BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------
PHẠM THỊ TRINH
GIÁM HỘ THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------
PHẠM THỊ TRINH
GIÁM HỘ THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI ĐĂNG HIẾU
HÀ NỘI – NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Trinh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................................... 2
4. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ......................................................................... 2
6. Những điểm mới của luận văn .......................................................................... 2
7. Ý nghĩa của luận văn......................................................................................... 3
8. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 3
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận về giám hộ .......................................................... 4
1.1.
Khái niệm về giám hộ .................................................................................... 4
1.1.1.
Khái niệm chung về giám hộ .................................................................. 4
1.1.2.
Khái niệm giám hộ theo luật dân sự Việt Nam ...................................... 5
1.2.
Đặc điểm và ý nghĩa của giám hộ ................................................................. 7
1.2.1.
Đặc điểm của giám hộ ............................................................................ 7
1.2.2.
Ý nghĩa của giám hộ ............................................................................... 8
1.3.
Chủ thể của giám hộ ...................................................................................... 9
1.3.1.
Người được giám hộ ............................................................................. 10
1.3.2.
Người giám hộ ...................................................................................... 20
1.3.3.
Người giám sát ...................................................................................... 24
1.4. So sánh quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với quyền và nghĩa vụ của người
giám hộ.
........................................................................................................... 25
1.5.
Các cơ chế giám hộ...................................................................................... 28
1.6. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật dân sự Việt
Nam về chế độ giám hộ. ........................................................................................ 29
Chƣơng 2. Các cơ chế giám hộ theo Bộ luật dân sự năm 2015 và thực hiện
pháp luật trên thực tế ............................................................................................. 32
2.1.
Các cơ chế xác định người giám hộ ............................................................ 32
2.1.1. Giám hộ đương nhiên .............................................................................. 32
2.1.2. Giám hộ cử ............................................................................................... 37
2.1.3. Giám hộ chỉ định ...................................................................................... 38
2.1.4. Giám hộ theo yêu cầu ............................................................................... 40
2.2.
Đăng ký giám hộ.......................................................................................... 41
2.3. Giám sát việc giám hộ .................................................................................... 44
2.4.
Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ ........................................................ 48
2.4.1.
Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ người được giám hộ ............................. 48
2.4.2.
Đại diện cho người được giám hộ ........................................................ 51
2.4.3.
Những quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản. .................................. 53
2.5. Thay đổi, chấm dứt giám hộ và hậu quả pháp lý ............................................ 56
2.5.1. Thay đổi người giám hộ và hậu quả pháp lý ............................................ 56
2.5.2. Chấm dứt việc giám hộ và hậu quả pháp lý. ............................................ 59
Chƣơng 3. Những bất cập của chế định giám hộ, kiến nghị hoàn thiện chế định
giám hộ trong pháp luật dân sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật trong thực tiễn.................................................................................................. 62
3.1. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về giám hộ. .............................. 63
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giám hộ và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về giám hộ trong thực tiễn....................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giám hộ là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam, các
quy định của chế định thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước và xã hội ta đối
với người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc biệt, người mất năng lực hành vi dân
sự và người có khó khăn trọng nhận thức, làm chủ hành vi. Việc áp dụng chế định
