hiệu
quả các nguồn lực.
Đưa ra một số khuyến nghị chính sách để giữ vững an
ninh tài chính của Việt Nam trước các biến động của thị
trường thế giới, Nguyễn Thị Mùi (2015) cho rằng cần phải
nâng cao năng lực hoạt động của các định chế tài chính, nâng
cao hiệu quả kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt

động của các định chế tài chính nói chung và các dịng vốn
vào/ra nói riêng, và cần thiết phải phối hợp có hiệu quả chính
sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách vĩ mơ khác, thực hiện
nghiêm ngặt kỷ luật tài khóa.
Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết về tự do hóa thương mại
- Khái niệm tự do hố thương mại


Tự do hố thương mại là q trình dỡ bỏ dần dần mọi rào
cản đối với thương mại, bao gồm thuế quan và phi thuế quan,
trước hết nhằm đạt được sự đối xử cơng bằng giữa hàng hố và
dịch vụ sản xuất trong nước với hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu
từ nước ngoài, giữa các nhà sản xuất trong nước với những nhà
sản xuất nước ngoài, và sau cùng là đạt được chế độ thương mại
tự do.
Theo định nghĩa trên, q trình tự do hố thương mại địi
hỏi nhà nước phải xố bỏ các can thiệp của mình tới thương
mại, tạo thuận lợi cho lưu thơng hàng hố và dịch vụ trong một
nước và giữa các nước với nhau. Hoạt động thương mại trước
đây được hiểu là chỉ bao gồm các hoạt động liên quan đến trao
đổi, mua bán hàng hoá. Tuy nhiên với sự phát triển của thương
mại quốc tế, cách hiểu này đã trở nên quá hẹp. Trong hệ thống
các hiệp định của WTO, thương mại bao gồm thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ, lĩnh vực đầu tư liên quan đến thương
mại và các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại. Tuy nhiên, thương mại hàng hố và dịch vụ vẫn
đóng vai trò quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
thương mại quốc tế.
- Những nội dung chủ yếu của tự do hoá thương mại



Cắt giảm dần thuế quan: Rào cản thuế quan là loại rào
cản phổ biến nhất và mang tính chất truyền thống trong
thương mại quốc tế, được xác định và phân loại trên cơ sở các
mức thuế áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu
như thuế phi tối huệ quốc, thuế tối huệ quốc, thuế quan ưu đãi
phổ cập, thuế quan áp dụng đối với khu vực thương mại tự do,
thuế quan ưu đãi chuyên ngành... Thuế quan được áp dụng
trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho
chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn
hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc
gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non
trẻ của nước mình. Hiện nay, do loại hàng rào thuế quan có
bản chất mâu thuẫn với tiến trình tự do hố thương mại, nên
loại rào cản này có xu hướng ngày càng bị hạn chế trong quan
hệ thương mại. Thuế quan là biện pháp bảo hộ cụ thể và mang
tính định lượng rõ ràng nhất, do đó việc nhượng bộ trong đàm
phán về cắt giảm thuế thường dễ dàng hơn so với việc thương
lượng xố bỏ các hình thức bảo hộ thương mại khác. Trên
thực tế, thuế quan luôn chiếm vị trí quan trọng nhất trong đàm
phán thương mại. Thơng qua các vịng đàm phán, WTO ln
hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan. Các nước thành viên


không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong
biểu. Qua tám vịng đàm phán trong khn khổ GATT trước
đây, đặc biệt là sau vòng Uruguay, thuế cơng nghiệp bình
qn của các nước phát triển được giảm xuống 3,8%, các
nước này cũng đồng ý cắt giảm 36% mức thuế công nghiệp.

