TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA LUẬT KINH TẾ
……
ĐỀ TÀI
ĐỌC VÀ BÌNH LUẬN HIỆP ĐỊNH TRIPS VỚI NHỮNG QUY ĐỊNH CÓ
LIÊN QUAN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
NHÓM HỌC VIÊN:
(1) CAO THỊ TRANG
(2) ĐỖ ANH THƯ
(3) ĐỖ HOÀNG TRUNG
(4) TRƯƠNG CAO THUẬN
GVHD: TS LÊ VĂN HƯNG
HCM – 2015
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1. Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới: Vòng đàm phán Uruguay
(1986 – 1994) quyết định hầu kết các Hiệp định liên quan trong khuôn khổ WTO
được ký kết chính thức tại Hội nghị Bộ trưởng Marrakesh ngày 15 tháng 4 năm
1994 (Tuyên bố Marrakesh - 1994). Văn kiện cuối cùng là kết quả đàm phán về
Thương mại đa biên - Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Nội dung và bố cục Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới như sau:
- Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới;
- Phụ lục 1
Phụ lục 1A: Các Hiệp định Đa biên về thương mại hàng hóa
(1) Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994;
(2) Hiệp định Nông nghiệp;
(3) Hiệp định về Áp dụng các Biện pháp Kiểm dịch Động thực vật;
(4) Hiệp định về Hàng dệt may (Lưu ý: Hiệp định này đã hết hiệu lực từ
01/01/2005);
(5) Hiệp định về các Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại;
(6) Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs);
(7) Hiệp định về Chống bán phá giá (Điều VI của GATT 1994);
(8) Hiệp định về Xác định Trị giá tính thuế hải quan (Điều VII của GATT 1994);
(9) Hiệp định về Giám định hàng hóa trước khi gửi hàng (PSI);
(10) Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ;
(11) Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu;
(12) Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng;
(13) Hiệp định về các Biện pháp tự vệ.
Phụ lục 1B:
(14) Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
Phụ lục 1C:
(15) Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Phụ lục 2:
(16) Hiệp định về Quy tắc và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp trong khuôn
khổ WTO (DSU)
Phụ lục 3:
(17) Hiệp định về Quy tắc và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp trong khuôn
khổ WTO (DSU)
Phụ lục 4: Các Hiệp định thương mại nhiều bên
Phụ lục 4(A):
(18) Hiệp định về Thương mại Máy bay Dân dụng
Phụ lục 4(B):
(19) Hiệp định về Mua sắm Chính phủ
Phụ lục 4(C):
(20) Hiệp định quốc tế về sữa
Ghi chú: Hiệp định này đã chấm dứt năm 1997
2 WTO - Các nguyên tắc chung về vấn đề sở hữu trí tuệ
Theo quy định của TRIPS, việc ban hành và thực thi các biện pháp bảo hộ về quyền
sở hữu trí tuệ phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): Quốc gia thành viên phải dành cho các chủ thể
nước ngoài hưởng sự bảo hộ đối với các quyền sở hữu trí tuệ, trong phạm vi (i) cho
hưởng; (ii) duy trì; (iii) thực thi các quyền sở hữu trí tuệ không kém thuận lợi hơn
sự bảo hộ dành cho công dân nước mình.
Nguyên tắcđối xử tối huệ quốc (MFN): Quốc gia thành viên phải dành cho các
chủ thể nước ngoài sự bảo hộ đối với các quyền sở hữu trí tuệ như nhau.
PHẦN 2:HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC KHÍA CẠNH LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI CỦA QUYỀN
SỞ HỮU TRÍ TUỆ (TRIPS)
Trong khuôn khổ của WTO, tổng cộng gồm 20 hiệp định, trong đó có Hiệp định
quốc tế về sữa đã chấm dứt năm 1997, còn lại 19 hiệp định đang tồn tại và có hiệu
lực. Đề tài tập trung nghiên cứu Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) quy định tại Phụ lục 1C của Hiệp định Thành
lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
1. TRIPS – Hiệp định riêng về Sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực riêng biệt, mang tính chuyên môn và không
phải lúc nào cũng gắn với thương mại. Trong quá trình bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
(cho hưởng, duy trì, thực thi quyền sở hữu trí tuệ) thường ảnh hưởng nhiều đến
việc mua bán, sử dụng các sản phẩm trí tuệ do các lý do điển hình như sau:
(i) Mỗi quốc gia có một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ riêng sẽ gây phức
tạp và trở ngại cho hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế;
(ii) Quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu quyền hay người giữ quyền hợp phápkhông
được bảo hộ hoặc bảo hộ không đầy đủ khi một quốc gia không bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ dẫn đến việc khuyến khích hàng giả, hàng nhái trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ;
(iii) Chủ sở hữu quyền hay người giữ quyền hợp phápđối với quyền sở hữu trí tuệlo
ngại do quyền sở hữu trí tuệ của mình sẽ bị gây thiệt hại khi đầu tư, kinh doanhdẫn
đến tâm lý lo lắng khi nghiên cứu, đưa sản phẩm vào thị trường hoặc đầu tư sản
xuất.
Mục tiêu của TRIPS: được thiết lập nhằm tạo ra quy định thống nhất, tương
đối trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại tất cả các quốc gia thành viên
như sau:
- Thiết lập bộ nguyên tắc khung, những tiêu chuẩn tối thiểu để bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ cho chủ sở hữu quyền hay người giữ quyền hợp
pháp;
- Đưa ra các biện pháp thực thi quyền quyền sở hữu trí tuệ;
- Quy định lộ trình và các tiêu chuẩn tối thiểu trong bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với mỗi quốc gia khi đăng ký gia nhập thành viên.
