Đề cơng lịch sử Đảng
Câu hỏi: Anh (chị) hãy phât tích sách l ợc ngoại giao của Đảng giai đoạn 45-
46. ý nghĩa của sách l ợc đó trong hoạt động ngoại giao của Đảng ta hiện nay.
Vừa mới ra đời, nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đã bị các nớc đế quốc và các thế
lực phản động quốc tế và trong nớc liên kết với nhau bao vây và chống phá quyết
liệt. Thực dân Pháp đã nổ súng ở Miền Nam, bát đầu cuộc xâm lợc nớc ta lần thứ
hai. Quân đội của đế quốc Anh dùng danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân
Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại
Đông Dơng. Khoảng 20 vạn quân Quốc dân đảng Trung Hoa ồ ạt kéo sang Miền
Bắc cũng mợn tiếng giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, song kỳ thật chúng
có mu đồ tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng
để lập lên moọt chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Trên đất nớc ta lúc
đó có 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một nửa lực lợng này đã thực hiện
lệnh của quân Anh cầm súng cùng với quân Anh dọn đờng cho quân Pháp mở
rộng chiếm đóng Miền Nam. Cha bao giờ trên đất nớc ta có nhiều quân đội nớc
ngoài chiếm đóng nh vậy.
Đảng ta do chỉ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã thực hiện chính sách đại đoàn kết
dân tộc, thêm bạn bớt thù, huy động mọi sức mạnh dân tộc, dùng sách lợc đấu
tranh linh hoạt và khôn khéo với định, từng bớc vợt qua mọi hiểm nguy chủ động
trớc mọi tình thế để giữ vững chính quyền, đa cách mạng tiến lên.
Về ngoại giao, kiên trì các nguyên tắc bình đẳng, tơng trợ, thêm bạn, bớt thù,
thực hiện khẩu hiệu Hoa-Việt thân thiện đối với quân Tởng Giới Thạch và chủ
trơng độc lập về chính trị, nhân nhợng về kinh tế đối với Pháp. Từ tháng
9/1945 3/1946, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lợc hoà hoãn, nhân
nhợng với quân Tởng và tay sai của chúng ở miền Bắc và kiên quyết đẩy mạnh
kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam.
Đối với quân Tởng, chúng ta đã ép lòng cung cấp lơng thực trong khi nhân dân
ta đang bị đói kém, mở rộng quốc hội thêm 70 ghế cho bọn tay sai của chúng
trong các đảng Việt quốc, Việt cách mà không phải qua bầu cử, đa một số đại
diện của các đảng đối lập này làm thành viên Chính phủ mới do Chủ tịch HCM
đứng đầu. Trong khi hoà hoãn và nhân nhợng, ta vẫn không ngừng vạch trần phản
dân hại nớc của bon tay sai của Tởng trớc quần chúng và nghiêm trị những tên
tay sai gây tội ác đã có đủ bằng chứng. Các lực lợng vũ trang đợc lệnh tránh xung
đột với quân Tởng, không mắc vào cạm bẫy khiêu khích để chúng kiếm cớ lật đổ
chính quyền cách mạng. Để gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng, tháng
11/1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, kì thật là rút vào hoạt động, lãnh đạo bí mật.
Để phối hợp hoạt động bí mật với công khai, Đảng để một bộ phận hoạt động
công khai dới danh hiệu Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Những chủ trơng sách l-
ợc và biện pháp nhân nhợng trên đây đối với quân đội Tởng và tay sai của chúng
là cần thiết và đúng với điều kiệnn lịch sử lúc bấy giờ đã giúp ta hạn chế và vô
hiệu hoá các hoạt động phá hoại, đẩy lùi từng bớc và làm thất bại mọi âm mu lật
đổ chính quyền cách mạng của chúng.
Đối với thực dân xâm lợc Pháp, Đảng đã xác định rõ chúng là kẻ thù chính của
nhân dân Việt Nam. Vì vậy, Đảng nêu cao quyết tâm lãnh đạo nhân dân toàn
quốc đứng lên kháng chiến, tích cực chi viện cho đồng bào Nam Bộ và miền Nam
Trung Bộ lúc đó đang trực tiếp chiến đấu với giặc Pháp xâm lợc, khân trơng
chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc mà Đảng dự kiến là khó
tránh khỏi.
