Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bình luận các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong pháp luật việt nam (bài làm 8đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.81 KB, 10 trang )

Mở đầu
Là một trong những chủ thể của tư pháp quốc tế, pháp nhân mang
những đặc điểm riêng biệt với các chủ thể còn lại. Một trong nh ững đ ặc
điểm đó chính là về vấn đề quốc tịch của pháp nhân, đây là m ột v ấn đ ề
khá phức tạp trong tư pháp quốc tế. Để hiểu rõ h ơn về vấn đề quốc t ịch
của pháp nhân, nhóm em xin đi sâu tìm hiểu đề tài: “Bình luận các quy định
về quốc tịch của pháp nhân trong pháp luật Việt Nam”.
Nội dung
1. Khái quát về pháp nhân và quốc tịch của pháp nhân:
1.1. Khái niệm pháp nhân, pháp nhân nước ngoài:
Pháp nhân là một tổ chức nhất định của con người được pháp luật nhà
nước quy định có quyền năng chủ thê1. Vậy, pháp nhân phải là một tổ chức được
thành lập theo trình tự, thủ tục và đủ các điều kiện do pháp luật nhà nước quy
định hoặc tồn tại trên thực tế và được nhà nước công nhận.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định một
tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang dựa trên ngân sách nhà
nước nhưng có dự toán độc lập, các đoàn thê quần chúng, tổ chức xã hội độc lập về
tổ chức và tài sản, các tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
được thành lập hợp pháp hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, có tổ chức và hạch toán kinh tế độc lập đều được coi là pháp nhân.2
Việc công nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân phải dựa trên cơ sở pháp
luật của một nước nhất định, một tổ chức được công nhận có tư cách pháp nhân ở
nước nó thành lập thì cũng được công nhận có tư cách pháp nhân ở các nước khác.
Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước
ngoài (theo quy định tại Điều 3 Nghị định 138/2006/ NĐ-CP của Chính phủ). Như


vậy có thê hiêu rằng pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân
1 Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2010, tr. 96.
2 Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2010, tr.97

1


theo quy định của pháp luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước
ngoài.
1.2.

Quốc tịch của pháp nhân:

 Khái niệm về quốc tịch của pháp nhân:
Quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ pháp lý đặc biệt và vững chắc giữa
pháp nhân và một nhà nước nhất định. Mối liên hệ pháp lý đặc biệt đó thê hiện ở
chỗ tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo pháp luật nước đó, khi hoạt động ở
nước ngoài pháp nhân được nước mình bảo hộ 3. Pháp luật quốc gia đó trao cho
pháp nhân các quyền nhất định và đồng thời pháp nhân cũng phải thực hiện nghĩa
vụ đối với nhà nước. Việc hợp nhất, chia tách, sáp nhập, giải thê, chấm dứt pháp
nhân và thanh lý giải quyết các vấn đề tài sản trong các trường hợp này của pháp
nhân phải tuân theo quy định của nước mà pháp nhân mang quốc tịch.

 Các cách xác định quốc tịch của pháp nhân:
Việc xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện mở
rộng giao lưu kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hóa, xã hội giữa các
quốc gia. Các quốc gia khác nhau có các xác định khác nhau về quốc tịch của
pháp nhân:
+ Xác định quốc tịch của pháp nhân căn cứ vào nơi đặt trụ sở chính của pháp
nhân: chẳng hạn như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Italia và một số nước khác. Họ cho

