Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Quy định pháp luật về đình chỉ thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.14 KB, 8 trang )

Quy định pháp luật về đình chỉ thi
hành án dân sự
Cập nhật 17/04/2015 01:52

Trong thi hành án dân sự, khái niệm "đình chỉ thi hành án" được hiểu là việc cơ quan Thi
hành án dân sự mà cụ thể là Thủ trưởng cơ quan bằng một quyết định cụ thể làm chấm dứt
một quan hệ thi hành án cụ thể hay nói cách khác là chấm dứt vai trò của Chấp hành viên đối
với việc thi hành án đó khi có một trong các căn cứ do pháp luật quy định.
Bài viết cùng chủ đề





Giải quyết khiếu nại lần hai về thi hành án dân sự
Áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án
Khi nào thì tiến hành cưỡng chế thi hành án?

>> Giải đáp thắc mắc luật Dân sự qua tổng đài: 1900.6169

Quy định pháp luật về đình chỉ thi hành án dân sự

Trong một số trường hợp, việc đình chỉ thi hành án chỉ làm chấm dứt một quan hệ pháp luật thi
hành án mà không làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ đã được ấn định trong Bản án,
quyết định.

Về cơ sở pháp lý, hiện nay các căn cứ để Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi
hành án được quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự:


"1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường


hợp sau đây:

a) Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của
người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;

b) Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo
bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;

c) Đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan
thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;

d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ;

đ) Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp
luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;

e) Có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án;

g) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;

h) Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên.

2. Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi
hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này."

Theo quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự thì việc ra quyết định đình chỉ thi hành án khi có
một trong các căn cứ đã được quy định là trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự,
tuy nhiên có những vụ việc do Chấp hành viên khác tổ chức thi hành thì vấn đề đặt ra là Chấp hành
viên đó phải có trách nhiệm tham mưu, đề xuất với Thủ trưởng để ban hành quyết định đình chỉ thi

hành án đúng với thời hạn đã được quy định là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ đình chỉ. Tuy
nhiên, để việc tham mưu được hiệu quả và đúng quy định, đòi hỏi Chấp hành viên phải nắm chắc


các quy định của pháp luật liên quan để làm tốt các công đoạn xử lý thông tin thu thập được, trước
khi đề xuất đình chỉ thi hành án. Căn cứ đề đình chỉ thi hành án:

Thứ nhất, người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa
vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế

Trong căn cứ thứ nhất này cần phân tích, mổ xẻ sẽ thấy rõ hai trường hợp khác nhau:

+/ Người phải thi hành án chết không để lại di sản

Đối với cả các nghĩa vụ có thể chuyển giao hay không thể chuyển giao cho người khác, chỉ cần xác
định được người phải thi hành án đã chết (về mặt pháp lý nhất thiết phải có giấy chứng tử của
UBND cấp xã nơi người phải thi hành án chết cấp) mà không có di sản để lại thì hồ sơ thi hành án
chỉ cần thu thập được giấy chứng tử và biên bản xác minh tài sản của Chấp hành viên là hoàn toàn
có đủ căn cứ ra quyết định đình chỉ thi hành án.

+/ Nghĩa vụ của người phải thi hành án theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người
thừa kế theo quy định của pháp luật

Trong trường hợp này, đặc thù của loại nghĩa vụ của người phải thi hành án là được pháp luật quy
định nghĩa vụ đó chỉ gắn với người phải thi hành án mà không ai được thực hiện thay vì vậy dù
người phải thi hành án chết có để lại di sản đi nữa thì cũng không có giá trị gì, cơ quan Thi hành án
dân sự hoàn toàn có đủ căn cứ để ra quyết định đình chỉ thi hành án. Tuy nhiên, để tìm hiểu và
thống kê được hết các loại nghĩa vụ mà pháp luật quy định không được chuyển giao cho người
khác không phải là điều dễ dàng, tôi chỉ xin nêu ra đây một quy định liên quan đến nghĩa vụ mà các
cơ quan Thi hành án thường xuyên phải tổ chức thi hành đó là nghĩa vụ cấp dưỡng.


Khoản 1 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

"... nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người
khác."


Thứ hai, người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó
theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế

Đối với căn cứ này cũng bao gồm hai trường hợp:

+/ Pháp luật đã có quy định quyền và lợi ích của người được thi hành án theo bản án, quyết định
không được chuyển giao cho người khác

Tương tự như quy định ở trên, ở đây là trường hợp quyền và lợi ích chỉ được trao cho một người
nhất định, người khác không thể thụ hưởng thay khi người đó chết đi. Trong quy định tại khoản 1
Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình thì khi người được cấp dưỡng chết thì quyền được cấp dưỡng
cũng mất và quan hệ cấp dưỡng cũng sẽ chấm dứt.

+/ Quyền và lợi ích của người được thi hành án có thể chuyển giao cho người khác nhưng lại không
có người thừa kế thụ hưởng quyền này

Để đình chỉ thi hành án thuộc trường hợp này, cần phải xác định rõ có hay không có những người
thừa kế theo quy định tại Chương 23 và 24 Bộ luật Dân sự.

Thứ ba, đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba


+/ Đương sự có thoả thuận bằng văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc
thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người thứ ba

Bản chất đây là một trường hợp thoả thuận trong thi hành án dân sự nên nội dung và hình thức thoả
thuận cũng phải tuân thủ các quy định chung về thoả thuận thi hành án.

+/ Người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan Thi hành án không tiếp tục tổ chức thi hành
nữa, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba


Cũng tương tự như trong trường hợp trên, nhưng ở đây chỉ cần ý kiến đơn phương bằng văn bản
của người được thi hành án mà không cần phải là ý kiến thống nhất của cả hai bên đương sự.