2. TRIPS–Nhóm nguyên tắc bắt buộc tuân thủ
Hiệp định TRIPS quy định năm nhóm nguyên tắc bắt buộc tuân thủ đối với các
nước thành viên theo lộ trình đã cam kết như sau:
- Nhóm các nguyên tắc cơ bản và nghĩa vụ chung;
- Nhóm các tiêu chuẩn về mức độ bảo hộ tối thiểu phải tuân thủ liên quan đến:
+ Đối tượng được bảo hộ;
+ Các quyền được hưởng;
+ Các ngoại lệ được phép đối với các quyền nói trên;
+ Thời hạn bảo hộ.
- Nhóm quy định về thực tiễn chống cạnh tranh liên quan đến các hợp đồng li-
xăng;
- Thủ tục và biện pháp khắc phục nội địa nhằm thực thi việc bảo hộ các quyền sở
hữu trí tuệ;
- Thỏa thuận về lộ trình thực hiện các nguyên tắc của Hiệp định đối với từng
nước.
3. TRIPS - Nhóm đối tượng của các quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ (intellectual property – thực chất là các “tài sản trí tuệ”) là từ
được sử dụng để chỉ các quyền đối với các sản phẩm trí tuệ.
Bảng 2.2: Tóm tắt về các hình thức bảo hộ, đối tượng bảo hộ, lĩnh vực áp dụng chủ yếu:
Nhóm quyền
sở hữu trí tuệ
Loại quyền
sở hữu trí tuệ
Đối tượng bảo hộ Lĩnh vực
áp dụng chủ yếu
1 Quyền sở hữu công
nghiệp (Industrial
Properties)
Bằng phát minh
sáng chế (li-xăng)
(Patent)
Các sáng chế mới, có
tính sáng tạo và có khả
năng ứng dụng công
nghiệp
Các ngành sản xuất
Bằng sáng chế hữu
dụng (Utility model)
Sáng chế hữu dụng (quy
mô nhỏ)
Các ngành sản xuất
Kiểu dáng công
nghiệp (Industrial
design)
Kiểu dáng mang tính
trang trí sử dụng cho
sản phẩm công nghiệp
Các ngành quần áo, ô
tô, mô tô, sản phẩm
điện tử
Nhãn hiệu hàng hóa
(Trademark)
Dấu hiệu hoặc biểu
tượng để phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ
của doanh nghiệp này
với hàng hóa/dịch vụ
của doanh nghiệp khác
Tất cả các ngành
Chỉ dẫn địa lý
(Geographical
indication)
Xác định địa phương
xuất xứ của hàng hóa
mà chất lượng hoặc các
đặc tính khác của hàng
hóa gắn liền với địa
phương đó
Các ngành công
nghiệp thực phẩm và
nông sản (đặc biệt
ngành sản xuất rượu
vang và các đồ uống
có cồn)
2 Quyền sở hữu trí tuệ đối
với các tác phẩm văn học,
nghệ thuật
(Literary and artistic
property)
Quyền tác giả và các
quyền liên quan
(copyrights and
neighbouring rights)
Công trình sáng tạo của
tác giả và các đống góp
liên quan của người
biểu diễn, nhà sản xuất
ghi âm, tổ chức phát
hành
Các lĩnh vực in ấn, giải
trí (hình, video, phim
ảnh), phần mềm, phát
thanh truyền hình
Quyền đối với giống
cây trồng, vật nuôi
(Breeder’s rights)
Các loại giống mới, ổn
định, thuần nhất và có
thể phân biệt được
Công nghiệp thực
phẩm và nông sản
Quyền đối với bố trí
mạch tích hợp
(Integrated circuits)
Sơ đồ thiết kế gốc Công nghiệp vi điện tử
3 Quyền đối với Bí mật kinh
doanh (Trade secrets)
Bí mật kinh doanh
(Trade secrets)
Thông tin về kinh doanh
mang tính bí mật
Tất cả các ngành
4. TRIPS – Quy định về bằng sáng chế
Bằng sáng chế là một trong những nội dung bảo hộ quan trọng hàng đầu của
TRIPS bởi quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế gắn liền với những lợi ích thương
mại lớn và có mặt trong hầu hết các ngành sản xuất hiện đại.
TRIPS quy định về những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu đối với bằng sáng chế như
sau:
4.1 Về đối tượng được bảo hộBằng sáng chế chỉ được cấp cho các sáng chế (sản phẩm
sáng tạo) đáp ứng các điều kiện sau:
(1) Phải có tính mới;
(2) Phải có tính sáng tạo;
(3) Phải có khả năng ứng dụng công nghiệp.
Những sáng chế này có thể liên quan đến sản phẩm, hoặc cũng có thể là các quy
trình (bao gồm cả quy trình sản xuất ra sản phẩm) trong tất cả các lĩnh vực sản
xuất trừ một số ít ngoại lệ.
Các trường hợp có thể bị từ chối cấp bằng sáng chế:
Để khuyến khích các nước sử dụng hệ thống bảo hộ riêng trong Công ước về bảo
vệgiống cây trồng UPOV, TRIPS cho phép các nước thành viên có thể không bảo hộ
dưới hình thức bằng sáng chế các đối tượng sau:
(1) Các phương pháp phẫu thuật, điều trị, chẩn đoán dùng trong điều trị cho người
và động vật;
(2) Các phát minh về cây trồng hoặc vật nuôi (ngoài các hình thái vi sinh);
(3) Các quy trình sinh học cần thiết để tạo cây trồng, vật nuôi trừ các quy trình phi
sinh học và vi sinh.
Những trường hợp trên có thể là hoặc không là đối tượng của bằng sáng chế tùy
theo quy định của mỗi quốc gia, không nhất thiết phải loại trừ ra khỏi phạm vi đối
tượng của bằng sáng chế. Ngoài ra, ngay cả khi một quốc gia quyết định không bảo
hộ những đối tượng trên theo chế độ bằng sáng chế thì vẫn có thể bảo hộ dưới một
hình thức mà quốc gia đó cho là thích hợp.