giám hộ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của những người yếu thế này, đồng thời,
đảm bảo sự tương đồng khi họ tham gia các quan hệ dân sự với những cá nhân có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Nhìn chung, những quy định về chế định giám hộ trong Bộ luật dân sự đã
phần nào đáp ứng đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn cuộc sống, góp phần không nhỏ
trong việc tạo lập một chế định pháp lý thống nhất, giải quyết hiệu quả những nhu
cầu bức thiết trong nhân dân liên quan đến việc giám hộ. Tuy nhiên, việc áp dụng
các quy định của chế định này vào các quan hệ xã hội còn chưa thật sự hiệu quả,
gặp nhiều khó khăn, bất cập trên thực tế. Đặc biệt trong bối cảnh Bộ luật dân sự
năm 2015 (sau đây gọi là Bộ luật dân sự 2015) vừa mới ra đời đã có những sửa đổi,
bổ sung để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, nhưng bên cạnh đó
vẫn còn một số điểm hạn chế cần được phân tích, nghiên cứu. Vì thế, tác giả đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Giám hộ theo Bộ luật dân sự năm 2015” cho luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định giám hộ có vai trò quan trọng trong pháp luật dân sự nói chung và
trong quy định của Bộ luật dân sự nói riêng. Từ khi Luật hôn nhân và gia đình 1986
lần đầu tiên quy định về chế độ “đỡ đầu” rồi lần lượt Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật
dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 ra đời, đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý vần vấn đề giám hộ như: Chế độ giám hộ đối với người chưa thành niên
– Nguyễn Đức Mai – Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 năm 1999; Giám hộ, đại diện
trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự - ThS Nguyễn Việt Cường – Tạp chí
Nghề Luật số 5 tháng 5 năm 2005; Một vài vần đề về giám hộ - Tưởng Duy Lượng
– Tạp chí Tòa án nhân dân số 20 năm 2006; “Chế độ giám hộ trong Bộ luật dân sự một số tồn tại từ thực tiễn áp dụng” – Nguyễn Văn Dũng, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam – Tạp chí Tòa án nhân dân số 12 tháng 6 năm 2009…Các công trình
nghiên cứu khoa học này đã nêu lên được những bất cập, vướng mắc trong việc áp
2
dụng các quy định về giám hộ trong thực tiễn. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, Bộ luật
dân sự 2015 ra đời với nhiều sửa đổi, bổ sung tất cả các chế định nói chung và chế
định giám hộ nói riêng thì luận văn sẽ làm rõ hơn những vấn đề lý luận về chế định
giám hộ, những quy định cụ thể về giám hộ trong Bộ luật dân sự 2015 và những
điểm kiến nghị toàn diện giải quyết những vướng mắc, bất cập khi áp dụng chế định
giám hộ trên thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề lý luận về
giám hộ, các quy định của Bộ luật dân sự 2015 về giám hộ và thực hiện các quy
định này trên thực tế. Ngoài ra, việc nghiên cứu chế độ giám hộ theo Bộ luật dân sự
2015 thì việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với các quy định về giám hộ của
Bộ luật dân sự trước đây của Việt Nam và của pháp luật dân sự một số quốc gia
trên thế giới để so sánh, tham khảo.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn hướng tới mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giám hộ,
nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về giám hộ, kinh nghiệm lập pháp
của các quốc gia trên thế giới; thực hiện các quy định về giám hộ, từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
chế định này trong thực tiễn ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, về cải cách tư pháp và xây dựng hệ thống pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong khóa luận là phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và phương pháp thống
kê.
6. Những điểm mới của luận văn
Đề tài là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến
chế định giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Trong đề tài có những
điểm mới sau:
- Hoàn thiện các vấn đề lý luận về giám hộ;
- Chỉ ra và phân tích những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về giám
hộ;
3
-
Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của các quy định về giám
hộ theo Bộ luật dân sự 2015;
- Trình bày việc thực hiện giám hộ trên thực tế.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định giám hộ và nâng cao hiệu quả
áp dụng chế định giám hộ trong thực tiễn.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã góp phần nghiên cứu một cách toàn diện chế định giám hộ
trong pháp luật Việt Nam, đồng thời đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm
hoàn thiện chế định giám hộ, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng của chế
định này trong thực tiễn.
Luận văn được xem là một tài liệu tham khảo cho sinh viên phục vụ công
tác học tập nghiên cứu khoa học và cho cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; phần nội dung
của Luận văn được chia làm ba chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giám hộ.
Chương 2: Cơ chế giám hộ theo Bộ luật dân sự năm 2015 và thực hiện pháp
luật trên thực tế.
Chương 3: Những bất cập của chế định giám hộ, kiến nghị hoàn thiện chế
định giám hộ trong pháp luật dân sự và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trên
thực tế
4
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM HỘ
1.1.