Thứ tư, Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ

Đối với Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật (hoặc bản án, quyết định sơ thẩm được
đưa ra thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự) và bản án, quyết
định phúc thẩm, cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành mà có kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm thì nếu bản án chưa được thi hành xong một phần hoặc toàn bộ, thông
thường kèm theo Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có nội dung tạm đình chỉ thi
hành án và khi đó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện theo đúng quy định tại
Điều 49 Luật Thi hành án dân sự. Sau khi có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
quyết định huỷ một phần hay toàn bộ bản án mà cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành
thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án sẽ áp dụng căn cứ nêu trên để ra quyết định đình chỉ thi hành
án.

Thứ năm, người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của
pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác


Trường hợp này gần tương tự trường hợp người phải thi hành án là cá nhân chết không để lại di
sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được
chuyển giao cho người khác. Điểm khác biệt ở đây có thể thấy trong căn cứ thứ năm này bao gồm 3
điều kiện khác nhau mà phải thoả mãn đủ cả ba điều kiện đó thì cơ quan Thi hành án mới có thể
đình chỉ thi hành án, bao gồm:

+/ Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể

Việc giải thể đối với tổ chức và xác định khi nào thì tổ chức được coi là giải thể được thực hiện theo
các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động hoặc tại Điều lệ hoạt động của chính tổ chức
đó. Khi tổ chức thi hành án đối với trường hợp này, Chấp hành viên cần nghiên cứu các quy định tại
Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng... và điều lệ của tổ chức đó để xác định và thu thập
căn cứ chứng minh tổ chức đó đã bị giải thể. Ngoài ra, Chấp hành viên cũng có thể thu thập tại các


cơ quan quản lý hoạt động của các tổ chức đó như phòng Tài chính - kế hoạch, Sở kế hoạch - đầu
tư hoặc cơ quan quản lý cấp trên...

+/ Tổ chức sau khi đã giải thể không còn tài sản

Thông thường, trong quyết định hoặc thông báo giải thể, tổ chức bị giải thể bao giờ cũng có kế
hoạch để xử lý các khoản nợ. Chấp hành viên cần nhanh nhạy trong việc nắm bắt kịp thời các thông
tin này và liên hệ trực tiếp với bộ phận phụ trách giải quyết nợ của tổ chức đó để có thể giải quyết
nghĩa vụ mà tổ chức đó phải thực hiện theo bản án, quyết định hoặc xác minh về các tài sản của tổ
chức đó sau khi giải thể để làm căn cứ xử lý tiếp theo.

+/ Nghĩa vụ của tổ chức đã bị giải thể theo quy định của pháp luật không được chuyển giao cho tổ
chức khác


Tuỳ thuộc vào từng loại nghĩa vụ cụ thể theo Bản án, quyết định để Chấp hành viên xác định nghĩa
vụ đó có thể được chuyển giao cho tổ chức khác thực hiện hay không hoặc cũng cần phải xác định
có tổ chức nào có thể tiếp nhận nghĩa vụ của tổ chức đã bị giải thể hay không. Nếu nghĩa vụ có thể
chuyển giao và cũng có tổ chức được chuyển giao nghĩa vụ thì Chấp hành viên cần căn cứ quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 54 Luật Thi hành án dân sự thực hiện chứ không thể đình chỉ thi hành án
được.

Thứ sáu, có quyết định miễn hoặc giảm một phần nghĩa vụ thi hành án

Việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án hiện nay khi thực hiện căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết
số 24 của Quốc hội, Điều 61, 62, 63 và 64 Luật Thi hành án dân sự, hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 07, Điều 26 Nghị định số 58, Thông tư liên tịch số 10.

Thứ bảy, Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án

Căn cứ này áp dụng đối với người phải thi hành án là Doanh nghiệp và hợp tác xã, trình tự, thủ tục
phá sản đối với các đối tượng này chịu sự điều chỉnh của Luật Phá sản năm 2004.


Toà án khi thụ lý yêu cầu tuyên bố phá sản không thể biết rằng doanh nghiệp, hợp tác xã đó đang
phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định khác do đó không thể thông báo cho cơ quan Thi
hành án dân sự biết. Vì vậy, kỹ năng khi thi hành án đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã Chấp
hành viên cần tận dụng mọi nguồn và kênh thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp,
hợp tác xã đang là đối tượng phải thi hành án. Có thể thông qua cơ quan quản lý doanh nghiệp,
hợp tác xã và cả đối với Toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đó để kịp thời nắm bắt thông tin sau đó xử lý theo đúng quy định.

Thứ tám, người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên

Về việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên nuôi dưỡng có những đặc thù và khó khăn

nhất định. Do đó, Luật Thi hành án dân sự đã dự liệu đến tình huống việc kéo dài thời gian tổ chức
thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng là điều tất yếu và cơ chế
để cơ quan Thi hành án dân sự có thể kết thúc việc thi hành án này là đình chỉ thi hành án khi người
được giao nuôi dưỡng đã thành niên.

Dịch vụ luật sư Luật Minh Gia cung cấp trong lĩnh vực dân sự:

1. Luật sư tư vấn và đại diện giải quyết các tranh chấp về dân sự bao gồm:

Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; Tranh chấp về hợp đồng dân sự; Tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ; Tranh chấp về thừa kế tài sản; Tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng; Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Tranh chấp về quốc
tịch; Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí và các tranh chấp khác về dân sự mà
pháp luật có quy định.

2. Luật





vấn



thực

hiện

các yêu


cầu về

dân

sự

gồm:

Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự; Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài
sản của người đó; Yêu cầu tuyên bố hoặc huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; Yêu cầu
tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết; Yêu cầu công nhận hoặc không


nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự của Toà án nước ngoài và Các yêu
cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.



×