rằng nơi đặt trung tâm quản lý là nơi đặt trụ sở cơ quan lãnh đạo, nơi quyết định
mọi công việc của pháp nhân. Việc xác định theo dấu hiệu này có ưu điêm là có
thê quản lý được một cách tổng quát hoạt động của pháp nhân thông qua các báo
cáo, tuy nhiên lại không quản lí được các giấy tờ, hồ sơ cũng như hoạt động thực
tế của pháp nhân, điều này cũng gây khó khăn cho các quốc gia trong quá trình
kiêm tra, giám sát các hoạt động thực tế hay mở rộng của pháp nhân này.
+ Xác định quốc tịch của pháp nhân căn cứ vào nơi thành lập, đăng kí Điều lệ
của pháp nhân khi thành lập ví dụ như các nước Anh, Mỹ… Cách xác định này có
ưu điêm là có thê nắm được các thông tin, quản lý được hồ sơ giấy tờ trên phương
diện pháp lý của pháp nhân nhưng lại không kiêm soát được hoạt động của pháp
nhân trên thực tế.
+ Một số nước Ả Rập như Ai Cập, Xi ri … lại áp dụng cách xác định quốc tịch
của pháp nhân căn cứ vào nơi thực tế hoạt động (nơi kinh doanh, sản xuất chính)
của pháp nhân bất kê nơi đặt trụ sở chính hay nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân.
Cách xác định này là khá phù hợp bởi các hoạt động chủ yếu mang lại lợi ích kinh
tế cao ở các quốc gia này là khai thác khoáng sản, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt, các
3 TS. GVC. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội –
2012, tr.124.

2


thương nhân đến khai thác kinh doanh và sản xuất lại thường không đặt trụ sở ở
các quốc gia này. Vì thế, việc xác định như vậy có thê kiêm soát được hoạt động
của pháp nhân trên thực tế hơn nữa lại có thê thu về nguồn tài chính cho quốc gia
mình thông qua việc thu thuế. Tuy nhiên, hạn chế của cách xác định đó là không
kiêm soát được các hồ sơ về các pháp nhân này.
Ở Việt Nam, trên thực tế các pháp nhân được thành lập ở Việt Nam, đồng thời
cũng đặt trụ sở và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Những pháp nhân đó được
công nhận là các pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam. Việt Nam không có quy

định trực tiếp về nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân, tuy nhiên, tại
khoản 1 Điều 765 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định gián tiếp thừa nhận
nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi thành lập và đăng
kí điều lệ của pháp nhân khi thành lập. Đối với Việt Nam, những pháp nhân
không mang quốc tịch của Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
2. Các quy định về quốc tịch của pháp nhân trong pháp luật Việt Nam:
Như trên đã khẳng định thì pháp luật Việt Nam không có điều luật quy định
trực tiếp về cách xác định của pháp nhân như thế nào mà chỉ quy định gián tiếp
thông qua khoản 1 Điều 765 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 và quy định rải
rác trong các văn bản khác như: Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm
2005, Luật Thương mại năm 2005, Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 765 Bộ luật dân sự Việt Nam năm
2005: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác đ ịnh
theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, tr ừ tr ường h ợp
quy định tại khoản 2 Điều này…” . Quy phạm trên là một quy phạm xung đột
thông thường hai chiều, phần phạm vi xác định vấn đề pháp lý đ ược đi ều
chỉnh là vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân, phần hệ thuộc quy định
pháp luật được lựa chọn để điều chỉnh vấn đề này là pháp lu ật của qu ốc gia
nơi mà pháp nhân được thành lập. Bộ luật dân sự không quy đ ịnh tr ực tiếp
nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân, song khi xem xét vấn đề năng
lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài thì căn cứ vào pháp lu ật c ủa n ước
nơi pháp nhân đó thành lập tức là đã gián tiếp quy định nguyên tắc xác đ ịnh
quốc tịch của pháp nhân là căn cứ vào nơi mà pháp nhân thành lập. Pháp
nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam ph ải tuân theo hai h ệ
thống pháp luật:
+ Pháp luật Việt Nam chi phối các hoạt động cụ thể của pháp nhân được
tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Pháp luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch điều ch ỉnh các