Giữa lúc đó, chính phủ Tởng Giới Thạch và Pháp đã giàn xếp, nhân nhợng nhau
để cho thực dân Pháp kéo quân ra Bắc thay chân quân Tởng còn quân Tởng thì
kéo về nớc đối phó với cách mạng TQ đang phát triển. Sự dàn xếp đó đã dẫn đến
hiệp ớc Hoa-Pháp ngày 28/2/1946. Việc dàn xếp giữa hai kẻ thù đã đợc Đảng dự
đoán sớm. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc ( 25/11/1945) đã vạch rõ: trớc sau
Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dơng trở về tay Pháp miễn là Pháp nhợng
cho quân Tởng nhiều quyền lợi quan trọng. Hiệp ớc giữa Pháp-Hoa không phải là
việc riêng giữa đế quốc Pháp và và Tởng mà là việc chung của cả phe đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế trong việc đoói phó với phong trào cách mạng ở
ĐNA, trớc hết là phong trào cách mạng ở Việt Nam và TQ. Trớc tình hình đó,
Đảng phải nhanh chóng có quyết sách đúng vaf kịp thời, không đợc chậm trễ và
do dự. Quân Pháp và Tởng đặt ra trớc một việc đã rồi, vậy phải thơng lợng hay
dàn xếp với chúng hay chống lại chúng ? phải đánh hay hoà hoãn. Phân tích tình
thế, Chủ tịch HCM và ban thờng vụ TW Đảng đã quyết định chọn giải pháp hoà
hoãn, dàn xếp với Pháp. Vì vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn
hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình, biết ngời, nhận một cách khách quan
những điều kiện lời lãi trong nớc và ngoài nớc mà chủ trơng cho đúng. Chọn giải
pháp thơng lợng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc quân Tởng phải rút
ngay về nớc, tránh tình trạng một lúc phải đối đầu với nhiều kể thù, bảo toàn lực
lợng, tranh thủ thời gian hoà hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới, tiến lên
giành thắng lợi. Song, trong khi mở cuộc đàm phán ta phải không những không
ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ kúc nào và ở
đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc
đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta. Thực hiện
chủ trơng đó, CTHCM thay mặt CP nớc VNDCCH ký với đại diệnn chính phủ
Pháp bản hiệp định sơ bộ 6/3/46, đặt cơ sở đi đến cuộc đàm phán để ký một hiệp
định chính thức. Cuộc đàm phán chhính thức tiếp diễn giữa ta và Pháp ở Phông-
ten-nơ-bơ-lôđã họp song không đi đến kết quả. Nhằm tranh thủ kéo dài thời gian
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Trớc khi rời Pháp về nớc, CTHCM đã
ký với chính phủ Pháp bản tạm ớc 14/9/46. Lịch sử cách mạng nớc ta đã ghi nhận
chủ trơng thơng lợng ký các hiệp định trên với Pháp là cần thiết và đúng đắn.
Thực tiễn lịch sử thời kỳ này cho thấy chính sách ngoại giao dĩ bất biến, ứng
vạn biến của Đảng ta là phù hợp và đã phát huy hiệu quả thiết thực. Không
những dần từng bớc loại bỏ các kẻ thù của dân tộc mà còn giữ vững đợc chính
quyền non trẻ của nớc nhà vừa mới đợc hình thành. Đa con thuyền cách mạng
Việt Nam vợt qua thời kỳ ngàn cân treo sợi tóc và giải phóng dân tộc khỏi các
ách áp bức sau này.
* ý nghĩa của sách lợc ngoại giao của Đảng giai đoạn 45-46 trong hoạt động của
Đảng hiện nay là:
- Phải kiên quyết giữ vững nền độc lập dân tộc và không ngừng củng có hệ thống
chính trị vững chắc, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với nhân dân, với nhà n-
ớc.
- Trong quan hệ quốc tế phải dĩ bất biến, ứng vạn biến với mọi thành phần và
mội mối quan hệ quốc tế theo phơng châm có lợi cho dân, cho nớc và không hại
đến Đảng.
- Trong ứng phó với các thế lực thù địch phải khôn khéo, cơng quyết. Với các
vấn đề nhạy cảm Đảng ta rất thận trọng, một mặt không làm hại đến uy tín của
Đảng và nhà nớc Việt Nam, một mặt phải không làm mất mối quan hệ bang giao
với các nớc.
- Phơng châm đó đợc phát triển trong thời đại hiện nay là giải quyết mọi vớng
mắc bằng con đờng ngoại giao- hoà bình không dùng vũ lực