Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phát triển trồng rừng gỗ lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 36 trang )

Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

Ph¸t triÓn trång rõng gç lín

Th«ng tin chuyªn ®Ò sè 04 – 2017

Ph¸t triÓn trång rõng gç lín
1



Thông tin chuyên đề nông nghiệp và ptnt

1.

Li núi u

3

2.

Trin vng g ln ca mt s mụ hỡnh trng cỏc loi keo Bỡnh nh v Phỳ
Yờn

4

Nhõn ging in vitro cỏc gia ỡnh u vit keo lỏ lim (Acaciacrassicarpa A.
Cunn. ex benth.) phc v trng rng

10


Nghiờn cu cỏc c trng c bn ca phõn hu c sinh hc c t ph thi
khai thỏc rng keo lm hn hp rut bu sn xut cõy con vn m

15

To ni sinh nhõn to nm bch cng (Beauveria bassiana) cho bch n
camal phũng tr ong en (Leptocybe invasa) gõy u bu

17

Kt qu d ỏn trng rng thõm canh g ln v chuyn húa rng g nh sang
g ln

22

7.

Mụ hỡnh chuyn húa rng g ln cho hiu qu kinh t cao

26

8.

Qung Ninh: Mt s mụ hỡnh sn xut rng g ln hiu qu cao

28

9.

Bc Giang: Mụ hỡnh trng rng sn xut g ln


30

10.

Mụ hỡnh trng rng g ln ti Hũa Bỡnh

33

11.

Mt s kinh nghim trng v chuyn húa thnh rng g ln ca nụng h

35

3.
4.
5.
6.

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGễ TH HIấN
Chịu trách nhiệm nội dung: NGễ TH HIấN
Biên tập: Trần Thanh Hiền
Trình bày: Lờ Phng Tho Thanh Tõm
Tòa soạn: Số 2 Ngọc Hà - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 043.7332160 (309) - 043.8234841 (311)
Email:

Fax:
(04) 38230381

Website:
Giấy phép xuất bản số: 31/GP - XBBT ngày 02 tháng 06 năm 2006
In tại: Xng in Trung tâm Tin học và Thống kê - Bộ Nông nghiệp và PTNT

2


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

LỜI NÓI ĐẦU
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, diện tích rừng trồng nước ta tăng nhanh từ 1,92 triệu ha năm
2002 lên 3.886.337 ha năm 2015, bình quân tăng 144.600 ha/năm (rừng phòng hộ 622.656 ha,
rừng đặc dụng 79.179 ha, rừng sản xuất 2.727.950 ha và trồng trên diện tích đất ngoài quy
hoạch cho lâm nghiệp 456.552 ha). Tổng trữ lượng rừng trồng 73,5 triệu m3, trong đó, trữ
lượng rừng trồng sản xuất khoảng 56 triệu m3, bình quân tăng 6,2%/năm.
Diện tích rừng trồng chủ yếu là trồng rừng gỗ nhỏ, mặc dù trong quy hoạch Bảo vệ và
phát triển rừng đến năm 2020 của các tỉnh đã có quy hoạch trồng rừng gỗ lớn, song những
năm qua, hầu hết các tỉnh chủ yếu tập trung cho phát triển trồng rừng nguyên liệu gỗ nhỏ
phục vụ chế biến bột giấy, băm dăm, gỗ bóc, cung cấp gỗ trụ mỏ. Diện tích rừng trồng đã
chuyển đổi sang mục đích kinh doanh gỗ lớn tại 19 tỉnh trong 3 vùng Đông Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ hiện có khoảng 40.000 ha. Diện tích này tập trung chủ yếu ở
các công ty có điều kiện đất đai, thị trường thuận lợi tại tỉnh Quảng Trị và tỉnh Phú Yên. Diện
tích còn lại chủ yếu được trồng quy mô nhỏ do các dự án ODA tài trợ tại các tỉnh như Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam...
Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, với mục tiêu trồng rừng gỗ lớn của ngành lâm
nghiệp là nâng cao năng suất rừng đạt bình quân 15 m 3/ha/năm; đến năm 2020, diện tích rừng
trồng sản xuất đạt khoảng 3,84 triệu ha, mỗi năm khai thác và trồng lại 0,25 triệu ha, với trữ
lượng bình quân khoảng 150 m3/ha đối với rừng gỗ lớn, chu kỳ bình quân 12 năm, trong đó
40% gỗ lớn và 60% gỗ nhỏ. Đưa năng suất bình quân rừng trồng chuyển hóa sang kinh doanh
gỗ lớn đạt từ 12 -15 m³/ha/năm trở lên tại vùng miền núi phía Bắc. Nâng cao năng suất bình

quân rừng trồng mới và trồng lại bằng cây sinh trưởng nhanh để kinh doanh gỗ lớn đạt trên 15
- 20 m³/ha/năm tại vùng miền núi phía Bắc. Đối với cây sinh trưởng chậm, chu kỳ kinh doanh
dài năng suất bình quân đạt trên 10 m³/ha/năm. Đưa tỷ lệ gỗ lớn bình quân (gỗ xẻ có đường
kính từ 15 cm trở lên) từ 30 - 40% sản lượng khai thác hiện nay lên 50 - 60% vào năm 2020 và
trên 60% từ năm 2020 trở đi.
Trong bản tin Chuyên đề Nông nghiệp và PTNT quý 4/2017, chúng tôi xin giới thiệu một
số kết quả nghiên cứu trồng rừng gỗ lớn; Mô hình chuyển hóa rừng gỗ lớn, mô hình sản xuất
rừng gỗ lớn hiệu quả cao ở một số tỉnh và một số kinh nghiệm trồng và chuyển hóa rừng gỗ
lớn của một số nông hộ.

3



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

TRIỂN VỌNG GỖ LỚN CỦA MỘT SỐ MÔ HÌNH
TRỒNG CÁC LOÀI KEO Ở BÌNH ĐỊNH VÀ PHÚ YÊN
Nguyễn Huy Sơn, Phạm Đình Sâm
Viện Nghiên cứu Lâm sinh
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Một số loài keo đã được nhập vào trồng thử
nghiệm ở miền Nam nước ta từ những năm
1960 của thế kỷ trước, những năm 1980 tiếp tục
nhập nhiều loài về trồng mở rộng trên phạm vi
cả nước, mục tiêu chủ yếu là phủ xanh đất trống
đồi trọc, theo đó một loạt các khảo nghiệm loài
và xuất xứ được tiến hành ở nhiều vùng sinh
thái khác nhau (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003), và

đã xác định được một số loài keo phù hợp và có
triển vọng để trồng rừng kinh tế, trong đó có các
loài keo tai tượng (Acacia mangium), keo lá
tràm (Acacia auriculiformis) và keo lá liềm
(Acacia crassicarpa). Đồng thời, đã phát hiện ra
loài keo lai (Acacia hybrids) ở nước ta, từ đó
các nghiên cứu cải thiện giống cho các loài keo
đã được quan tâm nhiều hơn. Hiện nay, đã có
hàng trăm giống keo được công nhận là giống
tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia, chủ yếu sử
dụng để trồng rừng cung cấp gỗ nhỏ làm nguyên
liệu chế biến dăm và bột giấy với chu kỳ kinh
doanh từ 6 - 7 năm, năng suất gỗ ở nhiều vùng
sinh thái đã đạt trung bình từ 20 – 25
m3/ha/năm, thậm chí tới 30 m3/ha/năm (Nguyễn
Huy Sơn et al., 2006). Tuy nhiên, việc trồng
rừng keo cung cấp gỗ lớn vẫn còn là khoảng
trống cần được giải đáp trong thời gian tới. Để
góp phần làm sáng tỏ vấn đề này, việc điều tra
đánh giá các mô hình trồng keo có triển vọng
làm gỗ lớn trong sản xuất ở các vùng sinh thái là
cần thiết, đặc biệt là hai tỉnh Bình Định và Phú
Yên có diện tích trồng keo tập trung khá lớn ở
vùng Nam Trung Bộ, và đây cũng là trung tâm
tiêu thụ gỗ lớn thứ 3 của cả nước, chỉ sau Tp.
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
4

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Rừng trồng các loài keo lai (Acacia hybrids),
keo tai tượng (A. mangium) và keo lá tràm (A.
auriculiformis) từ 6 - 21 năm tuổi ở hai tỉnh
Bình Định và Phú Yên, là rừng sản xuất hoặc
rừng phòng hộ có triển vọng cung cấp gỗ lớn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Kế thừa 15 mô hình đã có trong sản xuất,
trong đó, có 08 mô hình keo lai, 02 mô hình
Keo tai tượng, 04 mô hình keo lá tràm trồng
thuần loài và 01 mô hình keo lá tràm trồng hỗn
loài với Sao đen (Hopea odorata).
- Điều tra sinh trưởng rừng trồng theo
phương pháp ô tiêu chuẩn (OTC) điển hình tạm
thời, diện tích 500m2, mỗi mô hình điều tra 3
OTC, đo đếm toàn bộ số cây trong OTC.
- Các chỉ tiêu đo đếm gồm đường kính ngang
ngực (D1,3), chiều cao vút ngọn (Hvn), chiều
cao dưới cành (Hdc), đường kính tán lá (Dt), tỷ
lệ sống (TLS).
- Đo đường kính ngang ngực (D 1,3) bằng
thước đo vanh có độ chính xác tới 1/10 mm, đo
chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới
cành (Hdc) bằng sào đo cao khắc vạch đến dm,
tỷ lệ sống xác định theo phương pháp thống kê
số cây sống trên tổng số cây đã trồng.
- Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê
sinh học bằng phần mềm Excel. Thể tích cây
đứng được tính theo công thức V = GHf. Trong
đó, G là tiết diện ngang thân cây tại vị trí 1,3m,

H là chiều cao vút ngọn, f là hệ số độ thon được
xác định = 0,473 (Nguyễn Trọng Bình, 2003).


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Quan điểm về gỗ lớn
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau
về gỗ lớn, một số ý kiến cho rằng, nguyên liệu
gỗ dùng để xẻ thì gọi là gỗ lớn, một số ý kiến
khác lại cho rằng, đầu nhỏ của khúc gỗ tròn dài
2 m phải ≥ 25 cm mới gọi là gỗ lớn... Tuy
nhiên, trong thực tế hiện nay, hầu hết các cơ sở
sản xuất đang trồng rừng cây mọc nhanh gồm
keo và bạch đàn để cung cấp nguyên liệu gỗ làm
dăm và bột giấy, chu kỳ từ 6 - 7 năm, thậm chí
chỉ 4 - 5 năm đã khai thác. Ở giai đoạn tuổi này
nếu được áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm
canh, đường kính ngang ngực (D1,3) cao nhất
cũng chỉ đạt từ 13 – 14 cm (< 15 cm), khi khai
thác có thể tận thu đoạn gỗ ngọn có đường kính
đầu nhỏ (Dn) ≥ 4 cm, loại nguyên liệu này được
gọi là gỗ nhỏ.
Như vậy, gỗ nhỏ là khúc gỗ có đường kính
trung bình < 15cm và đường kính đầu nhỏ ≥ 4
cm. Ngoài ra, còn có loại gỗ nhỡ, loại gỗ này có
đường kính trung bình từ 15 cm đến dưới 18 cm
thường dùng để làm xà đỡ, trụ chống lò trong
khai thác khoáng sản và trong xây dựng. Nếu

quan niệm như vậy, có thể hiểu khúc gỗ có
đường kính trung bình ≥ 18 cm được gọi là gỗ
lớn. Điều này cũng đồng nghĩa với đường kính
ngang ngực (D1,3) của đa số cây trong rừng
trồng tối thiểu phải đạt ≥ 18 cm. Tuy nhiên,
quan điểm về cách phân chia như vậy cũng chỉ
là tương đối, vì một phần gỗ ở loại này có thể
chuyển sang để sử dụng ở loại kia và ngược lại.
Từ quan điểm này có thể áp dụng làm căn cứ để
đánh giá khả năng cung cấp gỗ lớn của một số
mô hình trồng keo có triển vọng ở các vùng sinh
thái trong phạm vi chuyên đề này.
3.2. Đặc điểm các mô hình keo có triển
vọng gỗ lớn ở Bình Định và Phú Yên
Qua việc khảo sát sơ bộ kết hợp với kết quả
phỏng vấn các cơ quan quản lý, cụ thể là Chi
cục Lâm nghiệp các tỉnh, đã xác định 15 mô

hình trồng 3 loài keo (keo lai, keo tai tượng và
keo lá tràm) có triển vọng gỗ lớn tại Bình Định
và Phú Yên. Trong đó, có 08 mô hình keo lai,
02 mô hình keo tai tượng, 04 mô hình keo lá
tràm trồng thuần loài và 01 mô hình keo lá tràm
trồng hỗn loài với Sao đen (Hopea odorata).
Phần lớn diện tích trồng keo lai và keo tai tượng
được trồng trên đất sản xuất từ 6 - 10 năm tuổi.
Riêng các mô hình Keo lá tràm được trồng trên
đất rừng phòng hộ từ đầu những năm 2000 trở
về trước, ít nhất là 14 năm tuổi, nhiều nhất là 21
năm tuổi. Đặc biệt, nguồn giống sử dụng để