vấn đề pháp lý của pháp nhân như: điều kiện thành lập, cấp phép kinh
3


doanh, phạm vi, lĩnh vực hoạt động, quy ền và nghĩa vụ của pháp nhân đ ối
với quốc gia mà mình mang quốc tịch, vấn đề giải thể, phá sản, mua bán,
sáp nhập, chia tách pháp nhân.
Ngoài ra, tại Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính ph ủ quy định:
“Pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước
ngoài”. Căn cứ vào quy định trên, có thể khẳng định theo quan điểm của Việt
Nam thì pháp nhân sẽ mang quốc tịch của quốc gia n ơi pháp nhân đó thành
lập: pháp nhân được thành lập theo pháp luật n ước ngoài ở n ước ngoài thì
có quốc tịch nước ngoài, pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam
là pháp nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó, vấn đề quốc tịch của phảp nhân cũng được quy đ ịnh
rải rác trong các văn bản pháp luật chuyên ngành của n ước ta. T ại Điều 16
Luật thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân nước ngoài là thương
nhân được thành lập, đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp lu ật n ước
ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành l ập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại th ường xuyên và có đăng kí kinh
doanh (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005). Tổ ch ức kinh t ế
được thành lập hợp pháp là tổ chức kinh tế do cơ quan nhà n ước có th ẩm
quyền cấp giấy chứng nhận về sự thành lập ra nó hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập ra nó. Như vậy, các tổ ch ức kinh tế đ ược
thành lập hợp pháp theo pháp luật nước ngoài hoặc được n ước ngoài công
nhận thì được coi là thương nhân nước ngoài. Căn cứ vào quy đ ịnh trên, có
thể thấy rằng vấn đề xác định quốc tịch của thương nhân cũng phụ thuộc
vào nơi thương nhân thành lập, đăng kí kinh doanh. Ngoài ra, trong Lu ật
Thương mại năm 2005 cũng có quy định khác về vấn đề quốc tịch của

pháp nhân: tại khoản 4 Điều 16 Luật Thương mại quy đ ịnh: “Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thương nhân nước ngoài thành lập
tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc t ế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì được coi là thương
nhân Việt Nam.” Như vậy, có thể hiểu rằng, các doanh nghiệp sau nếu do
thương nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam theo pháp luật Vi ệt Nam
hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì được coi là mang
quốc tịch Việt Nam: các xí nghiệp liên doanh có v ốn đ ầu tư n ước ngoài và
xí nghiệp 100% vốn nước ngoài thành lập theo Luật đầu t ư năm 2005 . Ví
dụ: công ty coca – cola được đăng kí thành lập năm 1893 tại Mỹ, Mỹ là m ột
trong những quốc gia xác định quốc tịch của pháp nhân căn c ứ vào n ơi
pháp nhân thành lập, đăng kí điều lệ, như vậy công ty này mang quốc tịch
Mỹ. Tuy nhiên, công ty coca – cola tiếp tục mở rộng, gi ới thiệu s ản ph ẩm
đến các quốc gia khác trên thế giới, năm 1960: Lần đầu tiên Coca-Cola
được giới thiệu tại Việt Nam và những năm sau đó thành lập các công ty
liên doanh tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam. Tháng 10 năm 1998:
4


Chính Phủ Việt Nam đã cho phép các Công ty Liên Doanh tr ở thành Công ty
100% vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty này mang quốc tịch Việt Nam.
Một số doanh nghiệp sau cũng được coi là pháp nhân Việt Nam: doanh
nghiệp được thành lập tại Việt Nam để thực hiện hoạt động đầu t ư theo
hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT; theo đó hợp đồng BOT là h ợp đ ồng xây
dựng- kinh doanh – chuyển giao: hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định, hết th ời hạn, nhà đầu t ư
chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Vi ệt Nam 4; hợp
đồng BTO là hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh: hình th ức đ ầu
tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đ ầu t ư đ ể xây

dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đ ầu t ư
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà
đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một th ời h ạn nh ất đ ịnh đ ể
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận5; hợp đồng BT: hợp đồng xây dựng –
chuyển giao: hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây
dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà n ước Vi ệt Nam,
Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác đ ể thu h ồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo tho ả thu ận
trong hợp đồng BT6….
Theo Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Quốc tịch của doanh
nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập,
đăng kí kinh doanh.”. Như vậy, căn cứ vào quy định trên, các tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đ ược đăng kí kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích th ực hiện các ho ạt
động kinh doanh thì sẽ mang quốc tịch của quốc gia, n ơi mà t ổ ch ức đó
thành lập, đăng kí kinh doanh. Đây cũng là quy đ ịnh khá c ụ th ể, tr ực ti ếp
của pháp luật Việt Nam về vấn đề quốc tịch của doanh nghiệp.
Như vậy, nhìn chung, vấn đề quốc tịch của pháp nhân không đ ược pháp
luật Việt Nam quy định tập trung trong một văn bản pháp lu ật c ụ th ể mà
quy định rải rác trong các văn bản pháp luật chuyên ngành mà ch ủ y ếu là
các văn bản điều chỉnh đối với các pháp nhân là tổ ch ức kinh t ế. Tuy nhiên
có thể thấy rằng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp nhân sẽ
mang quốc tịch của quốc gia, nơi pháp nhân đó thành lập.
3. Bình luận về các quy định của pháp luật Việt Nam về quốc t ịch
của pháp nhân:
4 Điều 3 Luật Đầu tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
5 Điều 3 Luật Đầu tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
6 Điều 3 Luật Đầu tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.