Riêng các nước đang phát triển đồng ý cắt giảm 24% thuế
nông nghiệp.
Giảm dần tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan: Rào
cản phi thuế quan bao gồm nhiều loại khác nhau, ví dụ: các
biện pháp cấm; hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị được phép
xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định; giấy
phép xuất khẩu, giấy phép nhập khẩu; thủ tục hải quan; hàng
rào kỹ thuật trong thương mại (TBT); các biện pháp vệ sinh
động - thực vật (SPS); các quy định về thương mại dịch vụ, về
sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường; các quy định chuyên ngành
về điều kiện sản xuất, thử nghiệm, lưu thông và phân phối các
sản phẩm; các rào cản về văn hoá; các rào cản địa phương...
Do trình độ và mức độ hội nhập của các quốc gia là khác
nhau, mục đích sử dụng các loại rào cản trong thương mại
cũng khác nhau (mục đích chính trị, an ninh quốc gia, bảo vệ
việc làm, bảo vệ người tiêu dùng, khuyến khích lợi ích của


quốc gia, để đáp lại các hành động thương mại khơng bình
đẳng, để bảo vệ mơi trường...) nên về cơ bản, các quốc gia
vẫn sử dụng kết hợp cả hai loại rào cản trên. Tuy nhiên, mức
độ sử dụng các loại rào cản này của các quốc gia là khác nhau
và ngày càng linh hoạt, tinh vi hơn. Các loại rào cản có thể
được áp dụng ở biên giới hay nội địa, có thể là biện pháp hành
chính song cũng có thể là biện pháp kỹ thuật, là biện pháp bắt
buộc phải thực hiện, hoặc có thể là những biện pháp tự
nguyện. Trước đây, các rào cản thương mại chỉ giới hạn trong
phạm vi của thương mại hàng hoá và chủ yếu là các biện pháp
hành chính và thuế quan, thì hiện nay, nó đã phát triển ra cả
lĩnh vực dịch vụ, thương mại đầu tư, sở hữu trí tuệ và ở mức

độ đa quốc gia. Trong các biện pháp trên, hạn ngạch nhập
khẩu là công cụ hạn chế thương mại nhiều nhất, bởi vì một
sản phẩm dù đã được giảm thuế, thậm chí xuống mức 0%
cũng khó có thể thâm nhập thị trường nếu nó chịu sự quản lý
bằng hạn ngạch. Do đó, việc dỡ bỏ hạn ngạch cũng là một
trong những nhiệm vụ đầu tiên trong quá trình tự do hoá
thương mại. Việc nới lỏng các hàng rào phi thuế quan có thể
được thực hiện theo hai cách phổ biến. Một là, chuyển từ việc
áp dụng các biện pháp phi thuế quan sang áp dụng thuế quan


ở mức bảo hộ tương đương. Hai là, xoá bỏ các biện pháp phi
thuế quan mà không sử dụng thuế quan như cơng cụ bảo hộ
thay thế. Việc xố bỏ dần các rào cản phi thuế quan tuy rất
phức tạp và khó khăn nhưng lại là điều kiện tiên quyết cho sự
thành cơng của tiến trình tự do hố thương mại.
Đảm bảo cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối
xử: Đảm bảo cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử
đòi hỏi các nước dành đãi ngộ cho hàng hóa, doanh nghiệp
của các nước khác khơng được “thấp hơn” sự đãi ngộ mà
hàng hóa và doanh nghiệp trong nước được hưởng. Cần xoá
bỏ các biện pháp cạnh tranh khơng bình đẳng như: trợ cấp
xuất khẩu, bán phá giá, cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi,... Mục
đích là đảm bảo hàng hóa nhập khẩu và hàng hố trong nước,
doanh nghiệp nước ngồi và doanh nghiệp trong nước có
cùng vị trí cạnh tranh bình đẳng, khơng bị phân biệt đối xử.
Bên cạnh đó, ngun tắc này cũng địi hỏi các nước phải cơng
khai và minh bạch hố các chính sách, pháp luật về kinh tế và
thương mại, thuận lợi hoá các thủ tục và quy định có liên
quan đến giao dịch thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi

tối đa cho hoạt động thương mại.