Khái niệm về giám hộ
1.1.1. Khái niệm chung về giám hộ
Khái niệm về giám hộ có thể được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Về
mặt ngôn ngữ thì giám được hiểu là theo dõi, kiểm tra, đôn đốc còn hộ được hiểu là
bảo vệ, giữ gìn vì vậy giám hộ là hành động theo dõi, giám sát và bảo vệ của một
người đối với một người. Nếu định nghĩa giám hộ là danh từ thì giám hộ là việc một
người (cá nhân hoặc tổ chức) thực hiện việc trông nom và bảo vệ một người khác.
Khái niệm giám hộ đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ thời La mã cổ đại giám
hộ đã là một chế định quan trọng. Trong Luật La mã đã có các quy định tương đối
cụ thể về giám hộ như sau: Trẻ em dưới 7 tuổi không có năng lực hành vi không
được tham gia và thực hiện các giao dịch dân sự, trừ những giao dịch phục vụ cho
nhu cầu cần thiết và phù hợp với lứa tuổi. Luật quy định trẻ em trong độ tuổi này
buộc phải đặt dưới sự giám hộ của người trưởng thành. Đối với người từ 7 tuổi đến
14 tuổi đối với nam, 12 tuổi đối với nữ thì có năng lực hành vi một phần, được tham
gia thực hiện những giao dịch bảo đảm, duy trì được lợi ích của mình. Khi thực hiện
một giao dịch mà phát sinh một nghĩa vụ hay chấm dứt một quyền phải được sự
đồng ý của gia chủ hoặc người đỡ đầu vào thời điểm thực hiện giao dịch đó. Như
vậy, theo Luật La mã cổ đại thì những người ở độ tuổi trên tuy ở mức độ khác nhau
nhưng đều phải đặt dưới sự giám hộ. Luật La mã còn quy định những người tuy
trưởng thành (từ đủ 14 tuổi đối với nam, đủ 12 tuổi đối với nữ) mà mắc bệnh tâm
thần là những người không có năng lực hành vi, vì họ không thể nhận thức và làm
chủ hành vi của mình trong các quan hệ xã hội, họ được gọi là furiosi. Và những
người được xác định là furiosi đều phải đặt dưới sự giám hộ của người trưởng thành
khác. Có thể thấy rằng ngay từ thời La mã, pháp luật về giám hộ được được quy
định một cách toàn diện, đầy đủ, qua đó, thể hiện trình độ pháp lý tương đối cao của
người La mã cổ đại.1
1. Trịnh Minh Hiền (2015), Giám hộ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr4.
5
Về mặt thuật ngữ luật dân sự thì giám hộ là việc chăm sóc, quản lý tài sản,
thực hiện các quyền dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám
hộ.
Về phương diện luật học thì chế định giám hộ là chế định tổng hợp của nhiều
ngành luật, các quy định của giám hộ trước tiên được quy định như là một chế định
của pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự, pháp luật chăm sóc, giáo dục
và bảo vệ trẻ em, pháp luật về hộ tịch,…Chế định này bao hàm hệ thống các quy
phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ pháp luật là khách thể trong các quan hệ pháp
luật đó. Ngoài mục đích để điều chỉnh các quan hệ pháp luật thì chế định giám hộ
có ý nghĩa lớn trong việc khắc phục tình trạng không bình đẳng khi không có sự
tương đồng về năng lực hành vi dân sự giữa các cá nhân khi họ tham gia vào các
quan hệ pháp luật. Người có năng lực hành vi dân sự có thể tự mình tham gia vào
các mối quan hệ pháp luật cũng như quan hệ xã hội khác, có thể tự mình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Nhưng đối với những người
không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực hành vi dân sự hay người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, pháp luật quy định cho họ không thể
tự hình thực hiện hành vi pháp lý nhất định, khi đó đặt ra vấn đề bất bình đẳng giữa
các cá nhân trong xã hội. Bên cạnh đó, chế định giám hộ còn tạo điều kiện cho
những người không thể tự chăm sóc bản thân mình được nuôi dưỡng, giáo dục và
chữa bệnh. Vì vậy, có thể nói chế định giám hộ là công cụ của nhà nước tạo ra để
bảo vệ những người yếu thế trong xã hội. Những quy định của chế định này xác
định việc quản lý tài sản, thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người được
giám hộ. Ngoài ra các chế định này còn có những quy định mang tính hành chính
như các quan hệ về cử người giám hộ, giám sát việc giám hộ.