trồng không rõ nguồn gốc, mặc dù các giống
keo lai các chủ rừng đều khẳng định là giống
tiến bộ kỹ thuật (TBKT), nhưng cũng không cụ
thể được là giống nào. Mật độ trồng ban đầu
(Ntr) của hầu hết các mô hình từ 1.660 - 2.000
cây/ha.
Tuy nhiên, mật độ hiện tại (Nht) giảm sút
đáng kể so với mật độ trồng ban đầu, nhất là
những mô hình trên 7 năm tuổi. Điều này cho
thấy, một phần là do tiêu chuẩn cây con và kỹ
thuật trồng ban đầu chưa đảm bảo nên có một tỷ
lệ nhất định bị chết ngay từ khi mới trồng, theo
hồ sơ nghiệm thu tỷ lệ này từ 10 - 15%; một
phần là do gió bão làm đổ gãy và phần lớn rừng
trồng từ tuổi 6 trở lên đã diễn ra quá trình cạnh
tranh không gian sinh dưỡng gay gắt dẫn đến tỉa
thưa tự nhiên. Riêng mô hình trồng keo lá tràm
phòng hộ đầu nguồn ở xã Cát Trinh, huyện Phù
Cát, Bình Định, trồng năm 1994, sau 3 năm
trồng (1997) mỗi ha được trồng bổ sung 500 cây
Sao đen vào những chỗ trống; năm 2004 tiến
hành tỉa thưa keo lá tràm với cường độ khoảng
33%. Hiện tại mật độ keo lá tràm trung bình chỉ
còn 380 cây/ha, trong đó, có một số cây có
đường kính (D1,3) đạt từ 40 - 60 cm, mật độ của
Sao đen trung bình còn 420 cây/ha.
Hầu hết các mô hình được trồng ở địa hình
không quá dốc, độ dốc đều nhỏ hơn 20 độ; độ
cao hầu hết dưới 500 m so với mực nước biển,
5




 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

riêng mô hình trồng keo tai tượng ở Hoài Nhơn
(Bình Định) trên độ cao 613m so với mực nước
biển, nhưng khả năng sinh trưởng cũng khá tốt.
Đất chủ yếu phát triển trên các loại đá mẹ

granit, poocfia, gabrô, sỏi sạn kết, độ dày tầng
đất đều > 100 cm. Với điều kiện đất đai và địa
hình như đã nêu trên đây là khá phù hợp với các
loài keo để trồng rừng gỗ lớn.

Mô hình Keo lá tràm hỗn giao với Sao đen
ở xã Cát Trinh, Bình Định

Cây Keo lá tràm trong mô hình hỗn giao
D1,3 ≈ 63cm bị gió bão làm đổ

3.3. Sinh trưởng
3.3.1. Sinh trưởng của các mô hình Keo
lai
Trong 08 mô hình rừng trồng keo lai ở
Bình Định và Phú Yên, có 03 mô hình 6 năm
tuổi, 02 mô hình 7 năm tuổi, 01 mô hình 8
năm tuổi và 02 mô hình 10 năm tuổi. Số liệu
điều tra cho thấy, các mô hình từ 6 - 8 năm
tuổi mật độ còn khá cao, dao động từ 1.140 –

1.640 cây/ha, các mô hình 10 năm tuổi còn từ
820 - 860 cây/ha. Khả năng sinh trưởng của
các mô hình khá chậm, ở giai đoạn 6 năm
tuổi đường kính (D1,3) chỉ đạt từ 9,18 10,38 cm, tăng trưởng bình quân (∆d) chỉ đạt
từ 1,53 - 1,73 cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt
từ 10,93 - 11,72 m, tăng trưởng bình quân
(∆h) đạt từ 1,82 - 1,95 m/năm. Giai đoạn 7 8 năm tuổi, khả năng sinh trưởng đường kính
(D1,3) chỉ đạt từ 12,53 - 14,28 cm, tăng
trưởng bình quân (∆d) đạt từ 1,60 - 2,04
cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt từ 12,25 - 14,63
m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt từ 1,55 2,09 m/năm. Giai đoạn 10 năm tuổi, đường
6

kính (D1,3) đạt từ 13,72 - 16,67 cm, tăng
trưởng bình quân (∆d) đạt từ 1,37 - 1,67
cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt từ 14,30 - 19,66
m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt từ 1,43 1,97 m/năm. Riêng chiều cao dưới cành
(Hdc) của tất cả các mô hình đều đạt trên
50% so với chiều cao vút ngọn (Hvn). Điều
này cho thấy, tỷ lệ đoạn gỗ dưới cành để làm
gỗ lớn của rừng trồng ở mức trung bình khá.
Đặc biệt, hệ số biến động của các chỉ tiêu
sinh trưởng đều khá cao, nhất là ở các mô
hình từ 8 - 10 năm tuổi. Điều này cũng khá
phù hợp với quy luật sinh trưởng của cây
rừng, khi tuổi cây càng lớn, nhu cầu không
gian sinh dưỡng đòi hỏi càng cao và sự cạnh
tranh nhau ngày càng gay gắt dẫn đến sự
phân hóa ngày càng cao.
3.3.2. Sinh trưởng của các mô hình Keo

tai tượng
Kết quả điều tra hai mô hình trồng Keo tai
tượng cho thấy, mặc dù mật độ trồng ban đầu
của mô hình ở Bình Định là 1.660 cây/ha và
ở Phú Yên là 830 cây/ha, nhưng mật độ hiện


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

tại của mô hình 10 năm tuổi ở Bình Định chỉ
còn 680 cây/ha và mô hình 20 năm tuổi ở
Phú Yên chỉ còn 280 cây/ha. Hiện tại, cả 02
mô hình đều đã đạt tiêu chí gỗ lớn về đường
kính (D1,3 ≥ 18 cm). Mô hình 10 năm tuổi ở
Bình Định có đường kính trung bình (D1,3)
đạt 23,38 cm, tăng trưởng bình quân (∆d) đạt
2,34 cm/năm; chiều cao trung bình (Hvn) đạt
15,88 m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt 1,59
m/năm; chiều cao dưới cành (Hdc) trung bình
đạt 11,29 m, chiếm 71% chiều cao vút ngọn.
Tương tự như vậy, mô hình ở Phú Yên 20
năm tuổi có đường kính (D1,3) trung bình đạt
35,63 cm, tăng trưởng bình quân (∆d) đạt
1,78 cm/năm; chiều cao trung bình (hvn) đạt
21,85m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt 1,09
m/năm; chiều cao dưới cành (Hdc) đạt 14,23
m, chiếm 65% chiều cao vút ngọn.
02 mô hình này hiện tại đã có thể cung cấp
gỗ lớn cho sản xuất với tỷ lệ gỗ lớn khá cao.
Tuy nhiên, hệ số biến động của cả hai mô

hình tương đối cao, nhất là mô hình 10 năm
tuổi ở Bình Định.
3.3.3. Sinh trưởng của các mô hình Keo
lá tràm
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, keo lá
tràm ít được trồng ở Bình Định và Phú Yên
nói riêng và vùng Nam Trung bộ nói chung.
Các mô hình đã điều tra đều là rừng phòng hộ
được trồng từ những năm 2000 trở về trước.
Hầu hết đều trồng thuần loài, riêng mô hình
keo lá tràm trồng ở Cát Trinh, Phù Cát, Bình
Định được trồng hỗn loài với Sao đen.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ hiện
tại (Nht) các mô hình đều khá thấp, dao động
từ 680 - 960 cây/ha, kể cả mô hình hỗn giao
với Sao đen tính cả hai loài mật độ cũng chỉ
còn 800 cây/ha. Ở các loại mật độ này là
tương đối phù hợp cho việc phát triển của
rừng trồng gỗ lớn. Tuy nhiên, khả năng sinh
trưởng của chúng rất khác nhau, nếu so sánh

một cách tương đối ở giai đoạn 20 - 21 năm
tuổi thì khả năng sinh trưởng của Keo lá tràm
trồng ở Bình Định khá hơn hẳn so với ở Phú
Yên. Các mô hình trồng ở Bình Định có
đường kính trung bình (D1,3) đạt từ 21,39 24,99 cm, tăng trưởng bình quân đạt (∆d) đạt
từ 1,07 - 1,19 cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt
từ 18,41 - 21,50 m, tăng trưởng bình quân
(∆h) đạt từ 0,92 - 1,02 m/năm.
Trong khi đó, các mô hình trồng ở Phú

Yên sinh trưởng về đường kính trung bình
(D1,3) chỉ đạt từ 16,43 - 16,85 cm, tăng
trưởng bình quân đạt (∆d) đạt từ 0,78 - 0,80
cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt từ 14,56 - 16,28
m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt từ 0,0,69 0,78 m/năm. Với kích thước như vậy, các mô
hình trồng ở Bình Định đã có thể khai thác để
cung cấp gỗ lớn cho sản xuất. Nhưng các mô
hình ở Phú Yên chưa đảm bảo yêu cầu gỗ lớn
theo quan điểm đã nêu ở trên. Ngoài ra, hệ số
biến động của các chỉ tiêu sinh trưởng khá
lớn, nhất là hệ số biến động của chỉ tiêu
đường kính. Vì thế, chất lượng rừng chưa
cao, điều này có thể giải thích rằng, vì giai
đoạn đó giống Keo lá tràm chưa được cải
thiện và chưa ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật
trong thâm canh rừng trồng, mục tiêu khi
trồng là phủ xanh đất trống để phòng hộ
nguồn nước cho các hồ đập thủy lợi của địa
phương.
3.4. Trữ lượng và năng suất gỗ cây đứng
của các mô hình
3.4.1. Trữ lượng và năng suất gỗ cây
đứng của các mô hình keo lai
Số liệu thống kê cho thấy, trữ lượng cây
đứng và năng suất gỗ của các mô hình trồng
keo lai rất khác nhau. Các mô hình 6 năm
tuổi có trữ lượng gỗ cây đứng (M) không cao
và chỉ đạt từ 57,96 - 63,50 m 3 /ha, năng suất
(∆M) trung bình đạt từ 9,09 - 10,58
m3/ha/năm. Các mô hình từ 7 - 8 năm tuổi có

7



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

trữ lượng gỗ (M) cao hơn và dao động từ
111,82 - 133,51 m3/ha, năng suất gỗ (∆M)
trung bình đạt từ 15,97 - 19,07 m3/ha/năm.
Mặc dù các mô hình này được đánh giá là có
triển vọng gỗ lớn, nhưng khả năng sinh
trưởng và năng suất gỗ khá thấp, nhiều mô
hình chỉ đạt từ 9 – 10 m3/ha/năm. Điều này
có thể lý giải là do nguồn gốc giống chưa rõ
ràng, chưa đảm bảo tiêu chuẩn về giống khi
đem trồng, các biện pháp kỹ thuật thâm canh
rừng có thể chưa đạt yêu cầu...
3.4.2. Trữ lượng và năng suất gỗ cây
đứng của các mô hình Keo tai tượng
Số liệu điều tra đã tổng hợp được cho
thấy, cả hai mô hình Keo tai tượng hiện tại đã
đạt được yêu cầu về kích thước gỗ lớn, có thể
khai sử dụng. Đặc biệt, mô hình trồng ở Bình
Định mới 10 năm tuổi đường kính trung bình
đã đạt 23,38 cm, do mật độ còn tương đối cao
(680 cây/ha) nên trữ lượng gỗ cây đứng (M)
khá cao và đạt hơn 231 m 3/ha, năng suất gỗ
cây đứng (∆M) đạt hơn 23 m 3/ha/năm. Trong
khi đó, mô hình trồng ở Phú Yên tuy đường
kính trung bình đạt 35,63 cm, trữ lượng gỗ

cây đứng đạt hơn 305 m 3/ha, nhưng do mật
độ còn lại thấp (280 cây/ha) và tuổi rừng lại
cao (20 năm tuổi) nên năng suất gỗ cây đứng
(∆M) chỉ đạt ≈ 15 m3/ha/năm. Tuy nhiên, đây
là hai mô hình để chứng minh cho loài cây
này trồng ở hai tỉnh vùng Nam Trung Bộ rất
có triển vọng để phát triển thành rừng cung
cấp gỗ lớn.
3.4.3. Trữ lượng và năng suất gỗ cây
đứng của các mô hình Keo lá tràm
Keo lá tràm tuy xếp vào nhóm cây mọc
nhanh, nhưng sinh trưởng chậm hơn keo lai
và keo tai tượng khá nhiều. Tuy nhiên, chất
lượng gỗ lại tốt hơn các loài keo kể trên và
được ưa chuộng để sản xuất đồ mộc gia dụng
và trang trí nội thất. Kết quả điều tra 05 mô
8

hình keo lá tràm cho thấy, mô hình trồng
thuần loài ở Bình Định 20 năm tuổi, mật độ
trung bình toàn lâm phần là 820 cây/ha,
đường kính trung bình (D1,3) đạt 21,39 cm,
trữ lượng gỗ cây đứng đạt hơn 224 m 3/ha,
nhưng năng suất bình quân chỉ đạt 11,24
m3/ha/năm. Mô hình trồng hỗn loài với Sao
đen, nếu tính mật độ chung cả 2 loài hiện tại
có 800 cây/ha, nhưng nếu tính riêng mật độ
của Keo lá tràm chỉ có 380 cây/ha, đường
kính trung bình (D1,3) đạt 24,99 cm, trữ
lượng cây đứng riêng cho keo lá tràm là