4.2 Về nội dung bảo hộ
- Chủ sở hữu bằng sáng chế được bảo hộ độc quyền đối với sáng chế của mình.
- Các nhà sản xuất muốn sử dụng các sáng chế đã được cấp bằng bảo hộ thì phải
được chủ sở hữu bằng đồng ý (thường thông qua hợp đồng li-xăng và phải trả một
khoản phí gọi là phí li-xăng cho chủ sở hữu).
“Việc sử dụng” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm:
(i) Đối với sáng chế là “sản phẩm”: việc sản xuất, tạo ra, bán hoặc nhập
khẩu sản phẩm đó;
(ii) Đối với sáng chế là “quy trình”: việc dùng quy trình, bán hoặc nhập khẩu
sản phẩm sản xuất ra từ quy trình đó.
Những hạn chế đối với độc quyền của chủ sở hữu bằng sáng chế:
(1) Những trường hợp có thể sử dụng bằng sáng chế mà không cần sự đồng ý của
chủ sở hữu:
(2) Các tình thế khẩn cấp quốc gia; các tình huống đặc biệt khẩn cấp (ví dụ sử
dụng thuốc chống lại dịch bệnh khẩn cấp…);
(3) Các trường hợp không sử dụng vào mục đích thương mại;
(4) Các trường hợp bắt buộc cho phép sử dụng sáng chế (việc cho phép này có thể
được cơ quan có thẩm quyền thực hiện nếu (i) chủ sở hữu bằng sáng chế cố ý
từ chối không cho phép sử dụng sáng chế bằng cách đặt ra những điều kiện bất
hợp lý và (ii) tuân thủ một số điều kiện mà TRIPS quy định).
Với những trường hợp này, chủ sở hữu phải được thông báo về việc sử dụng sáng
chế liên quan.
(ii) Công bố thông tin về sáng chế khi hết thời hạn bảo hộ
Việc bảo hộ sáng chế (thông qua bằng sáng chế) chỉ có thời hạn nhất định (tùy theo
quy định của từng nước). Hết thời hạn này, chủ sở hữu bằng sáng chế phải:
Công bố thông tin về sáng chế;
Tạo điều kiện để những người có khả năng kỹ thuật hiểu và sử dụng thông tin này
để nghiên cứu thêm hoặc ứng dụng công nghiệp.
Thời hạn bảo hộ tối thiểu
TRIPS quy định sáng chế đã đăng ký phải được bảo hộ trong thời gian tối thiểu là
20 năm kể từ ngày đăng ký. Thời hạn cụ thể do từng nước tự quy định.
5. TRIPS - Quy định về Quyền tác giả và các quyền liên quan
Đối tượng được bảo hộ
Đối tượng bảo hộ của quyền tác giả và các quyền liên quan bao gồm các tác phẩm
thuộc lĩnh vực:
- Văn học;
- Nghệ thuật;
- Khoa học (chương trình vi tính, cơ sở dữ liệu).
Song, không phải bất kỳ tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật nào cũng được
bảo hộ. Để được bảo hộ, tác phẩm phải là nguyên tác (ý tưởng trong tác phẩm
không nhất thiết phải là mới nhưng loại hình biểu hiện phải là nguyên bản sáng
tạo của tác giả).
Nội dung bảo hộ
(i) Đối với quyền tác giả
Người có quyền tác giả được bảo hộ có quyền không cho người khác sử dụng tác
phẩm của mình nếu không được mình cho phép. Sau đây là các trường hợp cho
phép sử dụng tác phẩm (thông qua việc chuyển giao quyền, thường là với một mức
phí nhất định trả cho người sở hữu quyền tác giả):
- Quyền xuất bản: sao chép và xuất bản tác phẩm;
- Quyền biểu diễn: biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
- Quyền ghi âm, ghi hình: ghi lại tiếng/hình ảnh bằng kỹ thuật chuyên môn;
- Quyền về hình ảnh phim: làm phim;
- Quyền phát sóng: phát sóng tác phẩm qua radio hoặc truyền hình;
- Quyền chuyển thể hoặc dịch thuật: dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác hoặc
chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình khác.
Chú ý là các nội dung của quyền tác giả không chỉ bao gồm các quyền về kinh
tế (quyền chuyển giao được và có thể thu phí khi chuyển giao, còn gọi là quyền tài
sản) mà còn bao gồm các quyền về nhân thân. Vì vậy ngay cả khi đã chuyển giao
một số quyền kinh tế (ví dụ đã cho phép chuyển thể tác phẩm) nhưng tác giả vẫn có
thể đòi lại quyền sử dụng tác phẩm nếu không đồng ý với các hình thức bóp méo
hay làm tổn hại tới tiếng tăm của tác phẩm.
(ii) Các quyền liên quan đến quyền tác giả
Tác giả của các tác phẩm văn học, nghệ thuật thường không tự mình phổ biến tác
phẩm của mình đến công chúng mà thường phải thông qua những người trung
gian. Những người này sẽ sử dụng kỹ năng chuyên môn để thể hiện và chuyển tải
các tác phẩm này đến công chúng (ví dụ ca sỹ trình bày bài hát, nhạc công trình
bày một tác phẩm âm nhạc…).
Và những trường hợp này cũng được bảo hộ quyền, gọi là quyền liên quan đến
quyền tác giả, bao gồm:
- Quyền của người biểu diễn (với việc biểu diễn của họ);
- Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm (với tác phẩm ghi âm của họ);
- Quyền của tổ chức phát sóng (với các chương trình truyền hình hoặc radio).
