Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Thuốc rối loạn cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.19 KB, 4 trang )

CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN CƯƠNG HIỆN NAY

Nguyễn Hoàng Đức – Trần Lê Linh Phương – Vũ Hồng Thònh
1

Trong 5 năm vừa qua, điều trò nội khoa rối loạn cương đã có rất nhiều tiến bộ ngoạn mục với sự xuất
hiện của rất nhiều thuốc mới. Trong bài viết này, chúng tôi tổng kết lại một số thuốc điều trò rối loạn
cương đang sử dụng phổ biến hiện nay.
CURRENT PHARMACOLOGICAL TREATMENT OF ERECTILE DYSFUNCTION
Pharmacotherapy for men experiencing erectile dysfunction has undergone dramatic advances over the
past 5 years with the introduction of effective oral agents. Novel oral therapies targeted at specific
points along the erectile cascade are undergoing pre-clinical and early phase registration trials with the
promise of rapid action, extended duration of responsiveness and an improved side effect profile. In this
review, we have highlighted recent information on the drug therapy of erectile dysfunction

Số lượng bệnh nhân rối loạn cương (erectile dysfunction – ED) ngày càng nhiều. Năm 1995,
toàn thế giới có 152 triệu bệnh nhân và McKinlay dự đoán, con số này sẽ là 322 triệu vào
năm 2025 [1]. Gần đây, dựa vào những hiểu biết mới về vai trò của các chất dẫn truyền thần
kinh gây dãn cơ trơn, phosphodiesterase, cGMP và cAMP...các nhà nghiên cứu đã tạo ra
nhiều loại thuốc mới để điều chỉnh rối loạn cương. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điểm lại
một số loại thuốc điều trò rối loạn cương đang sử dụng trong lâm sàng hiện nay.
Nhắc lại về cơ chế gây cương
Sự cương của dương vật do nhiều yếu tố cùng quyết đònh: tâm lý, nội tiết, mạch máu, thần
kinh.Trung tâm điều khiển tình trạng cương nằm ở một số nhân của vùng hạ đồi. Tín hiệu
thần kinh được truyền đến thần kinh cương của dương vật. Các chất dẫn truyền thần kinh do
đầu tận cùng thần kinh cương phóng thích (nitric oxide, acetylcholine...) phối hợp với các chất
do tế bào nội mạch của xoang tónh mạch tiết ra (Prostaglandin F2a, endothelin), tạo thành NO
(từ Arginine). NO sinh ra GMP vòng, gây dãn cơ trơn của các tiểu động mạch trong thể hang.
Lưu lượng máu đến thể hang tăng lên làm thể hang to ra, chẹn hoàn toàn hệ thống tónh mạch
nằm dưới bao trắng để duy trì tình trạng cương (với áp lực trung bình bên trong thể hang
khoảng 100 mmHg). Trục trặc ở bất cứ khâu nào của quá trình trên đều có thể gây ra rối loạn


cương [2].


1
Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM

Hình 1 – Giải phẫu của cơ chế cương dương vật
Bảng 1 – Phân loại rối loạn cương [2]
Phân loại rối loạn cương (ED) Nguyên nhân
ED do tâm lý
Trầm cảm
Căng thẳng trong công việc
Stress
ED do bệnh lý thần kinh
Đột q
Bệnh Alzheimer
Tổn thương tủy
Đã phẫu thuật ở vùng chậu
Tổn thương ở vùng chậu
Bệnh thần kinh do tiểu đường
ED do rối loạn nội tiết
Thiểu năng sinh dục
Tăng prolactin máu
ED do nguyên nhân mạch máu
Xơ vữa động mạch
Cao huyết áp
Tổn thương mạch máu do tiểu đường
Bệnh Peyronie
ED do thuốc
Thuốc cao huyết áp

Thuốc chống trầm cảm
Thuốc chống androgen
Nghiện rượu, nghiện thuốc lá
ED do các bệnh toàn thân hoặc do tuổi già
Lớn tuổi
Bệnh tiểu đường
Bệnh tim
Suy thận mạn
Các thuốc điều trò rối loạn cương
Thuốc tác động ở trung ương
Yohimbine
Là chất đối vận alpha-2, được dùng trong những trường hợp rối loạn cương do tâm lý
(liều 6 – 10mg, 3 lần trong ngày).
Apomorphine ngậm dưới lưỡi
Là chất đồng vận dopamine, đang thử nghiệm ở giai đoạn III. Thuốc tuy có hiệu quả
kém hơn so với các chất ức chế phosphodiesterase nhưng tác dụng nhanh và ít tác
dụng phụ. Thuốc có thể dùng kết hợp với các chất ức chế phosphodiesterase [3].
Peptide hướng Melanin
Trong một nghiên cứu, Melanotan II tiêm dưới da có đáp ứng gây cương ở 63% bệnh
nhân rối loạn cương do nguyên nhân thực thể so với tỷ lệ 4,7% của giả dược [4].
Thuốc tác động lên quá trình dãn cơ trơn của dương vật
1) Thuốc chích vào thể hang: dùng khi điều trò bằng thuốc uống thất bại hoặc có chống chỉ
đònh sử dụng thuốc uống
Papaverin
Thuốc ức chế phosphodiesterase không chọn lọc, có hiệu quả gây cương ở 80%
bệnh nhân rối loạn cương do tâm lý hoặc do nguyên nhân thần kinh. Thuốc ít
hiệu quả đối với rối loạn cương do nguyên nhân mạch máu. Tác dụng phụ: hạ
huyết áp động mạch, độc gan, gây cương dương vật kéo dài (35% trường hợp
sử dụng) và xơ hóa thể hang (33% trường hợp sử dụng).
Alprostadil