198,27 m 3 /ha, nhưng năng suất gỗ bình quân
chỉ đạt 9,44 m3/ha/năm, nếu cộng cả năng
suất của Sao đen cũng chỉ đạt gần 13
m3/ha/năm. Nhìn chung, với đường kính
trung bình đạt từ 21,39 - 24,99 cm là đủ tiêu
chuẩn gỗ lớn theo quan điểm đã đề cập ở
trên. Như vậy, ngoài việc trồng thuần loài thì
keo lá tràm có thể trồng hỗn loài với Sao đen
để cung cấp gỗ lớn ở vùng Nam Trung bộ nói
chung và Bình Định nói riêng.
Bên cạnh đó, khả năng sinh trưởng và
năng suất gỗ của keo lá tràm trồng ở Phú Yên
có phần kém hơn, sau 14 năm và 21 năm
trồng thuần loài, mật độ còn từ 840 - 960
cây/ha, nhưng khả năng sinh đường kính
(D1,3) chỉ đạt từ 14,61 - 16,85 cm, trữ lượng
cây đứng bình quân (M) đạt từ 93,36 - 156,06
m3/ha, năng suất trung bình (∆M) chỉ đạt từ
6,67 - 7,43 m3/ha/năm. Tuy năng suất thấp
và hiện tại chưa đủ kích thước về đường kính
so với quan điểm gỗ lớn, nhưng cũng rất có
triển vọng cung cấp gỗ lớn trong thời gian
tới, hiện tại cũng đã có một số cây đạt đường
kính > 18cm. Nếu sử dụng đã được cải thiện
và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh,
chắc chắn khả năng sinh trưởng và năng suất
gỗ sẽ cao hơn khá rõ rệt so với các mô hình
hiện có.



Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

IV. KẾT LUẬN
- Quan điểm về gỗ lớn: Trong phạm vi bài
báo này, quan điểm của người viết cho rằng
gỗ lớn là cây gỗ phải có đường kính ngang
ngực (D1,3) ≥ 18cm, rừng trồng gỗ lớn phải
có đường kính ngang ngực trung bình của
lâm phần (D1,3) ≥ 18cm.
- Keo lai: Hầu hết các mô hình keo lai từ 6
- 10 năm tuổi trồng ở Bình Định và Phú Yên
đều chưa cung cấp được gỗ lớn (D < 18cm),
mô hình tốt nhất có đường kính trung bình
(D1,3) ≈ 16,67cm, kém nhất (D1,3) ≈ 9,18
cm; trữ lượng gỗ cây đứng (M) cao nhất đạt
133,51 m 3/ha, thấp nhất chỉ đạt 57,96
m3/ha/năm; năng suất gỗ (∆M) cao nhất cũng
chỉ đạt 19,07 m3/ha/năm và thấp nhất là 9,06
m3/ha/năm.
- Keo tai tượng: Có 2 mô hình trồng Keo
tai tượng điển hình, một mô hình 10 năm tuổi
ở Bình Định và một mô hình 20 năm tuổi ở
Phú Yên, cả hai mô hình đã đạt tiêu chuẩn
cung cấp gỗ lớn. Mô hình 10 năm tuổi đường
kính (D1,3) đạt 23,38 cm; trữ lượng gỗ cây
đứng (M) đạt 231,88 m 3/ha, năng suất (∆M)
đạt 23,19 m 3/ha/năm. Mô hình 20 năm tuổi,
đường kính (D1,3) đạt 35,63 cm; trữ lượng
gỗ cây đứng (M) đạt 305,03 m 3/ha, năng suất
gỗ (∆M) đạt 15,25 m 3/ha/năm.


m3/ha, năng suất (∆M) chỉ đạt từ 6,67 - 7,43
m3/ha/năm.
- Muốn phát triển các loài keo thành rừng
kinh doanh gỗ lớn, có 4 vấn đề mấu chốt cơ
bản gồm: i/ Giống đã được cải thiện cả về
năng suất và chất lượng; ii/ Chọn lập địa phù
hợp, đặc biệt là độ dày tầng đất phải đạt ≥
0,8m; iii/ Vấn đề kỹ thuật trồng phải đảm bảo
yêu cầu của rừng kinh doanh gỗ lớn, chú ý
nhất là mật độ ở từng giai đoạn phát triển; iv/
Cuối cùng là chu kỳ kinh doanh, ít nhất phải
từ 10 năm trở lên đối với keo lai và keo tai
tượng, từ 20 trở lên năm đối với keo lá tràm.
- Ngoài các mô hình hiện tại đã có thể
cung cấp gỗ lớn, các mô hình còn lại đều có
triển vọng phát triển thành rừng cung cấp gỗ
lớn, nhưng phải tác động bằng các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh thích hợp, sau từ 5 - 7 năm
tới sẽ có thể cung cấp gỗ lớn cho sản xuất.

- Keo lá tràm: Có 04 mô hình keo lá tràm
trồng thuần loài và 01 mô hình trồng hỗn loài
với Sao đen, trong đó có 01 mô hình 14 năm
tuổi còn lại từ 20 - 21 năm tuổi. Xét về
đường kính thì chỉ có mô hình trồng thuần
loài 20 năm tuổi và mô hình trồng hỗn loài
với Sao đen 21 năm tuổi ở Bình Định là đủ
tiêu chuẩn gỗ lớn, đường kính (D1,3) đạt từ
21,39 - 24,99 cm, trữ lượng cây đứng (M) đạt

từ 198,27 - 224,89 m3/ha, năng suất đạt từ
9,44 – 11,24 m3 /ha/năm. Các mô hình còn lại
có trữ lượng cây đứng (M) từ 93,36 - 156,06
9



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

Nh©n gièng in vitro c¸c gia ®×nh ưu viÖt
keo l¸ liÒm (acacia crassicarpa a. cunn. ex benth.)
phôc vô trång rõng
Phí Hồng Hải1, Văn Thu Huyền2
1
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
2
Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Keo lá liềm (Acacia crassicarpa A. Cunn. ex
Benth.) là loài cây đa tác dụng và có khả năng
sinh trưởng nhanh, tương đương với Keo tai
tượng và Keo lá tràm (Harwood, 1993). Keo lá
liềm là một trong ba loài keo có triển vọng nhất
trong các loài thuộc chi keo và được gây trồng
rộng rãi ở nhiều nước (Turnbull et al., 1998).
Keo lá liềm có nguồn gốc từ Australia, Papua
New Guinea (PNG) và Indonesia (Indo). Gỗ của
loài này được sử dụng sản xuất gỗ dán, ván dăm,
giấy và đồ gỗ gia dụng (Turnbull et al., 1998).
Chúng là loài cây trồng rừng chủ yếu ở nhiều

nước tại châu Á và châu Phi, và có khả năng
thích nghi với nhiều dạng lập địa khác nhau, đặc
biệt với môi trường axít cao (pH 3,5 -6) và đất
cát podzol cằn cỗi, như dạng đất cát nội đồng bị
úng nước trong suốt mùa mưa và khô hạn trong
suốt mùa khô (Turnbull et al., 1998).
Công tác cải thiện giống keo lá liềm ở nước
ta chính thức được tiến hành từ những năm
1990. Các kết quả khảo nghiệm và trồng thử đối
với loài cây này đã khẳng định: Keo lá liềm là
loài có khả năng sinh trưởng nhanh và thích ứng
tốt trên đất đồi và đất cát nội đồng có lên líp (Lê
Đình Khả, 2003; Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003;
Nguyễn Thị Liệu, 2006). Bộ Nông nghiệp và
PTNT đã có quyết định công nhận các xuất xứ
Mata province (PNG), Dimisisi (PNG) và DeriDeri (PNG) là những xuất xứ có triển vọng cho
trồng rừng ở một số vùng trong nước (Lê Đình
Khả et al., 2003; Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003;
Hà Huy Thịnh, 2006). Một số gia đình keo lá
10

liềm như AC61, AC40, AC9, AC32, AC71 và
AC20, cũng đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT
công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật (TBKT) cho
Bình Thuận. Các gia đình keo lá liềm AC13,
AC25, AC73, AC45 và AC34 công nhận là
giống TBKT cho Quảng Trị và các lập địa có
điều kiện tương tự (Quyết định số 3893/QĐBNN-TCLN ngày 20/9/2016). Đây là những gia
đình có năng suất đạt từ 21 - 27 m3/ha/năm, chất
lượng gỗ tốt (khối lượng riêng gỗ và hàm lượng

cellulose cao, ít mục ruột).
Việc nhân giống vô tính cho các loài keo
khác nhau yêu cầu kỹ thuật nhân giống khác
nhau. Với các loài keo lai và keo lá tràm, sau
khi chọn lọc cá thể ưu trội và khảo nghiệm dòng
vô tính để chọn lọc các dòng ưu việt và từ đó có
thể nhân giống sinh dưỡng hàng loạt phục vụ
cho sản xuất (Hà Huy Thịnh et al., 2011).
Trương Thị Bích Phượng và đồng tác giả (2012)
cũng đã nghiên cứu thành công quy trình kỹ
thuật nuôi cấy in vitro cho keo lá liềm.
Tuy nhiên, nỗ lực trồng rừng dòng vô tính
đối với keo lá liềm ở Việt Nam đến nay vẫn
chưa thành công. Một trong những nguyên nhân
không thể phát triển rừng trồng dòng vô tính ở
keo lá liềm là vật liệu nhân giống bị già cỗi rất
nhanh nên việc lưu trữ giống gốc rất ngắn, tỷ lệ
ra rễ thấp và chất lượng cây giống không đảm
bảo (Poupard et al., 1994). Chính vì vậy, phát
triển dòng vô tính keo lá liềm là không phù hợp.
Phương pháp nhân giống thích hợp cho loài này
là nhân giống hạt. Sản xuất ra được số lượng lớn
hạt giống có chất lượng cho keo lá liềm đang là
một nhu cầu cấp bách ở Việt Nam.


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

Nguồn hạt giống chất lượng ở nước ta còn hạn
chế, do còn thiếu các rừng giống và vườn giống,

hơn nữa tỷ lệ đậu quả ở các rừng giống và vườn
giống lại chưa cao (Griffin et al., 2010). Một giải
pháp khả quan có thể ứng dụng cho loài keo này
là trồng rừng gia đình dòng vô tính (Clonal
Family Forest-CFF), tức là trồng rừng gia đình
bằng nhân giống sinh dưỡng hàng loạt các lô hạt
thu từ các cá thể ưu việt trong các gia đình ưu
việt trong các vườn giống hoặc các tổ hợp lai tốt
nhất (Griffin et al., 2010). Mỗi một lô hạt thu từ
một cá thể ưu việt trong một gia đình ưu việt sẽ
bao gồm nhiều kiểu gen khác nhau do quá trình
tái tổ hợp trong giai đoạn phân bào giảm nhiễm.
Chính vì vậy, khi nhân giống CFF sẽ tạo ra rất
nhiều dòng vô tính khác nhau.

100 gram hạt giống được lấy đều từ 5 gia
đình tốt nhất (AC61, AC40, AC9, AC13, AC25)
trong vườn giống thế hệ 2 Keo lá liềm tại Quảng
Trị và Bình Thuận. Các gia đình keo lá liềm đã
được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là
giống tiến bộ kỹ thuật.

Như vậy rừng trồng gia đình dòng vô tính sẽ
đảm bảo tính đa dạng di truyền cao hơn rừng
trồng dòng vô tính và từ đó sâu bệnh hại sẽ ít
hơn rừng trồng dòng vô tính với số lượng dòng
ít (Finkeldey và Hattemer, 2007). Nhân giống
CFF cho keo lá liềm đã được một số công ty
giấy lớn ở Indonesia và Malaysia thực hiện
thành công. Năng suất rừng trồng CFF đã tăng

15% so với việc trồng rừng bằng hạt giống từ
các vườn giống (Wong và Yuliarto, 2014).