1.1.2. Khái niệm giám hộ theo luật dân sự Việt Nam
Giám hộ là một chế định quan trọng được quy định trong pháp luật dân sự có
nội dung xã hội sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của xã hội và cộng đồng đối với việc
chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Chế định này
đã được quy định trong Bộ luật dân sự 1995 trước đây và được kế thừa phát triển
trong Bộ luật dân sự 2005 rồi đến Bộ luật dân sự 2015 cũng như các văn bản pháp
luật có liên quan (Luật Hôn nhân & gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em…).
6
Năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
Bộ luật Dân sự có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1996. Lần đầu tiên khái niệm
giám hộ được quy định dưới góc độ của luật dân sự, theo đó tại Điều 67 Bộ luật dân
sự 1995 quy định “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước (gọi là
người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình (gọi là người được giám hộ)”. Khái niệm nêu ra ba loại chủ thể là người
giám hộ bao gồm cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước tương ứng với ba loại cơ
chế giám hộ được Bộ luật dân sự 1995 quy định: giám hộ đương nhiên của người
thân thích, giám hộ cử của tổ chức và giám hộ của cơ quan nhà nước. Đồng thời
khái niệm cũng nêu lên được những đối tượng là người được giám hộ, bao gồm:
người chưa thành niên, người bị tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ hành vi.
Bộ luật dân sự 2005 có sự thay đổi về mặt nội dung trong khái niệm giám hộ,
tuy nhiên cách thức trình bày, diễn giải không có gì thay đổi. Giám hộ theo Bộ luật
dân sự 2005 là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được
pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau
đây gọi chung là người được giám hộ). Sự thay đổi về nội dung của khái niệm giám
hộ của Bộ luật dân sự 2005 thể hiện rõ ràng sự thay đổi trong các quy định về người
giám hộ, người được giám hộ so với Bộ luật dân sự 1995.
Đến Bộ luật dân sự 2015 thì “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật
quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy
định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để
thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Khái niệm tại khoản 1 Điều 46
Bộ luật dân sự 2015 này tương đối hoàn chỉnh, khái quát một cách ngắn gọn nhất về
giám hộ bao gồm ai, việc gì và được hình thành như thế nào. Tuy nhiên, ngoài có sự
thay đổi trong nội dung thì về mặt thể thức trình bày hay cách hành văn vẫn không
có sự thay đổi so với các khái niệm trước đây. Tuy nhiên, do đi vào chi tiết quá nên
trong khái niệm giám hộ của bộ luật dân sự còn chứa nhiều cụm từ mà phải rõ về
7
khái niệm của chúng thì chúng ta mới hiểu được giám hộ là gì, như “người mất
năng lực hành vi dân sự” hay “người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi”.
Trong pháp luật dân sự nói riêng và trong thực tiễn áp dụng pháp luật có một
khái niệm mà thường xuyên bị nhầm lẫn với khái niệm giám hộ đó là khái niệm về
đại diện. Theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự 2015 thì đại diện là việc cá nhân,
pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân
hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự. Giám hộ và đại diện có những điểm tương đồng nhất định, đều là
việc cá nhân, pháp nhân thay mặc cho người khác, nhân danh và bảo vệ lợi ích cho
người khác. Do đó, giám hộ cũng là một trường hợp đặc biệt của đại diện. Tuy
nhiên, giữa giám hộ và đại diện có những điểm khác nhau xuất phát từ tính chất đặc
trưng của giám hộ. Nếu người đại diện chỉ nhân danh cho người được đại diện trong
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì giám hộ lại đề cao trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh của người giám hộ đối với người được giám hộ bên cạnh công
việc đại diện cho người được giám hộ. Ngoài ra, nếu việc giám hộ chỉ đặt ra với cá
nhân có hoàn cảnh đặc biệt thì chủ thể được đại diện hầu như không có giới hạn bao
gồm cả cá nhân và pháp nhân và trong khi một người chỉ có thể được giám hộ bởi
một người (trừ bố mẹ giám hộ cho con) thì trong quan hệ đại diện, nhiều người có
thể cùng đại diện cho một người. Bên cạnh đó giám hộ và đại diện còn khác nhau
về căn cứ xác lập, căn cứ kết thúc, quyền và nghĩa vụ và đặc biệt trong một số quan
hệ đại diện, công việc đại diện là công việc được trả phí trong khi đó giám hộ là
công việc không phải trả phí.