Thời hạn bảo hộ tối thiểu
TRIPS quy định các thời hạn bảo hộ tối thiểu đối với quyền tác giả và các quyền liên
quan theo Bảng sau đây (thời hạn cụ thể do nước thành viên tự quy định)
Bảng 2.5 Thời hạn bảo hộ tối thiểu đối với quyền tác giả và quyền liên quan
Đối tượng bảo hộ Thời gian bảo hộ tối thiểu (năm)
1 Quyền tác giả Đời tác giả + 50 năm
2 Tác phẩm điện ảnh 50 năm sau khi tác phẩm đó được công bố trước
công chúng (trường hợp không được công bố thì
tính từ thời điểm tác phẩm đó hoàn thành)
3 Tác phẩm nhiếp ảnh
(hoặc nghệ thuật ứng
dụng)
25 năm sau khi tác phẩm hoàn thành
4 Người biểu diễn hoặc sản
xuất bản ghi âm
50 năm kể từ cuối năm đĩa hát hoặc chương
trình đó được thực hiện
5 Phát thanh truyền hình 20 năm kể từ ngày kết thúc năm dương lịch diễn
ra chương trình phát thanh/truyền hình đó
6. TRIPS – Quy định về thương hiệu
’Thương hiệu” là một hoặc tập hợp các ký hiệu để phân biệt hàng hóa/dịch vụ của
một doanh nghiệp này với hàng hóa/dịch vụ của doanh nghiệp khác. Các ký hiệu
này có thể là chữ, ký tự, đường nét, màu sắc.
Trên thực tế, các thương hiệu được sử dụng rộng rãi và không buộc phải đăng ký.
Tuy nhiên, được bảo hộ theo pháp luật thì thương hiệu phải được đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
6.1 Điều kiện để được bảo hộ
- Thương hiệu phải đảm bảo yêu cầu “có thể phân biệt được” (để đảm bảo mục
tiêu phân biệt hàng hóa/dịch vụ mang thương hiệu này với hàng hóa/dịch vụ
cùng tính chất nhưng mang thương hiệu;
- Người đăng ký phải nêu rõ đặc điểm của hàng hóa/dịch vụ mang thương hiệu;
6.2. Nội dung bảo hộ
- Người có thương hiệu được bảo hộ có quyền cấm người khác sử dụng những ký
hiệu giống hệt hoặc tương tự với thương hiệu đã đăng ký nếu ký hiệu đó có thể
gây nên nhầm lẫn.
Các quốc gia:
- Không được buộc chủ sở hữu thương hiệu phải cho phép sử dụng thương hiệu
trong bất kỳ trường hợp nào (trong khi với Bằng sáng chế thì lại có thể áp
dụng quy tắc này trong một số trường hợp và với các điều kiện nhất định);
- Phải cho phép chủ sở hữu một thương hiệu của sản nghiệp thương mại được
bán sản nghiệp thương mại mà không kèm theo thương hiệu của sản nghiệp
đó.
6.3. Thời hạn bảo hộ Thương hiệu tối thiểu là 7 năm khi đăng ký lần đầu/đăng ký lại
(không giới hạn số lần đăng ký lại).
Chú ý: TRIPS quy định việc bảo hộ thương hiệu sẽ chấm dứt nếu thương hiệu đó
không được sử dụng trong khoảng thời gian liên tục ít nhất 3 năm. Thời
hạn cụ thể sẽ do các quốc gia quy định.
7. TRIPS - Quy định về kiểu dáng công nghiệp
”Kiểu dáng công nghiệp” được hiểu là tập hợp tất cả những đặc điểm bên ngoài
của sản phẩm như hình dáng, đường nét, kiểu dáng, màu sắc.
Trên thực tế không phải nước nào cũng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Hoặc nếu có
bảo hộ cũng thường chỉ chủ yếu bảo hộ kiểu dáng công nghiệp của một số nhóm
sản phẩm (ví dụ sản phẩm dệt, da và các sản phẩm da, xe ô tô…).
7.1 Đối tượng bảo hộ
Các nước thành viên WTO phải bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp đáp ứng điều
kiện: Có tính mới; hoặc là nguyên bản
7.2 Nội dung bảo hộ
Người sở hữu một kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký bảo hộ được độc quyền sử
dụng kiểu dáng công nghiệp đó và có quyền không cho phép những tổ chức, cá
nhân khác được sản xuất, bán hoặc nhập khẩu những sản phẩm theo kiểu dáng
hoặc là bản sao (hoặc gần như bản sao) của kiểu dáng đó mà không được sự đồng
ý của mình.
7.3 Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký ít nhất 10 năm.
7.4 TRIPS - Quy định về chỉ dẫn địa lý
”Chỉ dẫn địa lý” là thông tin nhằm thông báo với người mua hàng rằng hàng hóa
đó có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính khác “về cơ bản gắn với xuất xứ địa lý” của
nó.
TRIPS chỉ quy định các quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp pháp lý
(quy định và thực thi quy định) nhằm ngăn ngừa việc dùng các cách thức khác
nhau để ám chỉ hoặc thể hiện rằng sản phẩm có xuất xứ từ một địa phương không
đúng với xuất xứ thực tế của nó và gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa lý
của hàng hóa đó.
TRIPS không đưa ra các nguyên tắc bắt buộc về đối tượng cũng như cách thức bảo
hộ tối thiểu đối với chỉ dẫn địa lý. Vậy các nước thành viên tùy ý ban hành quy định
về bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý miễn là đảm bảo hiệu quả bảo hộ như nói ở đoạn
trên.
Trên thực tế, việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý chủ yếu tập trung vào các sản phẩm
rượu, một số loại thực phẩm hoặc sản phẩm nông nghiệp.
TRIPS quy định nguyên tắc tối thiểu nào đảm bảo thi hành quyền sở hữu trí tuệ?