5


3.1. Ưu điểm:
Thứ nhất, các quy định về xác định quốc tịch của pháp nhân có ưu điêm là tạo
cơ sở xác định tư cách pháp lý của pháp nhân, góp phần kiêm soát hoạt động của
pháp nhân, bảo vệ an ninh, chủ quyền và lợi ích kinh tế - xã hội của nhà nước nơi
pháp nhân đặt trụ sở hoặc hoạt động.
Thứ hai, các quy định về quốc tịch của pháp nhân là sự xác định mối liên hệ
pháp lý đặc biệt và vững chắc giữa một pháp nhân và một nhà nước nhất định.
Việc này thê hiện ở chỗ pháp nhân sẽ được hưởng những quyền lợi gì, được bảo
hộ về mặt ngoại giao như thế nào khi hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia khác
cũng như xác định các nghĩa vụ mà pháp nhân phải gánh vác với nhà nước mà
mình mang quốc tịch mà quan trọng là nghĩa vụ nộp thuế.
Thứ ba, các quy định về xác định quốc tịch của pháp nhân còn có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong điều kiện mở rộng giao lưu thương mại, khoa học, kỹ thuật
và văn hóa giữa các quốc gia, pháp nhân của nước này mở rộng phạm vi hoạt
động sản xuất kinh doanh sang lãnh thổ nước khác ngày càng nhiều.
Thứ tư, các quy định về quốc tịch của pháp nhân cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xác định quy định về trình tự, thủ tục của việc hợp nhất, chấm dứt, chia
tách, giải thê, thanh lý, giải quyết các vấn đề tài sản của pháp nhân phải tuân
theo quy định pháp luật của nhà nước nào.
3.2.

Hạn chế và kiến nghị hướng hoàn thiện:

Mặc dù có những ưu điểm nhất định trong việc tạo lập cơ sở pháp lý
vững chắc giữa Việt Nam và pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam đó, nh ưng
các quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch của pháp nhân còn b ộc
lộ một số hạn chế nhất định:

Thứ nhất, quy định của Bộ luật dân sự về vấn đề quốc tịch của pháp
nhân hiện đang khá chồng chéo với quy định của Luật đầu tư, giữa các văn
bản chuyên ngành cũng quy định chồng chéo về vấn đề này . Thí dụ: Luật
Đầu tư năm 2005 quy định: công ty có vốn đầu tư n ước ngoài thành l ập ở
Việt Nam theo pháp luật Việt Nam được coi là pháp nhân Việt Nam. Nếu là
pháp nhân Việt Nam thì có nên phân biệt đối xử v ới h ọ trong quy đ ịnh v ề
sử dụng đất hay gốp vốn đầu tư thành lập công ty khác hay không. Đây là
vấn đề không những Bộ luật dân sự, mà cả luật đất đai, lu ật đ ầu t ư, lu ật
doanh nghiệp cũng lúng túng, chồng chéo lẫn nhau. Vì v ậy, chúng ta nên
quy định các pháp nhân Việt Nam, cho dù là nhà đ ầu tư n ước ngoài, cũng
cần được đối xử nhất quán như nhà đầu tư Việt Nam.
Thứ hai, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 không quy định tr ực ti ếp
nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân. Song, khi xem xét v ấn đề
năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài Khoản 1 Điều 765 của B ộ
6