Hạt giống được chia theo lô hạt và theo công
thức thí nghiệm, rửa dưới vòi nước chảy trong 3
-5 phút, sau đó rửa bằng nước xà phòng loãng,
tráng với nước cất vô trùng 3 -5 lần, đun trong
nước sôi 1 phút, sau đó ngâm trong HgCl2 ở 2
nồng độ (0,05% và 0,1%), và 3 mức thời gian
(3, 5 và 7 phút). Cuối cùng là tráng bằng nước
cất vô trùng 3 - 5 lần. Hạt đã khử trùng được
cấy vào môi trường tái sinh chồi ban đầu là
MS* (MS cải tiến) có bổ sung 4,5 g/L Agar và
30 g/L đường sucrose.

Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu nhân
giống gia đình dòng vô tính bằng nuôi cấy mô tế
bào cho một số gia đình ưu việt Keo lá liềm mới
được chọn lọc nhằm góp phần đưa nhanh các
giống mới được chọn lọc vào trồng rừng sản
xuất được thực hiện. Bài báo này trình bày
những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của
nồng độ hóa chất và thời gian đến khử trùng,
ảnh hưởng của Cytokinin và Auxin đến khả
năng nhân chồi và ảnh hưởng của Auxin tới khả
năng ra rễ trong nhân giống gia đình dòng vô
tính keo lá liềm.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu


2.2. Phương pháp nghiên cứu
Chế độ nuôi mẫu trong các thí nghiệm được
thực hiện với cường độ chiếu sáng 2000 - 3000
lux, thời gian chiếu sáng 10 h, nhiệt độ 26 ± 20C
và chu kỳ cấy chuyển là 20 ngày.
Các thí nghiệm đều được lặp lại 3 lần với 30
mẫu trong mỗi công thức thí nghiệm.
* Thí nghiệm ảnh hưởng của nồng độ HgCl2
và thời gian đến kết quả khử trùng

* Thí nghiệm ảnh hưởng của BAP và NAA
đến khả năng nhân chồi
Sau 10 ngày hình thành cây con với 2 cặp lá
kép lông chim, và cho tới 15 ngày khi cây con
phát triển hoàn chỉnh mới tiến hành cắt hạ tại
gốc 2 lá mầm. Sau đó, mầm được cấy chuyển
sang môi trường MS* có bổ sung BAP (với các
nồng độ 0,5; 1,0; 1,5; và 2,0 mg/L). Để nâng
cao chất lượng chồi phục vụ ra rễ in vitro, chồi
Keo lá liềm được nuôi cấy trong môi trường
MS* bổ sung BAP ở nồng độ thích hợp đã xác
định bổ sung NAA (với các nồng độ 0,25; 0,5;
0,75 và 1,0 mg/L) và than hoạt tính 2g/l.
* Thí nghiệm ảnh hưởng của IBA đến khả
11



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt


năng ra rễ
Thí nghiệm ra rễ được thực hiện trong môi
trường 1/2MS* có bổ sung IBA (0,5; 1,0; 1,5;
2,0 mg/L). Môi trường nuôi cấy được điều chỉnh
pH = 5,8 và hấp khử trùng ở điều kiện áp suất
1,2 atm, nhiệt độ 1210C trong thời gian 20 phút.
* Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu về tỷ lệ nhiễm, tỷ lệ sạch, tỷ lệ nảy
mầm, số chồi/cụm và chiều dài trung bình của
chồi, số chồi có chiều cao trên 2 cm, số chồi ra
rễ, số rễ/chồi và chiều dài rễ được thu thập và
xử lý trên phần mềm Excel và SPSS 21.0 theo
phương pháp thống kê hiện hành.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của nồng độ hóa chất và
thời gian đến kết quả khử trùng
Sau 4 ngày khử trùng, hạt keo lá liềm bắt đầu
nảy mầm và sau 10 ngày hạt nảy mầm hoàn toàn.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ hạt nhiễm, tỷ lệ hạt nảy
mầm và tỷ lệ hạt không nảy mầm ở 6 công thức
thí nghiệm có sự sai khác rõ rệt (Ftính > F.05 tra
bảng). Đối với keo lá liềm, công thức tối ưu cho
khử trùng hạt đòi hỏi nồng độ clorua thủy ngân
cao hơn (HgCl2 0,1%) so với keo tai tượng
(Triệu Thị Thu Hà và Phí Hồng Hải, 2016), song
thời gian lại ngắn hơn (chỉ 5 phút) cho tỷ lệ nảy
mầm (23,3%), tỷ lệ nhiễm (73,3%).
Griffin Akeng (2000) xử lý hạt Keo lá liềm

bằng cloxor 15% trong thời gian 15 phút đã làm
giảm tỷ lệ hạt nhiễm xuống dưới 10%. Tương
tự, Muhammad và đồng tác giả (2012) thu hái
hạt keo tai tượng từ các cây mẹ ưu trội tại
Rajshahi (Bangladesh), sau đó hạt được rửa
dưới vòi nước chảy 15 phút, khử trùng bề mặt
15 phút với vài giọt dung dịch khử trùng
Savlon, rồi đun sôi trong 2 -5 phút, tiếp theo
ngâm trong nước lạnh 20 phút. Cuối cùng, hạt
keo tai tượng được ngâm trong HgCl2 0,1%
trong thời gian 5 phút và tráng lại bằng nước cất
vô trùng 3 -5 lần. Hạt sau khi khử trùng được
12

nuôi dưỡng trong môi trường MS bổ sung 3%
đường sucrose và 0,8% thạch (pH điều chỉnh đạt
5,7), sau 2 tuần chồi mầm của keo tai tượng đạt
chiều cao từ 1 - 1,5 cm. Như vậy cần xem xét sử
dụng cloxor trong khử trùng hạt keo lá liềm sẽ
đem lại hiệu quả cao hơn nhiều so với sử dụng
HgCl2 độc hại.
3.2. Ảnh hưởng của BAP và NAA đến khả
năng nhân chồi
a) Ảnh hưởng của BAP
Cytokinin là hormone hình thành chồi vì nó
kích thích mạnh mẽ sự phân hóa chồi. Hiện nay,
trong nuôi cấy mô tế bào các Cytokinin tổng
hợp được sử dụng rộng rãi là BAP (6benzylaminopurine)

Kn

(6furfurolaminopurine), Ads (Adenin sulphate)...
Trong nghiên cứu ảnh hưởng của BAP đến khả
năng nhân nhanh chồi Keo lá liềm, kết quả cho
thấy, số chồi/cụm, hệ số nhân chồi và chiều cao
chồi có sự khác biệt rõ rệt (mức sai khác ý nghĩa
95%) giữa các công thức về nồng độ bổ sung
BAP vào môi trường nuôi cấy. Môi trường MS*
bổ sung 1,5 mg/L BAP được cho là thích hợp
nhất cho quá trình nhân nhanh chồi thông qua
các chỉ số: hệ số nhân chồi đạt tới 4,3 lần và
chiều dài trung bình chồi là 3,2 cm, trong khi
đối chứng chỉ là 2,0 lần và 2,0 cm chiều dài TB
chồi và các công thức nồng độ khác những chỉ
số này lần lượt là dưới 4,0 lần và không quá 2,8
cm chiều dài.
Báo cáo về nuôi cấy mô cho keo lá liềm từ
hạt của Akeng (2000) cho thấy, số lượng
chồi/cụm đạt cao nhất trong môi trường MS bổ
sung 0,5 mg/L BAP (đạt tới 7 chồi/cụm), tuy
nhiên, chiều dài trung bình chồi chỉ đạt là
0,8cm. Khi nuôi cấy trong môi trường MS bổ
sung 2,0 mg/L 2,4D thì tái sinh chồi keo lá liềm
tốt hơn (đạt 8,3 cụm chồi/cụm) và chiều cao
chồi cao hơn (đạt 1,2cm). Kết quả về số lượng
chồi đạt được khá khiêm tốn.
b) Ảnh hưởng phối hợp của BAP và NAA


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 


Vai trò quan trọng của Cytokinin (BAP, Kn)
là kích thích mạnh mẽ sự phân hóa chồi. Chính
vì vậy mà cùng với Auxin (như IBA, IAA,
NAA,...), Cytokinin điều chỉnh hiện tượng ưu
thế ngọn, giải phóng các chồi bên khỏi sự ức
chế tương quan của chồi ngọn. (Nguyễn Kim
Thanh và Nguyễn Thuận Châu, 2005). Sự kết
hợp giữa Auxin và Cytokinin trong môi trường
nhân chồi với liều lượng và tỷ lệ hợp lý có tác
dụng kích thích các chồi phát triển hài hòa cả về
số lượng và chất lượng chồi, thân chồi sẽ cứng
cáp hơn, hàm lượng xenllulo tăng, diện tích và
số đốt lá trên thân cũng tăng lên. Hiệu quả này
đã được nghiên cứu phục vụ cho quá trình
chuẩn bị ra rễ (tiền ra rễ) với mục đích tăng số
lượng chồi có đủ tiêu chuẩn ra rễ, nâng cao hiệu
quả tạo rễ và tỷ lệ cây con sống tại vườn ươm.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng phối hợp của

BAP (nồng độ tối ưu 1,5 mg/L) với NAA (các
nồng độ, từ 0 đến 1,5 mg/L) + than hoạt tính
(2,0 g/L) đến hệ số nhân chồi và tỷ lệ chồi hữu
hiệu của keo lá liềm được thể hiện tại bảng 1.
Sự khác biệt về số chồi/cụm, hệ số nhân chồi và
tỷ lệ chồi hữu hiệu keo lá liềm trong các công
thức thí nghiệm thể hiện các công thức thí
nghiệm ảnh hưởng không đồng nhất đến kết quả
nghiên cứu. (Ftính > F.05 tra bảng). Môi trường
MS* + 1,5 mg/L BAP + 0,5 mg/L NAA + 2,0
g/L than hoạt tính đã đạt được số chồi trung

bình/cụm là 8,9 chồi, hệ số nhân chồi là 3,7 lần,
song xét riêng về tỷ lệ chồi hữu hiệu chỉ là
42,8%. Như vậy, hệ số nhân chồi ở môi trường
này của keo lá liềm có hệ số cao hơn nhưng tỷ
lệ chồi hữu hiệu lại thấp hơn so với của keo tai
tượng ở nghiên cứu của Triệu Thị Thu Hà và
Phí
Hồng
Hải
(2016).

Bảng 1. Ảnh hưởng phối hợp của BAP với NAA đến hệ số nhân chồi và tỷ lệ chồi hữu hiệu
của keo lá liềm
NAA (mg/L)

Số chồi/cụm

Hệ số nhân chồi (lần)

Tỷ lệ chồi hữu hiệu
(%)

Chất lượng chồi

0,0

10,7

4,3


22,6

+

0,1

9,6

4,0

38,4

++

0,5

8,9

3,7

42,8

+++

1,0

7,4

3,3


33,2

++

1,5

6,1

3,1

30,2

+

Ftính

59,4

19,8

41,8

F.05 tra bảng

F (.05; 4; 10) = 3,47

Theo Akeng (2000), chồi keo lá liềm nuôi cấy
trong môi trường MS bổ sung 2,0 mg/L BAP cho
4,2 chồi/cụm, chiều cao chồi trung bình đạt
2,1cm (cao hơn 0,62 cm so với khi bổ sung riêng

lẻ BAP).
3.3. Ảnh hưởng của IBA tới khả năng ra
rễ
Chất điều hòa sinh trưởng gốc Auxin là một
phytohormon có tác dụng điều chỉnh sự hình
thành rễ bởi khả năng hoạt hóa các tế bào vùng
xuất hiện rễ để tạo nên các mầm rễ bất định, sau

đó là rễ bất định. IBA là một trong số những
chất điều hòa sinh trưởng có ảnh hưởng tích cực
đến khả năng ra rễ của keo (Đoàn Thị Mai et al.,
2003).
Kết quả bổ sung IBA với các nồng độ khác
nhau vào môi trường ra rễ 1/2MS*, cho thấy
nồng độ 1,0 mg/L IBA có hiệu quả tốt nhất, với
tỷ lệ chồi ra rễ đạt 83,2%, cao hơn công thức đối
chứng 1,96 lần (42,4%), ngoài ra số rễ TB/cây
là 2,3 rễ và chiều dài rễ là 2,1 cm; trong khi ở
các nồng độ còn lại tỷ lệ ra rễ chỉ đạt keo lá liềm
13



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

với môi trường 1/2MS* + 2,0 mg/L 68 - 72%,
với 1,6 - 2,1 số rễ TB/cây, và chiều IBA cho tỷ

lệ ra rễ là 100%.