Lý thuyết về ổn định tài chính quốc gia
Khái niệm ổn định tài chính quốc gia
Tài chính quốc gia
Tài chính quốc gia, theo nghĩa rộng, bao hàm toàn bộ nền
tài chính vĩ mơ của một nước có chủ quyền và Nhà nước đóng
vai trị là chủ thể quản lý nền tài chính vĩ mơ. Theo nghĩa hẹp,
tài chính quốc gia là bộ phận của nền tài chính vĩ mơ thuộc
quyền quản lý và điều tiết trực tiếp của Nhà nước, bao gồm
ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước ngồi ngân
sách (Nguồn: IMF).
Tài chính quốc gia có liên quan trực tiếp đến tài chính
cơng (thơng qua các khoản thu và chi), tài chính doanh nghiệp
(thơng qua các khoản thuế mà doanh nghiệp nộp hay chính
phủ hỗ trợ doanh nghiệp), tài chính hộ gia đình (ví dụ như các
thuế thu nhập hay hộ gia đình mua trái phiếu chính phủ khi
chính phủ cần huy động vốn trong nhân dân). Mối quan hệ đó
được biểu hiện như hình vẽ dưới đây.
- Sơ đồ mối quan hệ giữa các tổ chức tài chính


Tài chính cơng (NSNN)

Thị trường tài chính
Trung gian tài chính

Tài chính doanh nghiệp


Tài chính hộ gia đình

Ổn định tài chính quốc gia
Ổn định tài chính (financial stabilization) hay cịn được
dịch là an ninh tài chính là tình trạng tài chính ổn định, an
toàn và vững mạnh của thị trường tiền tệ và thị trường tài
chính. Ổn định thị trường tiền tệ dẫn đến giá cả ổn định, ổn
định thị trường tài chính dẫn đến sự ổn định cơng cụ tài chính
và do đó thị trường có thể lập nên hệ thống tài chính đa dạng
và ổn định để hỗ trợ.
Ổn định tài chính trước hết là sử dụng hiệu quả, khơng
thất thốt, phát huy tác dụng thực sự các nguồn vốn cả trong
nước và nước ngồi. Nhằm vừa tăng tích luỹ từ nội bộ nền


kinh tế để xây dựng, phát triển, vừa đảm bảo mức tăng quỹ
tiêu dùng xã hội để cải thiện đời sống nhân dân.
Từ góc độ chính trị, theo Sây-la R. Rơ-nít, đảm bảo ổn
định tài chính hay nói cách khác an ninh tài chính là an ninh
quốc gia1. Vì một khi nền tài chính bị khủng hoảng, tiềm lực
tài chính quốc gia không đủ để giải quyết những vấn đề phát
sinh trong quá trình phát triển sẽ kéo theo sự bất ổn về chính
trị (tiêu biểu là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á
năm 1997).
Tóm lại, ổn định tài chính quốc gia là một khái niệm chỉ
tình trạng tài chính quốc gia ổn định, an tồn, vững mạnh và
khơng bị khủng hoảng2.
Trong đó, ổn định được hiểu là duy trì được hoạt động
bình thường, khơng có những biến động đột ngột, thất thường.
Tuy nhiên, cần hiểu sự ổn định trong sự vận động và phát

triển. Ổn định khơng có nghĩa là cố gắng giữ ngun mọi thứ
như cũ mà là giữ được ổn định trong tiến trình phát triển đi
lên, khơng ngừng cải tiến và hồn thiện. Ổn định tài chính là
1 PGS.TS Hồng Thị Thanh Nhàn, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới,

An ninh kinh tế
ASEAN và chênh lệch phát triển nội bộ khối, Tạp chí cộng sản số 17(Ra ngày 1-9-2004)