luật dân sự năm 2005 quy định phải căn cứ vào pháp luật của n ơi pháp
nhân đó thành lập. Có thể nói Bộ luật dân sự Việt Nam một cách gián ti ếp
thừa nhận nguyên tắc quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào n ơi thành l ập
pháp nhân. Tuy nhiên, quy định như vậy là chưa thực sự rõ ràng về vấn đề
xác định quốc tịch của pháp nhân. Hơn nữa các quy định tr ực ti ếp, cụ th ể
về quốc tịch của pháp nhân mới chỉ xuất hiện trong các văn bản pháp lu ật
chuyên ngành liên quan đến các pháp nhân là các tổ ch ức kinh t ế ch ứ ch ưa
quy định về pháp nhân nói chung. Vì vậy, theo nhóm em nên có quy đ ịnh
trực tiếp về vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân nói chung: pháp nhân
được thành lập theo pháp luật Việt Nam và đăng kí đi ều lệ ở Việt Nam thì
đương nhiên pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam không phụ thuộc vào
việc nó được hoạt động ở đâu, lãnh thổ nào và nên quy đ ịnh rõ ràng, tr ực
tiếp ở một văn bản cụ thể như Bộ luật dân sự chẳng hạn, hạn chế trường

hợp quy định một cách gián tiếp về quốc tịch của pháp nhân nh ư Bộ luật
dân sự Việt Nam hiện nay để có thể tạo cơ sở pháp lý vững ch ắc cho việc
xác định quốc tịch của các pháp nhân tại Việt Nam (không chỉ là các t ổ ch ức
kinh tế, mặc dù chủ thể chủ yếu của Tư pháp quốc tế là các tổ ch ức kinh
tế được thành lập hợp pháp). Việc quy định trực tiếp và cụ th ể cũng hạn
chế được những trường hợp hiểu sai hay suy diễn các quy đ ịnh c ủa pháp
luật, đồng thời cũng tạo cách hiểu thống nhất, tránh gây tranh cãi cũng
như có sự áp dụng thống nhất pháp luật, tạo điều kiện đ ể các pháp nhân
nước ngoài yên tâm hoạt động tại Việt Nam.
Thứ ba, do quy định của pháp luật các nước về nguyên tắc xác định quốc
tịch pháp nhân không giống nhau nên trong thực tiễn không tránh kh ỏi
trường hợp một pháp nhân được hai hay nhiều nước đồng thời coi là pháp
nhân mang quốc tịch của nước mình 7. Chẳng hạn các công ty đa quốc gia
như BMW, honda, Sony,… hoạt động trên nhiều lãnh th ổ của các qu ốc gia
khác nhau thì sẽ được coi là mang quốc tịch của quốc gia nào? sony là m ột
tập đoàn kinh tế đa quốc gia được thành lập tại Nhật Bản và có tr ụ s ở
chính đặt tại Nhật Bản, có phạm vi hoạt động trên toàn th ế gi ới, thành l ập
rất nhiều các công ty con trên lãnh thổ các quốc gia khác thì các công ty con
đó sẽ mang quốc tịch của quốc gia nào khi mà cách xác định qu ốc t ịch c ủa
các quốc gia là khác nhau? Công ty mẹ và công ty con là nh ững pháp nhân
độc lập, có quan hệ chủ đạo là quan hệ về tài chính, theo quy đ ịnh c ủa
pháp luật Việt Nam thì công ty con sẽ mang quốc tịch Vi ệt Nam, tuy nhiên
có những công ty không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối v ới Vi ệt Nam, v ấn
đề này sẽ giải quyết như thế nào? hay các công ty được thành lập, đăng kí
kinh doanh trên lãnh thổ nước Việt Nam nhưng lại đặt trụ sở chính tại
Pháp chẳng hạn thì sẽ mang quốc tịch của quốc gia nào? Đ ể gi ải quy ết
những vấn đề này, các quốc gia đã kí kết với nhau các hiệp định về tránh
đánh thuế trùng: Việt Nam đã tham gia kí kết Hiệp định tránh đánh thuế
7 Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội – 2010, tr.100