Bảng 2. Ảnh hưởng của IBA đến khả năng ra rễ keo lá liềm
IBA (mg/l)
0
0,1
0,5
1,0
1,5
Ftính
F.05 tra bảng

Tỷ lệ chồi ra rễ (%)
42,4
68,4
72,8
83,2
72,2
70,8

Số rễ (rễ/cây)
1,6
1,8
2,1
2,3
1,6
30,1
F (.05; 4; 10) = 3,47

Chiều dài rễ (cm)
0,6
1,4

1,8
2,1
1,6
22,1

3.4. Xác định khả năng nhân giống gia đình chuẩn có thể tạo ra từ 1 hạt được đưa vào dòng
vô tính (CFF) bằng kỹ thuật nuôi cấy nuôi cấy. Vì vậy, cần tiến hành đánh giá các mô cho Keo lá
liềm chỉ số nhân chồi, bao gồm hệ số nhân chồi và chiều dài chồi qua các lần cấy chuyển.
Bảng 3. Các chỉ tiêu nhân giống qua các lần cấy chuyển của Keo lá liềm
Số lần cấy chuyển
Lần 1
Lần 2
Lần 3
Lần 4
Lần 5
Lần 6
Lần 7
Lần 8
Ftính
F bảng

Hệ số nhân chồi
(lần)
1,2 ± 0,2
2,1 ± 0,2
3,1 ± 0,3
3,8 ± 0,5
4,3 ± 0,6
4,1 ± 0,4
3,1 ± 0,5

1,9 ± 0,5
29,5

Chiều dài chồi
(cm)
2,0 ± 0,6
2,3 ± 0,7
2,6 ± 0,3
3,0 ± 0,4
3,1 ± 0,6
2,8 ± 0,7
2,5 ± 0,6
2,0 ± 0,6
18,8
F (.05; 7; 16) = 2,65

Kết quả đánh giá được trình bày tại bảng 3
cho thấy, với keo lá liềm các chỉ tiêu nhân chồi
đạt giá trị tốt trong các lần cấy chuyển thứ 3, 4,
5 và 6 với hệ số nhân chồi đạt 3,1 4,3 lần,
chiều dài chồi đạt 2,6 - 3,1cm, và tỷ lệ chồi
hữu hiệu 30,0 - 42,8%. Tuy nhiên, các chỉ số
này bắt đầu giảm từ lần cấy chuyển thứ 7 đến
lần cấy chuyển thứ 8 với hệ số nhân giảm
mạnh từ 4,1 xuống 1,9 lần, chiều cao chồi
không vượt quá 3,0 cm và tỷ lệ chồi hữu hiệu
giảm mạnh từ 40,5 -27,8%. Hơn nữa, về hình
thái các chồi kém xanh, thân phân lóng ngắn, lá
không mở và có biểu hiện rụng lá. Như vậy là
14


Tỷ lệ chồi hữu
hiệu (%)
20,1 ± 2,2
28,5 ± 1,9
30,0 ± 2,3
38,3 ± 1,7
42,8 ± 1,9
40,5 ± 1,4
32,2 ± 3,1
27,8 ± 3,1
7,4

Chất lượng chồi
+++
+++
+++
+++
+++
+++
++
+

đối với keo lá liềm, chỉ nên nhân chồi đến vòng
thứ 7, mỗi vòng 25 ngày, sau đó hủy mẫu.
Thông qua các chỉ tiêu này, có thể xác định
nhanh sau 7 vòng cấy chuyển từ 1 hạt keo lá
liềm có khả năng tạo được 2.453 cây con (nuôi
dưỡng ở giai đoạn 3 tháng tuổi). Trong khi
nuôi cấy in vitro sử dụng vật liệu nhân giống là

cây mầm từ hạt hệ số nhân cao hơn hẳn so với
các phương pháp nhân giống sinh dưỡng thông
thường, ví dụ 1 kg hạt = 40.000 - 60.000 hạt;
vậy 1 kg hạt nhân được tối thiểu 98 triệu cây
con và như vậy trồng được gần 89.000ha với
mật độ 1100 cây/ha. Do đó sẽ giảm việc nhập


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

hạt giống từ nước ngoài (nhập hạt giống từ
xuất xứ tốt nhất), tăng năng suất và chất lượng
rừng trồng. Vì vậy, đây được coi là một
phương pháp cần được quan tâm.
IV. KẾT LUẬN
Hạt keo lá liềm được rửa dưới vòi nước
chảy trong 3 - 5 phút, sau đó rửa bằng nước xà
phòng loãng, tráng với nước cất vô trùng 3 - 5
lần, đun trong nước sôi 1 phút, sau đó ngâm
trong HgCl2 ở 2 nồng độ 0,05% trong 7 phút
hoặc 0,1% trong 5 phút. Cuối cùng là tráng
bằng nước cất vô trùng 3 -5 lần. Hạt đã khử
trùng được cấy vào môi trường tái sinh chồi
ban đầu là MS* (MS cải tiến) có bổ sung 4,5
g/L Agar và 30 g/L Đường (sucrose). Sau 4
ngày, hạt bắt đầu nảy mầm, sau 10 ngày hình
thành cây con với 2 cặp lá kép lông chim, và
cho tới 15 ngày khi cây con phát triển hoàn

chỉnh mới tiến hành cắt hạ tại gốc 2 lá mầm và

cấy chuyển sang môi trường nhân nhanh chồi
MS* bổ sung 1,5 mg/L BAP (tạo 10,7
chồi/cụm, chiều dài chồi 3,2cm). Để nâng cao
chất lượng chồi phục vụ ra rễ, các chồi Keo lá
liềm được nuôi cấy trong môi trường MS* bổ
sung 1,5 mg/L BAP cùng 2,0 mg/L NAA và
2,0 g/L than hoạt tính (8,9 chồi/cụm, tỷ lệ chồi
hữu hiệu 42,8%). Môi trường ra rễ thích hợp
cho keo lá liềm là 1/2MS* bổ sung 1,0 mg/L
IBA (tỷ lệ chồi ra rễ đạt 83,2%). Nghiên cứu
cũng cho thấy, đối với keo lá liềm, chỉ nên
nhân chồi đến vòng thứ 7, mỗi vòng 25 ngày,
sau đó hủy mẫu. Thông thường, sau 7 vòng cấy
chuyển từ 1 hạt keo lá liềm có khả năng tạo
được khoảng 2.453 cây con (nuôi dưỡng ở giai
đoạn 3 tháng tuổi).

Nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của phân hữu cơ sinh học
được ủ từ phế thải khai thác rừng keo làm hỗn hợp ruột bầu
sản xuất cây con ở vườn ươm
Nguyễn Thị Thuý Nga1, Phạm Quang Thu1,
Nguyễn Minh Chí1, Nguyễn Văn Thành1, Lê Xuân Phúc2
1
Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng, 2Viện Nghiên cứu Công nghiệp rừng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, việc sử dụng hiệu quả toàn bộ
nguồn sinh khối của rừng ngày càng được quan
tâm. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu, như giữ
gìn sự cân bằng sinh thái nhằm bảo vệ môi
trường sống và chống lại sự biến đổi khí hậu.

Khối lượng vật liệu hữu cơ thải loại sau khai
thác và chế biến nông lâm sản ở nước ta là rất
lớn, sản lượng gỗ khai thác năm 2014 đạt 17
triệu m3 (Báo Tài chính, 2014), theo ước tính ít
nhất 10% phế liệu gỗ, bao gồm cành nhánh khi
khai thác và mùn vụn gỗ khi chế biến nguyên
liệu có thể thu gom và sử dụng được, tuy nhiên
chỉ một phần nhỏ được tận dụng cho các mục

đích khác nhau (sản xuất ván nhân tạo, củi đốt)
còn lại hầu hết bị loại bỏ hoặc xử lý bằng cách
đốt ngay tại rừng, gây lãng phí, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới môi trường và công tác quản lý
bảo vệ rừng.
Những năm gần đây, việc sử dụng các vật
liệu hữu cơ phế thải ủ phân hữu cơ sinh học làm
hỗn hợp ruột bầu để sản xuất cây con đang được
áp dụng khá phổ biến trên thế giới, điển hình
như ở Hoa Kỳ, Canađa và một số nước châu Á
như Inđônêxia, Malaixia, Trung Quốc
(Toshiaki, 2007). Ưu điểm của phương pháp
này giảm đáng kể trọng lượng bầu cây, trọng
lượng có thể chỉ bằng 25% trọng lượng bầu đất,
15



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

ngoài ra tỷ lệ cây sống cao hơn so với việc trồng

cây bằng giá thể bầu đất truyền thống. Hiện nay,
Trung Quốc đang phát triển việc sản xuất cây
con bằng giá thể hữu cơ, các loài cây đang được
nghiên cứu sử dụng giá thể hữu cơ để gieo ươm
ở Trung Quốc là các loài thông (Pinus
yunnanensis, Pinus armandi, Pinus densata),
các loài keo (Acacia richii, Acacia mearnsii),
bạch đàn (Eucalyptus maidenii) và một số loài
cây khác (Toshiaki, 2005; 2007). Ở Việt Nam,
nghiên cứu sản xuất cây con ở vườn ươm bằng
giá thể hữu cơ có bổ sung dinh dưỡng đã được
thử nghiệm, kết quả cho thấy, có thể sử dụng xơ
dừa hoai có bổ sung chế phẩm vi sinh MF1 làm
giá thể để sản xuất cây con keo tai tượng và keo
lai (Nguyễn Hoàng Nghĩa et al., 2013). Việc
nghiên cứu sử dụng vật liệu hữu cơ là vỏ và lá
keo sau khai thác rừng keo ủ phân hữu cơ sinh
học làm giá thể gieo ươm cây lâm nghiệp hoàn
toàn khả thi và có ý nghĩa rất lớn cả về khía
cạnh kinh tế và môi trường. Bài viết này trình
bày đặc trưng cơ bản của phân hữu cơ sinh học
được ủ từ phế thải khai thác rừng keo (vỏ và lá
cây keo) làm hỗn hợp ruột bầu sản xuất cây keo
tai tượng (Acacia mangium) và sưa đỏ
(Dalbergia tonkinensis) ở vườn ươm.
II. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu làm ruột bầu
- Phân hữu cơ sinh học được ủ từ vi sinh vật

phân giải xenlulo với vỏ và lá keo sau thời gian
105 ngày.
- Đất tầng mặt khai thác tại xã Ngọc Thanh,
Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc.
Đối tượng thử nghiệm
- Keo tai tượng: sử dụng hạt giống nhập nội
từ Úc.

16

- Sưa đỏ: sử dụng hạt giống của 5 cây mẹ thu
tại Hoài Đức, Hà Nội. Hạt của các cây mẹ được
trộn đều với tỷ lệ như nhau.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên các đặc trưng
cơ bản của phân hữu sinh học được sản xuất
từ vỏ và lá keo theo thời gian ủ khác nhau
Quá trình tạo phân hữu cơ sinh học từ vỏ và
lá cây keo: Thu lá và vỏ cây keo từ rừng sau
khai thác, đưa vào máy cắt sơ chế giập nát kích
thước khoảng 2 - 3cm (khối lượng 1 tấn); ủ với
nước vôi trong, sau 2 - 3 ngày, trộn vật liệu ủ
với một số nguyên liệu khác như; phân kali
thương phẩm: 3 kg; supe lân: 10 kg; phân urê
thương phẩm: 5 kg; chế phẩm vi sinh vật phân
giải xenlulo; 5 kg, sau đó phủ bạt, chèn gạch và
ủ, tần suất đảo trộn 10 ngày/1 lần, độ ẩm: 25 35%; pH: 6,2 - 6,8. Sau các thời gian 60, 75, 90,
105 ngày lấy mẫu (10 mẫu cho một mốc thời
gian), phân ủ ra kiểm tra độ hoai mục bằng cách
phân tích các chỉ tiêu OM tổng số (Mùn tổng số;

%), Đạm (%), P2O5 (%), K2O (mg/100g mẫu).
Phương pháp phân tích chỉ tiêu OM mùn (%)
theo phương pháp Walkley - Black.
Phương pháp phân tích chỉ tiêu Đạm (%)
theo phương pháp Kjeldhall.
Phương pháp phân tích chỉ tiêu P2O5 (%)
theo phương pháp Trắc quang/Photometry.
Phương pháp phân tích chỉ tiêu K2O
(mg/100g đất) theo phương pháp Quang
kế/Flame photometer.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu xác định
thành phần, tỷ lệ hỗn hợp ruột bầu
Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên
đầy đủ với 5 công thức, 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp
30 cây/công thức. Chiều cao và đường kính gốc
của cây được đo sau 30 ngày, 60 ngày và 90
ngày. Số liệu được xử lý bằng phần mềm
Dataplus và Genstat. Thành phần hỗn hợp ruột
bầu của các công thức như sau:


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

Công thức 1: Đối chứng (99% đất + 1% lân);
Công thức 2: 20% phân hữu cơ sinh học ủ
trong 105 ngày + 79% đất + 1% lân;
Công thức 3: 30% phân hữu cơ sinh học ủ
trong 105 ngày + 69% đất + 1% lân;
Công thức 4: 40% phân hữu cơ sinh học ủ
trong 105 ngày + 59% đất + 1% lân;

Công thức 5: 50% phân hữu cơ sinh học ủ
trong 105 ngày + 49% đất + 1% lân.
Hỗn hợp giá thể trộn đều trước khi đóng bầu,
sử dụng bầu polime có kích thước 11 – 15 cm.
Sau khi cấy cây, tiến hành đồng bộ cho các công
thức thí nghiệm về chế độ tưới nước, làm cỏ,
phá váng, đảo bầu.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả nghiên cứu các đặc trưng cơ
bản của phân hữu cơ sinh học được sản xuất
từ vỏ và lá keo theo thời gian ủ khác nhau
Từ 1 tấn vỏ và lá cây keo thu được từ rừng
trồng keo sau khai thác đưa ủ phân hữu cơ sinh
học: với độ ẩm: 25 - 35%; pH: 6,2 - 6,8; sau các
thời gian 60, 75, 90, 105 ngày lấy mẫu phân ủ ra
kiểm tra độ hoai mục bằng cách phân tích các
chỉ tiêu OM tổng số (Mùn tổng số), Đạm (%),
P2O5 (%), K2O (mg/100g mẫu). Kết quả cho
thấy, thời gian ủ phân hữu cơ sinh học ảnh
hưởng rõ rệt tới đặc điểm của phân. Khi ủ phân
hữu cơ sinh học sau 90 ngày cho thấy, phần lớn
các chất hữu cơ đã hoai mục, tạo phân hữu cơ
sinh học là lớn nhất với lượng mùn tổng số đạt
>30%; Hàm lượng nitơ tổng đạt 2,5%; Hàm
lượng photpho tổng số đạt 0,25%; Hàm lượng
kali tổng số đạt: 0,25%. Màu sắc: Nâu đen. Như
vậy với hàm lượng các chất như trên đảm bảo
đạt tiêu chuẩn phân hữu cơ sinh học theo Thông
tư số 36/2010/TT - BNNPTNT ngày 24/6/2010
của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc ban hành

quy định sản xuất kinh doanh và sử dụng phân
bón. Phân hữu cơ sinh học đã được ủ hoai, mục
không chứa các thành phần gây độc hại, đáp

ứng yêu cầu dùng để sản xuất ruột bầu ươm
giống cây lâm nghiệp.
3.2. Kết quả xác định thành phần, tỷ lệ
phân hữu cơ sinh học trong hỗn hợp ruột bầu
để gieo ươm cây con Keo tai tượng và Sưa đỏ
3.2.1. Kết quả xác định thành phần, tỷ lệ
phân hữu cơ sinh học trong hỗn hợp ruột bầu
để gieo ươm cây con Keo tai tượng
Kết quả cho thấy, với tỷ lệ phân hữu cơ sinh
học ủ trong 105 ngày trong giá thể bầu khác
nhau đã ảnh hưởng rõ đến sinh trưởng của cây
con keo tai tượng tại ba thời điểm đánh giá gồm
30, 60 và 90 ngày tuổi. Kết quả đánh giá sinh
trưởng của cây con keo tai tượng cho thấy, giữa
các công thức thí nghiệm có sự sai khác rõ về
mặt thống kê, trong đó, các công thức có sử
dụng phân hữu cơ sinh học để trộn bổ sung làm
giá thể đều cho kết quả cao hơn rõ rệt so với đối
chứng. Công thức sử dụng 30% compost trộn
với 69% đất tầng mặt và 1% lân (CT3) cho kết
quả tốt nhất ở cả ba thời điểm đo đếm. Sinh
trưởng đường kính của công thức tốt nhất đã
vượt công thức đối chứng chỉ sử dụng đất tầng
mặt làm giá thể là 30,6%, 40% và 26,4% tương
ứng tại thời điểm 30, 60 và 90 ngày tuổi. Sinh
trưởng chiều cao cũng vượt tương ứng tại ba

thời điểm là 110,9%, 106,9% và 148%. Ngoài
ra, tỷ lệ sống của cây con ở các công thức có
trộn phân hữu cơ sinh học đạt từ 81,1 - 100%,
cũng cao hơn so với đối chứng (77,8%), cây con
ở các công thức thí nghiệm có độ đồng đều khá
cao, đặc biệt là ở công thức 3. Tuy nhiên, ở hai
công thức 40% và 50% compost, sinh trưởng
của cây Keo tai tượng có xu hướng chững lại,
hiện tượng này có thể do giá thể có tỷ lệ
compost cao hơn thường bị thoát hơi nước
nhanh hơn so với giá thể đất truyền thống.
3.2.2. Kết quả xác định thành phần, tỷ lệ
phân hữu cơ sinh học trong hỗn hợp ruột bầu
để gieo ươm cây con Sưa đỏ
17



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

Chiều cao và đường kính gốc của cây Sưa đỏ
ở các mốc thời gian khác nhau và bón hàm
lượng phân hữu cơ sinh học khác nhau. Kết quả
cho thấy, giữa các công thức thí nghiệm giá thể
cho cây con Sưa đỏ ở thời điểm 60 và 90 ngày
tuổi cũng có sự sai khác rõ về mặt thống kê với
xác suất tính đều nhỏ hơn 0,001. Các công thức
có sử dụng compost để trộn bổ sung làm giá thể
vẫn cho kết quả tốt hơn so với công thức đối
chứng. Cây con Sưa đỏ sinh trưởng tốt nhất ở

công thức sử dụng 40% compost trộn với 59%
đất tầng mặt và 1% lân (CT4), độ đồng đều cao,
hệ số biến động đều dưới 6,5% và tỷ lệ sống
cao, đạt 93,3%. So với công thức đối chứng chỉ
sử dụng đất tầng mặt làm giá thể, sinh trưởng
đường kính của công thức tốt nhất đã vượt lần
lượt là 8,3%, 26,7% và 14,8% tại thời điểm 30,
60 và 90 ngày tuổi; Sinh trưởng chiều cao cũng
vượt tương ứng tại ba thời điểm là 5,8%, 40,3%
và 29,4%. Ở thí nghiệm này, khi tăng tỷ lệ
compost lên 50%, cây con có biểu hiện sinh
trưởng kém hơn so với các công thức sử dụng
20 - 40% compost. Đối với nhiều quốc gia phát
triển, việc sử dụng vật liệu hữu cơ, trong đó có

toàn đất làm giá thể gieo ươm đã được áp dụng
rộng rãi. Tuy nhiên, khi sử dụng 100% compost
để làm giá thể gieo ươm thì cần có các nghiên
cứu bổ sung dinh dưỡng và chế độ tưới nước
phù hợp cho từng đối tượng cây trồng. Đối với
cây keo lai và keo tai tượng, khi sử dụng giá thể
hữu cơ hoàn toàn, ngoài bổ sung phân bón còn
cần bổ sung các nguyên tố vi lượng cho cây
(Nguyễn Hoàng Nghĩa et al., 2013).
IV. KẾT LUẬN
- Tính chất đặc trưng của phân hữu cơ sinh
học được ủ từ vỏ và lá cây keo sau khai thác
rừng keo như sau: Độ ẩm: 25 - 35%; pH: 6,2 6,8; Trong phân ủ sau 90 ngày, hàm lượng các
chất hữu cơ tổng: đạt > 30%; Hàm lượng nitơ
tổng số: 2,5%; Hàm lượng photpho tổng số:

0,25%; Hàm lượng kali tổng số: 0,25%. Màu
sắc: Nâu đen. Cứ 10 - 12 ngày tiến hành đảo
đống ủ 1 lần. Phân hữu cơ sinh học đã được ủ
hoai, mục trong khoảng thời gian từ 90 - 105
ngày không chứa các thành phần gây độc hại,
đáp ứng yêu cầu dùng để sản xuất ruột bầu ươm
giống cây lâm nghiệp.
- Công thức sử dụng 30%
phân hữu cơ sinh học trộn với
69% đất tầng mặt và 1% lân
(CT3) ươm cây giống Keo tai
tượng cho kết quả tốt nhất về
chiều cao và đường kính gốc ở
cả ba thời điểm đo đếm.
- Cây con Sưa đỏ sinh
trưởng tốt nhất ở công thức sử
dụng 40% phân hữu cơ sinh
học trộn với 59% đất tầng mặt
và 1% lân (CT4), độ đồng đều
cao, đạt tỷ lệ sống cao, cho kết
quả tốt nhất về chiều cao và
đường kính gốc ở cả ba thời

cả compost làm từ vỏ và lá cây để thay thế hoàn

18

điểm đo đếm.



Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

TẠO NỘI SINH NHÂN TẠO NẤM BẠCH CƯƠNG
(Beauveria bassiana) CHO BẠCH ĐÀN CAMAL ĐỂ PHÒNG
TRỪ ONG ĐEN (Leptocybe invasa) GÂY U BƯỚU
Lê Văn Bình, Đặng Như Quỳnh, Phạm Quang Thu
Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nấm Bạch cương (Beauveria bassiana) được
biết đến là một tác nhân gây bệnh cho côn trùng,
chúng có thể xâm nhiễm nhiều loài côn trùng
gây hại thuộc bộ Cánh vảy (Lepidoptera), bộ
Cánh cứng (Coleoptera), bộ Cánh màng
(Hymenoptera) và cả bộ Cánh nửa cứng
(Hemiptera), bộ Hai cánh (Diptera) (Yoshinori
và Harry, 1993). Ở nước ta nấm Bạch cương đã
và đang được sử dụng trong phòng trừ Sâu róm
thông và một số loài sâu tơ trong nông nghiệp,
các sản phẩm từ chúng ngày càng được phát
triển thương mại hóa và có tên trong danh sách
các chế phẩm sinh học phòng trừ sâu trong nông
lâm nghiệp. Nhưng phần lớn được sử dụng dưới
dạng bột hoặc dạng dung dịch để phun trực tiếp
lên côn trùng và những vị trí mà sâu di chuyển
qua. Phương pháp này không mang lại hiệu quả
cao đối với những loài côn trùng gây hại sống
trong thân cây, vì khả năng tiếp xúc của nấm
với các loài này rất thấp. Với loài Ong đen (L.
invasa) vị trí gây hại là ngọn, cuống và gân lá

bạch đàn, pha trứng, sâu non và nhộng sống
trong mô của cây chủ nên việc sử dụng thuốc
hóa học và sinh học trong phòng trừ sẽ gặp
nhiều khó khăn. Khi các loài nấm ký sinh côn
trùng sống nội sinh, tạo ra các hợp chất hóa học,
tăng cường khả năng kháng sâu hại của cây chủ.
Bing và Lewis (1991) đã chỉ ra rằng B. bassiana
đã được nhiễm vào cây ngô làm chết hàng loạt
sâu đục thân ở châu Âu, trên khoai tây (Jones,
1994), cà chua (Leckie, 2002), ca cao và ngô
(Arnold và Lewis, 2005) và trên cây
(Theobroma gileri) một cây cùng họ với ca cao
(Evans et al., 2003). Posada và Vega (2005) đã
thành công khi nhiễm nấm B. bassiana cho cây

con ca cao trong ống nghiệm để kháng lại sâu
đục vỏ quả. Parsa và đồng tác giả (2013) đã
nhiễm nấm B. bassiana cho cây Đậu (Phaseolus
vulgaris), kết quả cho thấy, (B. bassiana) có
trong 80% các bộ phận được lây nhiễm. Với khả
năng ký sinh côn trùng và đóng vai trò như một
loài nấm nội sinh B. bassiana mở ra hướng đi
mới trong phòng trừ các loài sâu hại trong nông
lâm nghiệp. Do vậy, nhóm nghiên cứu tiến hành
thử nghiệm việc nhiễm nấm vào cây Bạch đàn
camal (Eucalyptus camaldulensis) bằng phương
pháp tưới dung dịch bào tử khi gieo ươm cây
con và phương pháp nhiễm nấm cho hạt giống
nảy mầm trên hệ sợi nấm trong 7 ngày. Bài báo
này trình bày kết quả về phương pháp nhiễm

nấm cho cây và đánh giá hiệu quả phòng trừ
Ong đen gây u bướu bạch đàn của cây được
nhiễm nấm.
II. VẬT LIỆU,
NGHIÊN CỨU

PHƯƠNG

PHÁP

2.1. Vật liệu
Sâu non Ong ăn lá thông (Neodiprion sp.),
trưởng thành Cầu cấu xanh (Hypomeces
squamosus) và trưởng thành Mọt forni
(Euwallacea fornicatus) bị nhiễm nấm Bạch
cương. Hạt giống Bạch đàn camal (Eucalyptus
camaldulensis).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phân lập các chủng nấm Beauveria
bassiana và tuyển chọn chủng có hiệu lực cao
Các mẫu côn trùng chết do nấm B. bassiana
được thu thập từ rừng, trên cơ thể côn trùng
được bao phủ lớp bột màu trắng. Dùng kim khử
trùng khều nhẹ một ít bào tử được tách ra và hòa
tan trong 1 giọt nước vô trùng trên phiến kính,
19



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt


sau đó dùng que cấy cấy dạng zíc zắc trên môi
trường thạch khoai tây dextrose (PDA) có bổ
sung streptomycin 1%. Hộp lồng cấy nấm được
đặt trong tủ định ôn 25oC, sau 2 - 3 ngày, tách
khuẩn lạc riêng rẽ ra môi trường mới. Từ các
chủng phân lập được lựa chọn một chủng mạnh
nhất bằng cách pha dung dịch bào tử nấm B.
bassiana ở ba nồng độ 106;108;1010 (CFU/ml )
phun lần lượt lên Ong đen gây u bướu. Tiến
hành đặt các đĩa petri có sẵn mật ong và 10 ong
trưởng thành, mỗi chủng nấm thực hiện trên 2
đĩa Petri ở 3 nồng độ khác nhau như trên và
công thức đối chứng phun nước cất (lặp 3 lần).
Kiểm tra và đánh giá sau 2 - 4 ngày tỷ lệ ong
chết do nấm.