1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của giám hộ
1.2.1. Đặc điểm của giám hộ
Từ những phân tích về khái niệm ở trên, có thể khái quát những đặc điểm
của giám hộ như sau:
Về chủ thể, chủ thể của quan hệ giám hộ được giới hạn theo quy định của
pháp luật, nói cách khác không phải ai cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật về
giám hộ. Chủ thể của giám hộ được chia làm ba nhóm chính: người giám hộ, người
được giám hộ và người giám sát. Đối với từng nhóm này pháp luật đều có những
quy định cụ thể về đối tượng, điều kiện cũng như cách thức hình thành cũng như
thay đổi, chấm dứt. Tuy nhiên, đặc điểm của người được giám hộ là họ luôn là cá
8
nhân và là người yếu thế còn người giám hộ và người giám sát có thể là cá nhân
hoặc pháp nhân có đủ những điều kiện do pháp luật quy định.
Về mục đích của giám hộ, bản chất của giám hộ là người đại diện theo pháp
luật cho cá nhân để tham gia vào các quan hệ với cơ quan nhà nước, các giao dịch
dân sự với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ khi
họ không thể tự mình tham gia vào các quan hệ đó. Do đó, việc giám hộ làm phát
sinh quan hệ đại diện của người giám hộ với người thứ ba. Tuy nhiên, nhiệm vụ
chính cũng là đặc điểm riêng phân biệt giám hộ với đại diện đơn thuần là người
giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc người được giám hộ, bảm đảm cho người được giám
hộ có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt nhất có thể.
Về các cơ chế giám hộ, giám hộ theo Bộ luật dân sự 2015 được hình thành
theo hai cơ chế: giám hộ đương nhiên, giám hộ cử. Mỗi cơ chế giám hộ này đều có
những nội dung về chủ thể, điều kiện, cách thức hình thành, thay đổi, chấm dứt
khác nhau. Tùy theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong từng quan hệ
giám hộ cũng có sự khác nhau.
Ngoài ra, trong quan hệ giám hộ thì một người có thể giám hộ cho nhiều
người nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ trừ trường hợp người
giám hộ là cha mẹ, ông bà.
1.2.2. Ý nghĩa của giám hộ
Giám hộ là một trong những chế định được ra đời với mục đích trợ giúp cho
những cá nhân không đầy đủ về năng lực chủ thể. Sự trợ giúp của giám hộ thể hiện
cả yếu tố hỗ trợ về năng lực chủ thể và cả yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng người được
giám hộ. Vì vậy, chế định này được áp dụng đối với những trường hợp cá nhân
khuyết thiếu về năng lực chủ thể và cần sự chăm sóc từ chủ thể khác. Vì vậy mà
giám hộ mang nhiều ý nghĩa về cả mặt pháp lý và mặt xã hội.
- Về mặt kỹ thuật lập pháp
Giám hộ với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật dân sự đã thể hiện được
sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nhà nước ta. So với quy định tương ứng trong
Luật hôn nhân và gia đình 1986, Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 thì quy
định về giám hộ trong Bộ luật dân sự 2015 đã thể hiện sự hoàn thiện, tiến bộ vượt
bậc về kỹ thuật lập pháp. Quy định giám hộ hiện hành đã tương đối hoàn thiện về
9
nội dung và các điều luật, có độ chính xác về các thuật ngữ pháp lý và thể hiện sự
thống nhất, đồng bộ với các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Hơn nữa, nội dung các quy định của chế định này trong Bộ luật dân sự 2015
đã càng tiến gần hơn với kỹ thuật lập pháp của các nước trên thế giới.