Khác với các Công ước về quyền sở hữu trí tuệ của WIPO, TRIPS dành một phần
trọng tâm quan trọng vào việc quy định những nguyên tắc thực thi bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ mà tất cả các nước thành viên WTO phải tuân thủ.
Cụ thể, TRIPS buộc các quốc gia thành viên phải có cơ chế đảm bảo:
Giúp các chủ sở hữu quyến sở hữu trí tuệ được yêu cầu đền bù theo thủ tục dân sự
(thông qua các nguyên tắc liên quan đến tòa án và thủ tục tố tụng trong các vụ việc
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ);
Khởi tố những người vi phạm quyền tác giả hoặc thương hiệu theo thủ tục tố tụng
hình sự (tức là buộc các nước phải quy định tội hình sự đối với trường hợp vi phạm
quyền tác giả hoặc thương hiệu);
Đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới (thông qua quy định buộc các
nước phải có thủ tục để các chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu cơ quan
Hải quan không cho hàng hóa thông qua nếu có lý do nghi ngờ hàng hóa đó giả
mạo thương hiệu hoặc quyền tác giả của mình).
PHẦN 3: BÌNH LUẬN TRIPS VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM LIÊN QUAN
3.1 Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ
Việt Nam tham gia Công ước Paris về bảo vệ sở hữu công nghiệp (1949) và Thỏa
ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu quốc tế (tháng 03 năm 1949). Đây là sự kiện
pháp lý đối với hệ thống pháp luật Việt Nam. Khi quyền sở hữu trí tuệ được xem
như thuộc hai hệ thống quốc gia riêng biệt. Một là hệ thống pháp luật quốc gia. Hai
là hệ thống văn hóa quốc gia. Không có quy định pháp luật rõ ràng về quyền sở hữu
trí tuệ là quyền cá nhân và việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn lệ thuộc vào hệ
thống pháp luật quốc gia. Dẫn đến việc sao chép và sử dụng không phép các công
trình sở hữu trí tuệ là Sthường xuyên và thiếu sự kiểm soát nhà nước.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất thiết Việt Nam phải tham gia với tư cách là
thành viên WTO. Khi đăng ký là thành viên của WTO (2000), điều kiện bắt buộc đối
với Việt Nam là phải tuân thủ các quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Theo quy định
của Hiệp định TRIPS, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia (thứ hai) chuyển đổi từ nền
kinh tế hoạch định sang nền kinh tế thị trường, với nghĩa vụ tuân thủ ở mức thấp
nhất đối với tất cả các khía cạnh bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khi Việt Nam đăng ký
là thành viên WTO, đây là sự kiện pháp lý đặc biệt, mang tính lịch sử, trọng đại đặt
ra yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam là, nhất thiết phải kiện toàn hệ thống pháp
luật về quyền sở hữu trí tuệ, nhằm đảm bảo quyền thực thi đối với quyền sở hữu trí
tuệ cho các quốc gia thành viên khi tham gia Hiệp định TRIPS.
Căn cứ điều kiện Thỏa ước thương mại song phương giữa chính phủ Việt Nam và
Hoa Kỳ, Hiệp định TRIPS, Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự (1999), bổ sung
nhiều hành vi phạm tội đối với việc sao chép, sử dụng không phép quyền sở hữu trí
tuệ. Đối với vấn đề sở hữu trí tuệ, hầu hết các quy định của Hiệp định TRIPS đã
được thể chế hóa trong pháp luật liên quan.
Như vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO, Hiệp định TRIPS và tham gia các công ước về
quyền sở hữu công nghiệp, đã làm phát sinh một bộ phận mới trong hệ thống pháp
luật quốc gia, đó là luật sở hữu trí tuệ.
3.2 Hệ thống luật pháp Việt Nam và quyền sở hữu trí tuệ
3.2.1 Quy định về quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn trước giải phóng (1975)
Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Hiến pháp 1946 nhìn
nhận quyền sở hữu trí tuệ.
Vấn đề bản quyền và quyền liên quan được quy định tại Điều 10, Hiến pháp 1946,
quy định công dân Việt Nam có quyền hưởng (i) Tự do ngôn luận; (ii) Tự do báo
chí. Quyền này được tái khẳng định tại Điều 25, Hiến pháp 1959 và Điều 67, Hiến
pháp 1980. Tuy nhiên, khái niệm đối với việc bảo vệ công trình sở hữu công nghiệp
vẫn chưa được hiến định.
Công trình sở hữu trí tuệ đã được quy định tại Điều 60, Hiến pháp 1992
3.2.2 Quy định về quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn trước khi gia nhập WTO (2000)
Bộ luật Dân sự năm 1995 (Phần thứ 6); Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của
Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp; Thông tư số 3055/TT-SHCN
ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành
các quy nđịnh về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác
trong Nghị định số 63/CP; Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự; Thông
tư số 23-TC/TCT ngày 9/5/1997 của Bộ Tài chính về phí và lệ phí sở hữu công
nghiệp; và Thông tư số 166/1998/TT-TC ngày 19/12/1998 của Bộ Tài chính về phí
và lệ phí đăng ký quyền tác giả
3.2.3 Quy định về quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn sau khi gia nhập WTO (2000)
Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm
1995 – sau đây gọi là Bộ luật Dân sự năm 2005) đã có hiệu lực từ ngày
1/1/2006. Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 – sau đây
gọi là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Hai văn bản
này đã tạo thành một hệ thống các quy định hoàn chỉnh và thống nhất về quyền sở
hữu trí tuệ thay thế cho các quy định truớc đây. Hệ thống mới này, xét ở phạm vi
rộng, đều dựa trên cơ sở những quy định trước đây. Trong trường hợp có sự xung đột
giữa Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ
luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sẽ được áp dụng (Điều 5.2 của
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005). Nhiều Quyết định và Nghị định về quyền tác giả, sở
hữu công nghiệp, giống cây trồng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ huớng dẫn thi
hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được ban hành trong tháng 9/2006: Nghị
định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về sở hữu công nghiệp; Nghị định số
104/2006/NĐ- CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về quyền đối với giống cây trồng; Nghị
định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và
quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Quyết định số
69/2006/QĐ-BNN ngày 13/9/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về
bảo mật dữ liệu thử nghiệm của các sản phẩm hóa nông; và Quyết định số
30/2006/QĐ-BYT ngày 30/9/2006 của Bộ Y tế về việc ban hành Quy chế bảo mật dữ
liệu đối với hồ sơ đăng ký thuốc. Ngoài ra, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Khoa học và
Công nghệ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các thông tư
hướng dẫn thi hành các thủ tục về đăng ký quyền tác giả và quyền liên quan, quyền
sở hữu công nghiệp, và quyền đối với giống cây trồng; đại diện sở hữu công
nghiệp; và việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp.