Là một dạng Prostaglandin-E1 tổng hợp, có hiệu quả ở 70% bệnh nhân rối loạn
cương. Thuốc khá an toàn (tỷ lệ cương dương vật kéo dài: 0,35% đến 4%; xơ
hóa thể hang: 1% đến 23%). Tác dụng phụ thường gặp nhất là đau khi cương
(17% đến 34%). Alprostadil hiệu quả hơn hẳn Papaverin
2) Thuốc đặt niệu đạo
Alprostadil đặt niệu đạo
Tỷ lệ đáp ứng thay đổi từ 43% đến 66%. Tác dụng phụ: đau khi cương (32%)
và nóng rát niệu đạo (12%).
3) Thuốc uống
Thuốc uống điều trò rối loạn cương là các chất ức chế chọn lọc phosphordiesterase-5 (PDE-5),
ngăn ngừa sự thủy phân của GMP vòng, làm tăng nồng độ của GMP vòng trong cơ trơn thể
hang.



Bảng 2 – Một số đặc tính của các thuốc ức chế chọn lọc PDE-5
Loại thuốc Đặc tính
Sildenafil (Viagra)
- Liều 25 mg đến 100 mg, uống 1 giờ trước khi sinh hoạt tình dục
- Thời gian thuốc đạt nồng độ cao nhất (Tmax): 60 phút
- Thời gian bán hủy của thuốc: 4 giờ đến 5 giờ
- Chống chỉ đònh ở những bệnh nhân đang uống thuốc có Nitrate
Vardenafil (Levitra)
- Liều dùng thông thường: 10mg, nên uống 1 giờ trước khi sinh hoạt tình dục
- Thời gian thuốc đạt nồng độ cao nhất (Tmax): 40 phút
- Thời gian bán hủy: 4,8 giờ đến 6 giờ
- Chống chỉ đònh ở những bệnh nhân đang uống thuốc chẹn bêta, thuốc có
Nitrate, bệnh nhân suy gan
Tadalafil (Cialis)
- Liều dùng thông thường: 10mg, nên uống 1 giờ trước khi sinh hoạt tình dục

- Thời gian thuốc đạt nồng độ cao nhất (Tmax): 120 phút
- Thời gian bán hủy: 17,5 giờ đến 21 giờ
- Chống chỉ đònh ở những bệnh nhân đang uống thuốc chẹn alpha, thuốc có
Nitrate
Cả 3 loại thuốc đều có tỷ lệ thành công (gây cương đủ để giao hợp) chung ở các nhóm bệnh
nhân từ 70% đến 75% [5]. Riêng đối với nhóm bệnh nhân tiểu đường hoặc những bệnh nhân
đã có tiền sử phẫu thuật vùng chậu, tỷ lệ thành công của thuốc giảm xuống còn 40% đến
50%. Theo Porst, khả năng bệnh nhân không đáp ứng với một loại ức chế PDE-5 này nhưng
lại đáp ứng khi chuyển sang dùng một loại ức chế PDE-5 khác chỉ khoảng 5% [5]. Do đó,
theo tác giả, nên khuyến cáo bệnh nhân dùng thử hết cả 3 loại thuốc ức chế PDE-5 và sau đó
chính bệnh nhân sẽ quyết đònh lựa chọn loại thuốc thích hợp cho bản thân mình.
Bảng 3 – Tác dụng phụ của các thuốc ức chế PDE-5 [5]

Sildenafil

(thử nghiêm trên 5918
bệnh nhân)
Vardenafil
(thử nghiệm trên 2203
bệnh nhân)
Tadalafil
(thử nghiệm trên 804
bệnh nhân)
Nhức đầu 14,6% 14,5% 14%
Nóng bừng mặt 14,1% 11,1% 4%
Rối loạn tiêu hóa 6,2% 3,7% 10%
Viêm mũi 2,6% 9,2% 5%
Đau lưng 0% 0% 6%
Rối loạn thò giác 5,2% 0% 0%
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. McKinlay JB. The world-wide prevalence and epidemiology of erectile dysfunction. Int J Impot Res
2000; 12 (suppl 4):S6-S11.
2. Lue TF. Drug therapy: erectile dysfunction. N Engl J Med 2000; 342(24):1802-1813
3. Gerald B. Brock, Derek Bochinski. Modern pharmacotherapy for erectile dysfunction: evolving
concepts with central and peripheral acting agents. Curr Opin Urol 2001; 11:625-630
4. Wessells H, Gralnek D, Dorr R, et al. Effect of an alpha-melanocyte stimulating hormone analogue on
penile erection and sexual desire in men with organic erectile dysfunction. Urology 2000; 56:641-646.
5. Porst H. PhosphodiesteraseType-5 Inhibitors: A Critical ComparativeAnalysis. EAU Update Series 2
(2004) 56–63

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×