Phương pháp phân lập mẫu như sau: Lấy mẫu lá
ở các công thức rửa sạch, khử trùng bằng
NaClO 0,5% trong hai phút sau đó rửa qua cồn
70% trong 2 phút và rửa lại ba lần bằng nước
cất vô trùng. Các mẫu lá được cắt nhỏ kích
thước 3 × 4mm đặt vào môi trường PDA có
chứa kháng sinh (tetracycline, streptomycin và
penicillin với 2mg/lít mỗi loại). Sau 4 - 6 ngày
kiểm tra đánh giá sự xuất hiện của nấm B.
brassiana. Kết quả đánh giá khả năng kháng
ong của cây con được nhiễm nấm B. bassiana ở
vườn ươm thông qua việc điều tra xác định tỷ lệ
bị hại, mức độ bị hại và số liệu sinh trưởng về

đường kính gốc (D0) và chiều cao vút ngọn
(Hvn) của Bạch đàn camal.

2.2.2. Phương pháp nhiễm nấm Beauveria
bassiana vào Bạch đàn camal và đánh giá hiệu
lực phòng trừ Ong đen

Tỷ lệ cây bị ong u bướu hại được xác định
theo công thức:

Nhiễm nấm bằng phương pháp tưới: xử lý
hạt Bạch đàn camal bằng cách ngâm trong
NaClO nồng độ 0,5% trong hai phút, sau đó
chuyển sang ngâm cồn 70% trong 2 phút. Cuối
cùng rửa qua 3 lần bằng nước cất vô trùng. Gieo
hạt vào rổ cát vô trùng, để ở nhiệt độ phòng,
tưới nước vô trùng để duy trì độ ẩm cho hạt nảy
mầm. Phun dung dịch bào tử nấm trên rổ cát khi
hạt bắt đầu nứt nanh và nảy mầm. Phun 1
lần/ngày liên tục trong 1 tuần. Khi cây được 4 6 lá chuyển ra trồng trong bầu đất vô trùng.
Nhiễm nấm bằng phương pháp hạt giống nảy
mầm trên hệ sợi nấm: Hạt được khử trùng cấy
trên môi trường nuôi cấy mô (Trigiano và Gray,
2010). Sau khi cây được hai tuần tuổi thì tiến
hành nhiễm nấm vào môi trường, sau 7 ngày
đưa cây ra huấn luyện ánh sáng trước khi
chuyển ra bầu. Đánh giá hiệu lực phòng trừ
Ong đen của cây con Bạch đàn camal được
nhiễm nấm Beauveria bassiana Kiểm tra sự tồn
tại của nấm trong cây sau 3 tháng, lựa chọn

những cây đã kết hợp với kiểm tra sinh trưởng
và tỷ lệ bị hại, mức độ bị hại của các cây con
được nhiễm nấm và không được nhiễm nấm.
20

Trong đó: n: là số cây bị ong hại, N: là tổng
số cây điều tra.
Cây bị hại trong các công thức được phân
cấp cho từng cây với các cấp và tiêu chí như
sau:
Cấp hại

Chỉ tiêu phân cấp 0

1

< 25% gân lá và ngọn, cành non
bị Ong đen gây hại.

Chỉ số bị hại bình quân trong ô tiêu chuẩn
được tính theo công thức sau:

Trong đó:
R: chỉ số bị Ong đen hại trung bình. ni: số
cây bị hại với chỉ số bị ong hại i. vi: là trị số
của cấp bị ong hại thứ i. N: tổng số cây điều tra.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả phân lập và tuyển chọn chủng
nấm Beauveria bassiana



Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

Từ các mẫu sâu bị nhiễm nấm đã phân lập
được 3 chủng nấm ký hiệu là Bb1, Bb2 và Bb3.
Trong nuôi cấy thuần khiết, tốc độ sinh trưởng
của các chủng nấm là khác nhau và chủng nấm
Bb3 sinh trưởng nhanh nhất. Nấm B. bassiana
(chủng Bb3) bào tử tập trung kết lại thành khối
tròn, khối này được tạo thành bởi những tế bào
sinh bào tử đính hình cầu, có cuống bị kéo dài
thành hình zíc zắc không đều sau mỗi bào tử
đính được sinh ra. Bào tử đính hình cầu đến gần
cầu đường kính 1 - 3µm. Sợi nấm màu trắng,
ngắn, chiều ngang khoảng 3 - µm, mang nhiều
cuống sinh bào tử và bào tử, sợi nấm mỏng mọc
sát môi trường, mọc theo hình tỏa đều, bề mặt
trơn và có nhiều bột.
Bào tử của nấm B.bassiana có kích thước
nhỏ, số lượng lớn và sinh trưởng nhanh. Do vậy,
có nhiều thuận lợi trong việc sử dụng nấm để
nhân nuôi với số lượng lớn sử dụng trong phòng
trừ sâu hại.
Tiến hành thí nghiệm kiểm tra hiệu lực của
nấm với ong đen trưởng thành ở các nồng độ
bào tử khác nhau. Kết quả cho thấy, sau hai
ngày đầu phun nấm tỷ lệ ong đen trưởng thành
chết ở cả ba chủng không có sự chênh lệch
nhiều với nhau và với đối chứng. Sang ngày thứ
3, số lượng ong chết tăng đáng kể, mặc dù giữa

các chủng nấm chưa có sự sai khác rõ rệt nhưng
so với đối chứng thì có sự khác biệt hoàn toàn.
Sau ba ngày, nồng độ phun cũng cho thấy sự
khác biệt rõ ràng, ở mật độ bào tử nấm B.
bassiana càng cao số lượng ong chết càng lớn.
Ở mật độ 106CFU/ml tỷ lệ ong chết trung bình
dao động là 44,7% đến 49,3%; ở mật độ
108CFU/ml là 57,3% đến 62,0%, trong khi đó ở
mật độ 1010CFU/ml là 72,0% đến 77,3% còn ở
công thức đối chứng tỷ lệ ong chết thấp trung
bình là 6%. Đến ngày thứ 4, số lượng ong sống
không còn nhiều, tỷ lệ ong chết ở các chủng đều
ở mức cao đến rất cao từ 88,0% đến 100%. Tuy
nhiên, phun chủng nấm Bb3 ở mật độ
108CFU/ml và 1010CFU/ml không còn một cá

thể nào sống sót, còn ở công thức đối chứng số
lượng ong chết là 17,8%. Trong các chủng nấm
thử nghiệm, chủng nấm Bb3 có hiệu quả mạnh
nhất và tốt nhất ở nồng độ 108CFU/ml và 1010
CFU/ml, ong chết sau 4 ngày, nấm B. bassiana
phát triển bao phủ toàn bộ cơ thể. Do vậy,
chủng Bb3 là chủng sẽ được lựa chọn để làm thí
nghiệm nhiễm cho bạch đàn.
3.2. Đánh giá hiệu quả phương pháp
nhiễm nấm Beauveria bassiana vào Bạch đàn
camal
Sau 4 tuần nhiễm nấm B. bassiana cho cây
Bạch đàn camal bằng 2 phương pháp (tưới nấm
hạt giống nảy mầm và hạt giống nảy mầm trên

hệ sợi nấm), kiểm tra sự tồn tại của nấm trong lá
cây bạch đàn, kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng
việc nhiễm nấm bằng hai phương pháp: tưới bào
tử nồng độ 108CFU/ml vào hạt giống nảy mầm
và hạt giống nảy mầm trên hệ sợi nấm trong
thời gian 7 ngày đều thu được kết quả tốt.
Phương pháp tưới đạt tỷ lệ nhiễm nấm 76,7%,
trong khi đó đối với phương pháp hạt giống nảy
mầm trên hệ sợi nấm đạt tỷ lệ 80,0%, cao hơn
không đáng kể so với phương pháp tưới dung
dịch bào tử vào hạt bạch đàn nứt nanh gieo
trong cát ẩm. Như vậy, trong sản xuất có thể áp
dụng biện pháp tưới dung dịch bào tử nấm B.
bassiana, nồng độ 108CFU/ml khi gieo ươm
bạch đàn để tạo cây con được nhiễm nấm B.
bassiana sống nội sinh trong mô lá và thân của
cây bạch đàn non.
3.3. Hiệu quả kích kháng và sinh trưởng
của cây con được nhiễm nấm Beauveria
bassiana
Những cây con sau ba tháng khi đã được
kiểm tra sự có mặt của nấm B. bassiana được
xếp riêng thành một công thức là công thức 1:
cây con được nhiễm nấm B. Bassiana để đánh
giá hiệu quả kích kháng và sinh trưởng của cây
con được nhiễm nấm Beauveria bassiana tại
vườn ươm Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam (thời điểm thí nghiệm từ tháng 5 đến tháng
21




 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

7 năm 2015 là mùa ong đen xuất hiện và gây hại
bạch đàn) và Công thức 2: cây con không được
nhiễm nấm. Tiến hành đo sinh trưởng của cây,

tỷ lệ cây bị ong đen ký sinh và chỉ số bị hại của
2 công thức thí nghiệm cây con được nhiễm
nấm và cây con không được nhiễm nấm.

Ảnh 1. (a) Hạt Keo lá liềm mới nảy mầm sau 15 ngày; (b) Chồi Keo lá liềm nuôi cấy trong môi trường nhân
nhanh chồi sau 20 ngày; (c) Chồi Keo lá liềm nuôi cấy trong môi trường nâng cao chất lượng chồi sau 25
ngày; (d) cây Keo lá liềm sau 15 ngày; (e) Bình nhân chồi Keo lá liềm sau 20 ngày ở vòng cấy chuyển thứ 8

22


Thông tin chuyên đề nông nghiệp và ptnt

Kt qu thớ nghim hiu qu kớch khỏng
ong en hi bch n ca nm Bch cng
(chng Bb3) (thớ nghim sau 3 thỏng) cho
thy, cụng thc 1 cõy c nhim nm cú
sinh trng trung bỡnh v chiu cao tng hn
33,2% so vi i chng cõy khụng c
nhim nm. Bờn cnh ú, cụng thc i chng
khụng c nhim B. bassiana cú t l b hi
l rt cao (75%), cũn vi cụng thc cõy con

c nhim nm t l cõy b hi l 13,4%
(gim 82,1% t l b hi so vi i chng).
ỏng chỳ ý l cõy con c nhim nm cú ch
s b hi trung bỡnh rt thp (0,18) cõy b hi
nh, trong khi ú, cõy con cụng thc i
chng cú ch s b hi cao (2,52) tng ng
vi cp b hi nng. T kt qu trờn cho thy,
nh ỏp dng kh nng ni sinh ca nm B.
bassiana giỳp vic phũng tr bng nm hiu
qu hn rt nhiu. Nm B. bassiana khụng ch
c bit n l mt loi thuc tr sõu sinh
hc c s dng bng cỏch phun ti dng
bt, m chỳng cũn cú th ni sinh trong cõy,
giỳp cõy tiờu dit nhng loi ký sinh gõy hi
trong thõn. õy l mt kt qu cú ý ngha

trong vic phũng tr loi ong en gõy u bu
bng bin phỏp sinh hc.
VI. KT LUN
Nm Bch cng (B. bassiana) chng Bb3
cú hiu lc cao i vi phũng tr loi ong en
gõy u bu bch n. Sau 12 tun to ni sinh
nhõn to nm Bch cng cho cõy con Bch
n camal nm Bch cng sng v tn ti
trong lỏ, chi v thõn cõy con Bch n camal
vi t l 76,7% i vi phng phỏp ti
dung dch bo t v 80,0% i vi phng
phỏp ht ging ny mm trờn h si nm Bch
cng.
Cõy con c nhim nm sinh trng phỏt

trin nhanh hn, t l v mc b hi do loi
ong en gõy ra thp hn so vi cõy con khụng
c nhim nm. Chiu cao ca cõy con
nhim nm cao hn 33,2% v t l b hi gim
82,1% so vi i chng l cõy con khụng
nhim nm. Kt qu nghiờn cu trờn m ra
mt trin vng mi trong phũng tr sõu hi
trờn cõy trng núi chung v cõy rng núi
riờng.