3.3.3 Các cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng và thi hành chính sách
3. 3 Bình luận trips và quy định pháp luật Việt Nam liên quan
Nhìn chung, các quy định của pháp luật Việt Nam khá đầy đủ và phù hợp với
tinh thần chung của Hiệp định TRIPS, bao gồm:
Thứ nhất, các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ, bao gồm cả thủ tục xác lập và
duy trì quyền SHTT, Pháp luật Việt Nam đã đặt ra thời hạn bảo hộ phù hợp với
quy định của Hiệp định TRIPS, bao gồm: Bản quyền và các quyền liên quan (phim:
50 năm, ảnh: 25 năm, các loại khác: 50 năm hoặc suốt đời tác giả cộng thêm 50 năm,
những người trình diễn và sản xuất đĩa ca nhạc: 50 năm – Điều 14.5 TRIPS, phát
thanh: 20 năm kể từ năm cuối năm phát thanh - Điều 14.5 TRIPS). Nhãn hiệu, bao
gồm cả nhãn hiệu dịch vụ (7 năm cho mỗi lần đăng ký hoặc đăng ký lại – Điều 18
TRIPS). Chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa (không cho phép đăng
ký những nhãn hiệu thương mại gây hiểu nhầm về nguồn gốc địa lý của hàng hóa –
Điều 22 và 23 TRIPS). Kiểu dánh công nghiệp (ít nhất là 10 năm – Điều 26.3 TRIPS).
Sáng chế (20 năm từ ngày nộp đơn xin cấp bằng – Điều 33 TRIPS). Bảo vệ giống cây
trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp (10 năm kể từ ngày đăng ký hoặc sử dụng – Điều
38.2 và 38.3 TRIPS). Các yêu cầu đối với thông tin mật, bao gồm bí mật thương mại
và dữ liệu thử nghiệm được bảo hộ chống lại việc tiết lộ không được phép và việc sử
dụng không công bằng vì mục đích thương mại – Điều 39 TRIPS.
Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Luật SHTT, việc đòi hỏi phải đáp ứng các
yêu cầu của TRIPS đặt ra hai mối lo ngại: (i) bảo hộ quyền SHTT trước tiên mang lại
lợi ích cho các nước phát triển, còn các nước nghèo chậm phát triển thì ít nhiều bị
thiệt hại, (ii) nhiều tiêu chuẩn đặt ra trong Hiệp định quá cao, có phần khắt khe so với
khả năng của các nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam. Để xóa bỏ những mối
lo ngại đó, Luật SHTT đã đề ra các nguyên tắc có tính tự vệ nhằm bảo vệ quốc phòng,
an ninh, phòng bệnh chữa bệnh, đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội và hoạt động
mang tính phi thương mại vì mục đích cộng đòng như: hạn chế và chống lạm dụng
quyền SHTT (Điều 7), quyền nhân danh Nhà nước sử dụng sáng chế (Điều 133), điều
kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế (Điều 136)… Những quy
định này là cần thiết để bảo vệ lợi ích quốc gia trước sức ép của các cường quốc trong
quá trình hội nhập nhưng chưa hoàn toàn tương thích với TRIPS.
Thứ hai, cơ chế thực thi bảo hộ quyền SHTT, gồm có: các thủ tục và chế tài
dân sự, các biện pháp tạm thời, các thủ tục và chế tài hành chính, các biện pháp kiểm
soát biên giới đặc biệt, các thủ tục hình sự.
Thứ ba, thực thi quyền SHTT theo thủ tục dân sự và chế tài áp dụng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTDS là nguyên tắc bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong tố tụng của tất cả công dân (Điều 8 BLTTDS). Điều này hoàn
toàn phù hợp và tuân theo quy định tại Điều 42 Hiệp định TRIPS. Theo đúng yêu cầu
của Hiệp định, pháp luật Việt Nam dành sự bình đẳng và công bằng cho cả hai bên
trong vụ tranh chấp, cả với nguyên đơn và bị đơn (Điều 79 BLTTDS). Hai bên được
phép có cố vấn pháp luật độc lập (khoản 2 Điều 58 BLTTDS), bên bị đơn được thông
báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi tiết về lý do bị kiến cũng như các yêu cầu
cần thiết để trả lời cho phía nguyên đơn (Điều 174 BLTTDS).
Nếu như Hiệp định TRIPS đảm bảo tối đa quyền tự bảo vệ cho đương sự hoặc
ủy quyền cho người khác thì Luật Việt Nam cũng có những điều khoản cụ thể về vấn
đề này khi ghi nhận các nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS. Tiếp thu tinh thần của
Hiệp định TRIPS, Luật SHTT và các văn bản pháp luật liên quan chú trọng đến việc
xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT theo thủ tục dân sự. Việc khởi kiện dân sự nhằm
mục đích yêu cầu, người thưc hiện hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm
của mình và bồi thường thiệt hại đã gây ra. Người có quyền khởi kiện có thể là chủ sở
hữu hoặc người được chuyển giao hay được thừa kế.