2 Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006


rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và khơng thể có ổn
định kinh tế nếu thiếu hệ thống tài chính lành mạnh.
An tồn được hiểu là trạng thái khơng bị nguy hiểm từ
phía các tác động bên trong và bên ngồi. Giữ được an tồn
đồng nghĩa với khơng tự mình gây hại cho mình, đồng thời
ngăn chặn và chống lại được sự phá hoại từ bên ngoài. Nếu ổn
định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an tồn là cốt lõi, chi
phối tồn bộ q trình vận động của tình trạng tài chính.
Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và bảo đảm an toàn.
Khủng hoảng tài chính là kết quả nặng nề nhất và phản
ánh mức cao nhất của sự mất an ninh tài chính hay là mặt trái
của an ninh tài chính, tránh được khủng hoảng tài chính là
mục tiêu tối thượng của mọi giải pháp bảo đảm an ninh tài
chính.
Phân loại
Theo khái niệm về tài chính quốc gia và sự ổn định tài
chính quốc gia ở trên, ta có thể rút ra: ổn định tài chính quốc
gia sẽ bao hàm sự ổn định trên ba lĩnh vực: tài chính cơng, tài



chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình (hay cịn gọi là
tài chính dân cư).
Ổn định tài chính cơng là duy trì sự ổn định, an tồn và
vững mạnh của thu chi ngân sách nhà nước, giữ thâm hụt ngân
sách nhà nước ở mức hợp lý, bảo đảm cân đối tài chính cho các
quỹ ngồi ngân sách, kiềm chế nợ chính phủ ở mức độ an tồn
và duy trì khả năng trả nợ, khơng lâm vào tình trạng vỡ nợ.
Ổn định tài chính doanh nghiệp (bao gồm cả tài chính
ngân hàng và các trung gian tài chính phi ngân hàng như bảo
hiểm, tín dụng th mua, cơng ty chứng khốn, cơng ty mơi
giới, quỹ chứng khốn,…) là cốt lõi của ổn định tài chính vì
tài chính doanh nghiệp là cơ sở của tài chính quốc gia.
Có thể phân chia sự ổn định tài chính khu vực này làm
hai loại: ổn định tài chính trong doanh nghiệp tài chính và
trong doanh nghiệp phi tài chính. Ổn định tài chính của các
doanh nghiệp phi tài chính có tầm ảnh hưởng phụ thuộc vào
quy mơ của nó. Doanh nghiệp có quy mơ càng lớn thì việc
bảo đảm sự ổn định tài chính của doanh nghiệp càng có tầm
quan trọng đối với bảo đảm ổn định tài chính quốc gia. Cịn
các doanh nghiệp tài chính, kể cả ngân hàng và phi ngân


hàng, hoạt động trên thị trường tài chính – tiền tệ có mối liên
hệ rộng lớn với nhiều khách hàng nên mức độ rủi ro cao. Vì
vậy, ổn định tài chính của khu vực doanh nghiệp tài chính cần
được chú ý đặc biệt.
c. Ổn định tài chính hộ gia đình (cịn gọi là ổn định tài
chính dân cư) biểu hiện ở ba khía cạnh:
Khả năng tiết kiệm và tích lũy của các hộ gia đình.

Biểu hiện ở quan hệ tài chính trong cộng đồng (ví dụ như
các quan hệ vay mượn, liên kết kinh tế, thanh toán, ký kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế…)
Ngồi ra cịn biểu hiện ở hoạt động của tài chính
"ngầm", thị trường tài chính "đen”.
Tài chính dân cư khơng ổn định khi:
Thứ nhất, thu nhập khơng đủ cho các nhu cầu thiết yếu
và khơng có khoản để dành dự phòng cho các trường hợp bất
trắc.
Thứ hai, sự bất bình đẳng trong thu nhập, trong phân
phối và phân phối lại thu nhập cho các tầng lớp dân cư và
mức độ phân hóa giàu nghèo cũng là nguyên nhân làm xấu đi


×