7


hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thu nhập với hơn 40 nước
trên thế giới, mục đích ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại
bỏ việc đánh thuế trùng bằng cách: miễn, giảm số thuế phải nộp tại Việt nam cho
các đối tượng cư trú của nước ký kết hiệp định; hoặc khấu trừ số thuế mà đối
tượng cư trú Việt nam đã nộp tại nước ký kết hiệp định vào số thuế phải nộp tại
Việt Nam. Ngoài ra, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và
hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước kết
trong công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với
các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản. Tuy nhiên dường như giải pháp
này vẫn chỉ mang tính tình thế khi mà mới giải quy ết đ ược một trong số
những vấn đề quan trọng liên quan đến quốc tịch của pháp nhân: đó là v ấn
đề thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với quốc gia mà pháp nhân mang quốc
tịch. Hay có ý kiến cho rằng các pháp nhân sẽ hạn chế trường hợp đ ể mang
quốc tịch của 2 hay nhiều quốc gia khác nhau để h ạn chế việc th ực hiện
nghĩa vụ nộp thuế cho nhiều quốc gia những dường nh ư ý kiến này v ẫn
chưa thực sự thỏa đáng. Để giải quyết hiện tượng này Việt Nam và các
nước phải kí kết với nhau các điều ước quốc tế đa ph ương hoặc ít nh ất là
song phương nhằm thống nhất nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân
cũng như thừa nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức được thành l ập và
hoạt động theo pháp luật của các nước hữu quan. Nhằm bảo đ ảm tính
thống nhất về lợi ích cho các pháp nhân, mặt khác tạo điều ki ện thu ận l ợi
trong quản lý hoạt động của pháp nhân của các cơ quan nhà nước có th ẩm
quyền mà đặc biệt là về vấn đề thuế doanh nghiệp.
Thứ ba, tại khoản 1 Điều 16 Luật thương mại 2005 quy định“Thương
nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”.
Theo như quy định này, trong trường hợp pháp nhân là thương nhân nước ngoài

vừa được pháp luật nước này công nhận và cũng vừa đăng ký kinh doanh theo
pháp luật nước thứ ba thì quốc tịch của pháp nhân đó sẽ được xác định như thế
nào. Điều này, Luật còn chưa quy định. Vì vậy nên có các quy định cụ thê về
vấn đề này đê có thê xác định đúng đắn quốc tịch của pháp nhân.
Thứ tư, theo khoản 4 Điều 16 Luật thương mại 2005: “Doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài được thương nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam
theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì được coi là thương nhân Việt Nam”.
Và khoản 1 Điều 16 Luật thương mại 2005 quy định“Thương nhân nước ngoài
là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”. Trong khi Luật đầu tư
sử dụng thuật ngữ “nhà đầu tư nước ngoài”. Như vậy là có những tên gọi khác
nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đê chỉ một đối tượng giống
nhau và cùng là chủ thê tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Như vậy,
các quy định về pháp nhân nước ngoài nói trên cần có sự thống nhất về thuật
ngữ, tránh gây nhầm lẫn, tranh cãi về vấn đề này, tạo điều kiện đê các pháp nhân
nước ngoài yên tâm hoạt động tại Việt Nam.
8


Kết luận
Vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân có ý nghĩa đ ặc biệt quan
trọng trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, th ương m ại, khoa h ọc kĩ
thuật và văn hóa, pháp nhân nước này mở rộng phạm vi hoạt đ ộng s ản
xuất kinh doanh sang lãnh thổ nước khác ngày càng nhiều. B ởi v ậy, nh ững
quy định về vấn đề quốc tịch của pháp nhân cần được thể hiện một cách
rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Việt Nam cần tạo ra một hành
lang pháp lý vững chắc, hiệu quả để thu hút các pháp nhân n ước ngoài t ới
hoạt động nhằm tận dụng tối đa nguồn lực trong và ngoài n ước, t ừ đó thúc
đẩy đất nước phát triển.


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005
2. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2009).
3. Luật thương mại năm 2005.
4. Luật đầu tư năm 2005.
5. Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
6. Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội – 2010.
7. TS. GVC. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học và ôn tập môn tư pháp
quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nôi – 2012.
8. Các trang web:

9


10



×