Về chứng cứ: Các quy định về chứng cứ của BLTTDS nhìn chung là phù hợp
với quy định của Hiệp định TRIPS, đó là đưa ra yêu cầu khởi kiện trước nguyên đơn
hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải cung chấp chứng cứ về quyền sở hữu của
mình cũng như chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền (Điều 203 Luật SHTT). Tuy
nhiên, trong trường hợp cần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn trong việc bảo vệ
các bí mật thương mại, bảo mật thông tin chưa được chú trọng trong BLTTDS. Các
yếu tố chứng cứ cần phải xác định và làm rõ tính trung thực, Luật SHTT sửa đổi có
quy định về giám định chủ sở hữu quyền SHTT nhưng chưa cụ thể và minh bạch.
Các biện pháp chế tài áp dụng: các biện pháp dân sự mà Tòa án có thể áp dụng
để xử lý các tổ chức cá nhân có hành vi xâm phạm gồm: buộc chấm dứt hành vi xâm
phạm, buộc xin lỗi, buộc cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự… (Điều
202 Luật SHTT). Có thể nhận thấy, các quy định của pháp luật Việt Nam đã tương
thích với Hiệp định TRIPS về cơ bản đáp ứng yêu cầu của Hiệp định.
Vấn đề bồi thường thiệt hại: Hiệp định TRIPS quy định người xâm phạm phải
chịu các phí tổn do vụ kiện bao gồm các chi phí tham gia cho vụ kiện cũng như các
chi phí hợp lý để thuê người đại diên (Điều 45 Hiệp định TRIPS). Trong khi đó
BLTTDS quy định Tòa án quyết định án phí dựa trên tỷ lệ phần yêu cầu mà họ không
được Tòa án chấp nhận (Điều 131 BLTTDS) và các bên có quyền kháng cáo quyết
định sơ thẩm lên Tòa án cấp cao hơn (ĐIều 243 BLTTDS). Hiệp định TRIPS còn cho
phép cơ quan xét xử có quyền xử lý ngoài kênh thương mại những hàng hóa bị coi là
xâm phạm, các vật liệu và phương tiện phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa đó, kể cả
việc tiêu hủy, tịch thu mà không phải bồi thường dưới bất kỳ hình thức nào nhằm
giảm thiểu các hành vi tiếp diễn. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào về vấn đề
này.
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: các quy định của pháp luật Việt Nam
tương đối tương thích với quy định tại Điều 50 của Hiệp định TRIPS. Bao gồm các
biện pháp: thu giữ, kê biên hoặc niêm phong (Điều 207 Luật SHTT). Các biện pháp
tạm thời có thể bị đình chỉ nếu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng xét thấy không còn
cần thiết (Điều 209 Luật SHTT).
Thực thi theo thủ tục hành chính: Theo TRIPS, việc áp dụng các thủ tục hành
chính phải tuân theo pháp luật từng quốc gia và phải phù hợp với các quy định nêu tại
mục 2 của Hiệp định mà các biện pháp hành chính còn được quy định cụ thể trong
pháp luật có liên quan. Đặc biệt, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật SHTT đã
điều chỉnh chức nawg của cơ quan thực thi nhằm tránh thủ tục phiên fhaf và chồng
chéo và cơ quan điều phối đã được thành lập. Như vậy, các quy định của Pháp luật
VN về thực thi quyền SHTT theo thủ tục hành chính đã đáp ứng yêu cầu của TRIPS
Về hình sự: Luật SHTT quy định cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền
SHTT có yêu tố cầu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 171
BLHS “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”. Tuy nhiên so với Điều 61 Hiệp định
TRIPS thì các hành vi này hẹp hơn.
Kiểm soát biên giới: Luật SHTT đã giao cho hải quan thẩm quyền rất lớn vượt
qua khả năng của cơ quan này. Với trình độ về sở hữu rí tuệ hiện nay và hạn chế về
trang thiết bị, hải quan Việt Nam khó có khả năng thẩm định được các vi phạm về
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… trong khi đó Hiệp định TRIPS chỉ quy định về thủ
tục kiểm soát đối với hàng hóa nhập khẩu nghi ngờ vi phạm về bản quyền.
1. Kiến nghị
Ở một mức độ nào đó, Hiệp định TRIPS mang lại lợi ích nhiều hơn đối với các
nước phát triển, và các nước này luôn tìm cách khai thác mọi khía cạnh từ các quy
định có lợi cho họ. Là một nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Việt Nam càng cần phải cố gắng tận dụng các quy định mềm dẻo và những
ngoại lệ của Hiệp định TRIPS và khôn khéo “lách” các quy định để tối đa hóa lợi ích
từ bảo hộ quyền SHTT, tránh phải chịu những thiệt thòi không đáng có:
Khai thác quy định dành cho các nước đang phát triển cho phép sao chép tác phẩm
nước ngoài. Trong phụ lục Công ước Bern quy định cho phép các nước đang phát
triển sao chép, dịch tác phẩm nước ngoài trong một số trường hợp để đáp ứng nhu cầu
của công chúng mà không cần sự đồng ý của người có quyền. Thực tế đây là một quy
định có lơi cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và chúng ta cần phải
tận dụng ngoại lệ này ở mức nhiều nhất có thể. Ưu đãi này có giá trị trong vòng 10
năm kể từ lúc gia nhập Công ước Bern. Một điều đáng nói là kể từ khi tham gia Công
ước Bern vẫn không có đơn vị nào sử dụng quyền ưu tiên này.