Kết quả dự án trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa
rừng gỗ nhỏ sang gỗ lớn
ThS. Nh Vn K
Tng cc Lõm nghip

I. MC TIấU CA D N
- Xõy dng mụ hỡnh rng trng nng sut,
cht lng cao trờn cỏc vựng sinh thỏi khỏc
nhau, lm c s xut xõy dng c ch chớnh
sỏch v b sung, hon thin cỏc gii phỏp k
thut phỏt trin rng trng cung cp g ln,
nõng cao giỏ tr sn phm rng trng.
- Chuyn giao nhanh cỏc ging tin b k
thut vo sn xut (keo lai cỏc dũng BV10,
BV16, BV32, BV33...; Keo Tai tng nhp ni

cỏc xut x Pongaki, Cardwell...) ỏp dng cỏc
tin b k thut v trng rng thõm canh g ln.
- Chuyn húa rng trng kinh doanh g nh
sang cung cp g ln (keo lai, keo tai tng),

nõng cao giỏ tr rng trng lờn 50% so vi rng
kinh doanh g nh, gúp phn to ngun nguyờn
liu g ln cho ch bin v tng thu nhp cho
ngi trng rng.
II. NI DUNG D N
1) Mụ hỡnh trng rng g ln

23



 Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt

- Tổng diện tích: 720 ha (360 ha keo lai và
360 ha keo tai tượng);
- Hình thức thực hiện: Hỗ trợ cho các đối
tượng tham gia xây dựng mô hình thuộc xã khó
khăn là 100% cây giống và phân bón, các đối
tượng thuộc xã miền núi được hỗ trợ 100% cây
giống và 50% khối lượng phân bón.
2) Mô hình chuyển hóa rừng trồng cung cấp
gỗ nhỏ sang gỗ lớn
- Tổng diện tích: 350 ha (140 ha keo lai và
210 ha keo tai tượng);
- Hình thức thực hiện: Hỗ trợ cho các đối
tượng tham gia xây dựng mô hình thuộc xã khó
khăn là 100% khối lượng phân bón, các đối
tượng thuộc xã miền núi được hỗ trợ 50% khối
lượng phân bón.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN

1. Mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn
a) Khối lượng, địa điểm thực hiện
- Khối lượng thực hiện 789 ha/720 ha (KH)
đạt 109,5%;
- Các giống: Keo lai (dòng BV 10, BV 16, BV
32, BV 33, BV 73, BV 75) diện tích 320 ha; Keo
tai tượng (xuất xứ Pongakii) diện tích 469 ha;
- Địa điểm xây dựng tại 62 xã/60 xã (KH) đạt
103,3% (tổng số có 453 hộ gia đình tham gia,
thuộc 47 xã khó khăn, 15 xã miền núi của 7 tỉnh:
Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Cà Mau và Yên Bái).
b) Đánh giá mức độ sinh trưởng
- Rừng trồng năm 2014:
+ Rừng trồng thâm canh gỗ lớn Keo tai
tượng tại Thanh Hóa, sau 28 tháng tuổi, mật độ
1346 cây/ha, tỷ lệ sống trên 91%, chiều cao vút
ngọn 5,88 m, đường kính 8,88 cm, trữ lượng
24,49 m3 /ha, chất lượng rừng tốt không sâu
bệnh, gẫy ngọn, đều đạt chỉ tiêu sinh trưởng so
với dự án đã phê duyệt. So sánh với rừng trồng
gỗ nhỏ, mật độ thấp hơn 274 cây/ha (gỗ nhỏ mật
độ: 1.620 cây/ha), chiều cao cao hơn không
24

đáng kể 0,32 m (gỗ nhỏ 5,56 m), nhưng đường
kính cao hơn 2,02 cm (gỗ nhỏ: 6,86 cm), trữ
lượng cao hơn 7,86 m3/ha, chiếm 32% (gỗ nhỏ:
16,63 m3/ha).
+ Rừng trồng thâm canh gỗ lớn Keo lai tại

Quảng Trị, sau 25 tháng tuổi, mật độ từ 1.320
cây/ha, tỷ lệ sống trên 88,87%, chiều cao vút
ngọn từ 4,87m, đường kính từ 6,96 cm, trữ
lượng 12,22 m3, chất lượng rừng tốt không sâu
bệnh, gẫy ngọn, đều đạt chỉ tiêu sinh trưởng so
với dự án đã phê duyệt. So sánh với rừng trồng
gỗ nhỏ, mật độ thấp hơn 300 cây/ha (gỗ nhỏ mật
độ: 1.620 cây/ha), chiều cao cao hơn không
đáng kể 0,17 m (gỗ nhỏ 4,7 m), nhưng đường
kính cao hơn 1,31 cm (gỗ nhỏ: 5,65 cm), trữ
lượng cao hơn 2,68 m3 /ha chiếm 21,9% (gỗ
nhỏ: 9,54 m3/ha).
- Rừng trồng năm 2015:
+ Rừng trồng thâm canh gỗ lớn keo tai tượng
tại Quảng Ninh 18 tháng tuổi, mật độ 1340
cây/ha, tỷ lệ sống 96%, chiều cao vút ngọn 4,52
m, đường kính 6,83 cm, trữ lượng 11,09 m3,
chất lượng rừng tốt không sâu bệnh, gẫy ngọn,
đều đạt chỉ tiêu sinh trưởng so với dự án đã phê
duyệt. So sánh với rừng trồng gỗ nhỏ, mật độ
thấp hơn 280 cây/ha (gỗ nhỏ mật độ: 1.620
cây/ha), chiều cao cao hơn không đáng kể 0,02
m (gỗ nhỏ 4,5 m), nhưng đường kính cao hơn
1,58 cm (gỗ nhỏ: 5,25 cm), trữ lượng cao hơn
4,92 m3 /ha, chiếm 44,4% (gỗ nhỏ: 6,17 m3/ha).
Tỉnh Quảng Ninh mô hình sinh trưởng tốt nhất
vì trồng đúng thời vụ tháng 5 năm 2015.
+ Rừng trồng thâm canh gỗ lớn Keo lai tại
Cà Mau sau 14 tháng tuổi, mật độ từ 2.560
cây/ha, tỷ lệ sống 96,17%, chiều cao vút ngọn từ

5,22 m, đường kính từ 6,99 cm, trữ lượng đạt
25,63 m3 (năng suất đạt 21,97 m3/ha/năm), chất
lượng rừng tốt không sâu bệnh, gẫy ngọn, vượt
chỉ tiêu sinh trưởng so với dự án đã phê duyệt.
So sánh với rừng trồng gỗ nhỏ, mật độ thấp hơn
680 cây/ha (gỗ nhỏ mật độ: 3.240 cây/ha), chiều
cao cao hơn không đáng kể 0,12 m (gỗ nhỏ: 5,1


Th«ng tin chuyªn ®Ò n«ng nghiÖp vµ ptnt 

m), nhưng đường kính cao hơn 1,14 cm (gỗ
nhỏ: 5,85 cm), trữ lượng cao hơn 3,44 m3/ha,
chiếm 13,42% (gỗ nhỏ: trữ lượng 22,19 m3/ha,
năng suất 19,02 m3/ha/năm).
- Rừng trồng năm 2016:
+ Các tỉnh Thanh Hóa, Bắc Giang trồng
tháng 5 năm 2016, sau 7 tháng trống, mật độ
trồng 1333 cây/ha, tỷ lệ sống 92,3%, Chiều cao
vút ngọn từ 2,5 - 2,8 m, đường kính gốc từ 4,1 4,6 cm. Rừng sinh trưởng phát triển tốt.
+ Các tỉnh: Bắc Giang, Quảng Ninh, trồng
tháng 7 năm 2016, sau 5 tháng trồng, mật độ
trồng 1333 cây/ha, tỷ lệ sống trên 95%, chiều
cao vút ngọn từ 1,0 - 1,5m, đường kính gốc từ
2,0 - 3,0 cm. Rừng sinh trưởng phát triển khá.
+ Các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
trồng tháng 11 - 12 năm 2016, sau 1 - 2 tháng
trồng, tỷ lệ sống trên 95%, chưa đánh giá về mặt
sinh trưởng của mô hình.
2. Mô hình chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ

sang gỗ lớn
a) Khối lượng, địa điểm thực hiện
- Khối lượng thực hiện 370 ha/350 ha đạt
105,7% kế hoạch, trong đó có: 90 ha rừng keo
lai và 280 ha rừng keo tai tượng.
- Địa điểm tại 28 xã/30 xã đạt 93,3% kế
hoạch, trong đó có 21 xã khó khăn và 7 xã miền
núi; tổng số 153 hộ và 01 Công ty tư nhân tham
gia, thuộc 6 tỉnh: Bắc Giang, Quảng Ninh,
Thanh Hóa, Quảng Trị, Đăk Nông và Yên Bái.
b) Đánh giá mức độ sinh trưởng
- Rừng chuyển hóa năm 2014:
+ Mô hình chuyển hóa rừng (keo tai tượng)
tại Thanh hóa: Mật độ trước chuyển hóa là 1415
cây/ha, trữ lượng 132,21 m3, sau chuyển hóa
mật độ để lại là 766 cây/ha, trữ lượng 108,28
m3/ha , số cây chặt là 649 cây/ha, trữ lượng chặt
là 23,93 m3/ha, cường độ chặt mạnh là 45,85%.
Sau 2 năm chuyển hóa, trữ lượng của rừng là
160,18 m3/ha, năng suất tăng 25,95 m3/ha/năm.
Rừng phát triển nhanh về đường kính tăng 1,12

cm/năm, chất lượng rừng được nâng cao, đã có
45,4% số cây (348 cây) có đường kính cấp II (từ
18-25 cm), 4,74% số cây( 21 cây) có đường
kính cấp III (trên 25 cm); So sánh với rừng
không chuyển hóa: Rừng chuyển hóa có trữ
lượng cao hơn không đáng kể 0,21 m3/ha, do
rừng đã bị khai thác đi 24,14m3/ha. Nếu tính cả
lượng khai thác, thì trữ lượng của rừng chuyển

hóa sẽ cao hơn không chuyển hóa là 14,86%
(rừng chuyển hóa là 184,32 m3/ha, rừng không
chuyển hóa là 159,97 m3/ha). Năng suất của
rừng chuyển hóa cao hơn 46,5% (25,95 m3
/ha/năm) so với rừng không chuyển hóa (13,88
m3 /ha/năm). Mặt khác rừng chuyển hóa có tổng
số cây có đường kính cấp II và III cao hơn
51,22% (369 cây) so với rừng không chuyển
hóa (180 cây).
+ Mô hình chuyển hóa rừng (keo lai) tại
Quảng Trị: Mật độ trước chuyển hóa là 1.240
cây/ha, trữ lượng 77,84 m3, sau chuyển hóa mật
độ để lại là 740 cây/ha, trữ lượng 62,58 m3/ha,
số cây chặt là 500 cây/ha, trữ lượng chặt là
12,56 m3/ha, cường độ chặt mạnh là 40,32%.
Sau 2 năm chuyển hóa, trữ lượng của rừng là
107,44 m3/ha, năng suất tăng 22,43 m3/ha/năm.
Rừng phát triển nhanh về đường kính tăng 1,4
cm/năm, chất lượng rừng được nâng cao, đã có
27,7 % số cây (205 cây) có đường kính cấp II,
2,7% số cây (20 cây) có đường kính cấp III; So
sánh với rừng không chuyển hóa: Rừng chuyển
hóa có trữ lượng cao hơn 3,6% (3,82 m3 /ha) so
với rừng không chuyển hóa (103,62 m3/ha), do
rừng đã bị khai thác đi 12,56 m3/ha. Nếu tính cả
lượng khai thác thì trữ lượng của rừng chuyển
hóa sẽ cao hơn không chuyển hóa là 13,7%
(rừng chuyển hóa là 120 m3/ha, rừng không
chuyển hóa là 103,62 m3/ha). Năng suất của
rừng cao hơn 42,5% (22,43 m3/ha/năm) so với

rừng không chuyển hóa (12,89 m3 /ha/năm). Mặt
khác rừng chuyển hóa có tổng số cây có đường
kính cấp II và III cao hơn 79,6% (225 cây) so
với rừng không chuyển hóa (46 cây).
25


×