Khai thác quy định “cấp phép bắt buộc” để giảm bớt sự độc quyền của chủ sở
hữ tài sản trí tuệ: Điều 31 Hiệp định TRIPS quy định chính phủ hoặc bên thứ ba được
phép của chính phủ có thể sử dụng các sáng chế trong tình huống khẩn cấp hoặc trong
những trường hợp sử dụng công cộng không mang tính thương mại với một số điều
kiện nhất định mà không cần phải có sự đồng ý của người nắm giữ quyền SHTT
Thực thi việc bảo hộ văn học nghệ thuật dân gian: Kho tàng di sản văn học dân
gian của Việt Nam được đánh giá là phong phú và có giá trị lớn và việc bảo tồn, phát
triển và khai thác kho tàng đó có ý nghĩa rất quan trọng. Bộ Luật Dân sự (năm 1995)
đã khẳng định rằng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian được Nhà nước bảo hộ theo
quy định riêng. Nhưng trong Luật SHTT 2005, điều 23 khoản 2 chỉ quy định "tổ chức,
cá nhân nào sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ
của loại hình tác phẩm đó và đảm bảo giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học,
nghệ thuật dân gian". Như vậy, tất cả mọi người, kể cả người nước ngoài, đều có thể
sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian của nước ta mà không phải chịu một
nghĩa vụ nào về kinh tế đối với các cộng đồng đã có công sáng tạo, bảo tồn và phát
triển các tác phẩm ấy. Trong khi đó, Công ước Bern không đặt ra vấn đề bảo hộ và cũng
không cấm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian khuyết danh sau 50 năm
kể từ khi các tác phẩm đó được công bố. Bởi vậy, trong bình diện quốc gia, các nước
có thể đặt ra quy định bảo hộ cho các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian của nước
mình. Song, với các quy định được đưa ra trong Luật SHTT 2005, vô hình chung Việt
Nam đã tạo điều kiện cho nước khác hưởng lợi trong khi làm tổn hại đến lợi ích kinh
tế của cộng đồng đã có công đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Điều
này có lẽ đã không xảy ra nếu các chuyên gia và nhà làm luật nước ta nghiên cứu kỹ
hơn về Công ước Bern. Chúng tôi kiến nghị trong thời gian tới, cần có sự sửa đổi và
bổ sung một số điều của Luật SHTT 2005 liên quan đến lĩnh vực này theo hướng phải
bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
Thực thi việc bảo hộ đảm bảo khả năng tiếp cận dược phẩm: Với các nước đang phát
triển không có đủ khả năng sản xuất trong nước và đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm,
vì gặp khó khăn khi thực thi hiệu quả các điều khoản liên quan đến cấp phép li-xăng
bắt buộc khi các điều khoản này yêu cầu việc chuyển giao quyền sử dụng phải phục
vụ chủ yếu cho thị trường nội địa. Quyết định Doha về miễn trừ đối với các thuốc
thiết yếu, tức là Quyết định về Thực thi Đoạn 6 Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS
và sức khỏe cộng đồng 8/2013 tạo cơ sở cho việc đưa nội dung của Miễn trừ vào Hiệp
định TRIPS, do đó tạo ra một cơ chế luật riêng (lex specialis) bền vững đối với vấn đề
tiếp cận các loại thuốc thiết yếu trong Hệ thống bảo hộ SHTT của TRIPS. Tuy nhiên,
sửa đổi này chỉ áp dụng với việc miễn trừ điều kiện sản xuất chủ yếu cho tiêu thụ nội
địa đối với các sản phẩm có bằng sáng chế được cấp phép li-xăng bắt buộc và sửa đổi
này được thực hiện với góc độ chính sách hẹp, tức là chỉ xem xét những quốc gia
thành viên có các thuốc được cấp bằng sáng chế để sử dụng nhưng lại thiếu năng lực
sản xuất.
Đáng chú ý là Hiệp định TRIPS không đưa ra quy tắc nào về việc hết quyền sáng chế
theo ranh giới địa lý và điều này có thể hữu ích để đưa hành vi nhập khẩu song song
vào sử dụng trong lĩnh vực dược phẩm.
Các nước phát triển nói chung có xu hướng coi trọng sáng tạo trong việc thực thi luật
chống độc quyền, đặc biệt là khi có liên quan đến bằng sáng chế và nhất là đối với
lĩnh vực dược phẩm, vì ở đó bảo hộ quyền SHTT là mấu chốt của sáng tạo. Đối với
các nước đang phát triển, lợi ích công cộng có thể được ưu tiên hơn quyền SHTT, căn
cứ vào những linh hoạt trong chế độ SHTT quốc tế. Điều đó chưa có nghĩa đã đủ để
đảm bảo cân bằng giữa SHTT và chính sách cạnh tranh tại các nước đang phát triển.
Một chính sách quốc gia quá chú trọng bảo hộ quyền SHTT có thể không đạt được
mức độ cạnh tranh mong muốn. Như chúng ta đã thấy, những nước không có đủ khả
năng sản xuất cho tiêu thụ nội địa nhưng chưa áp dụng được các cơ chế linh hoạt
trong Hiệp định TRIPS cần có sự áp dụng nghiêm ngặt hơn các quy tắc cạnh tranh
trong các trường hợp liên quan đến quyền SHTT.
Cơ quan cạnh tranh tại các nước đang phát triển nên được trao quyền cho phép cấp
phép li-xăng bắt buộc trên cơ sở thảo luận với cơ quan cấp bằng sáng chế, hơn là
chiều ngược lại. Khuyến nghị này phù hợp với chính sách bắt buộc thảo luận về giá
với thuốc được cấp bằng sáng chế trước khi thuốc được cho phép đưa ra thị trường.