- Về mặt pháp lý
Chế định giám hộ tạo ra cơ sở để người được giám hộ có thể hiện thực hóa
các quyền mà pháp luật quy định cho mình.
+ Chế định giám hộ nhằm khắc phục tình trạng của người có năng lực pháp
luật dân sự nhưng không thể bằng hành vi của minh xác lập, thực hiện được quyền
và nghĩa vụ của họ vì họ là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự.
+ Chế định giám hộ đảm bảo sự bình đẳng giữa các công dân trong xã hội
trong việc được hưởng các quyền năng do luật định và việc thực thi các quyền đó
trên thực tế
+ Ngoài ra, chế định giám hộ tạo ra cơ sở pháp lý cho việc nâng cao trách
nhiệm của người giám hộ đối với người được giám hộ. Quyền và nghĩa vụ được
quy định cụ thể trong chế định này sẽ là khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ.
-
Về mặt xã hội
+ Chế định giám hộ góp phần phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc ta là truyền thống tương thân tương ái, xây dựng và củng cố tình cảm gắn bó tốt
đẹp giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng xã hội.
+ Thông qua các quy định về giám hộ còn thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm
của nhà nước đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt nói trên.
1.3. Chủ thể của giám hộ
Trong bất cứ một quan hệ pháp luật nào đều có sự tham gia của các bên chủ
thể, quan hệ giám hộ cũng vậy. Tuy nhiên xuất phát từ tính đặc thù của mối quan hệ
này mà chủ thể tham gia bao gồm những đối tượng, đặc điểm riêng khác với những
quan hệ pháp luật thông thường. Quan hệ giám hộ bao gồm ba nhóm chủ thể chính:
người được giám hộ, người giám hộ và người giám sát việc giám hộ.
10
1.3.1. Ngƣời đƣợc giám hộ
Chế định giám hộ được đặt ra ngoài chức năng chung là điều chỉnh các quan
hệ pháp luật dân sự còn có ý nghĩa lớn trong việc bảo vệ những người yếu thế trong
xã hội. Mọi công dân đều được nhà nước, pháp luật trao cho những quyền và nghĩa
vụ như nhau, năng lực pháp luật dân sự như nhau để tạo thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng đầy đủ để thực hiện
những quyền và nghĩa vụ đó, điều này thể hiện ở mức độ năng lực hành vi dân sự
của mỗi người. Bên cạnh những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thì có
những người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc thậm chí bị mất năng lực
hành vi dân sự và vấn đề đặt ra là họ không thể chăm sóc, bảo vệ cho bản thân,
không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật.
- Người chưa thành niên
Khoản 1 Điều 21 Bộ luận dân sự 2015 quy định rằng “Người chưa thành
niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Tuy nhiên không phải người chưa thành niên
nào cũng là người được giám hộ, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì những
người chưa thành niên sau đây là người được giám hộ:
Thứ nhất, người chưa thành niên không còn cha mẹ hoặc không xác định
được cha mẹ (điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật dân sự 2015). Đó là trường hợp cha
mẹ đã chết, hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích theo quy định của pháp luật
dân sự về tuyên bố chết, mất tích và những trẻ em bị cha, mẹ bỏ rơi, không thể xác
định được cha mẹ là ai.
Thứ hai, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực
hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha mẹ
đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế
quyền đối với con;
Thứ ba, cha mẹ đều không có khả năng chăm sóc, giáo dục con và có yêu
cầu người giám hộ (điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật dân sự 2015).
Ở trường hợp thứ hai và thứ ba này có thể hiểu một cách ngắn gọn rằng đây
là nhóm người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng được giám hộ không theo yêu cầu
của cha, mẹ (trường hợp thứ hai) hoặc giám hộ theo yêu cầu của cha, mẹ (trường
hợp thứ ba).
11
+ Những người chưa thành niên được giám hộ không theo yêu cầu của cha,
mẹ trong trường hợp cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự; cha mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con. Một người chỉ được
coi là mất năng lực hành vi dân sự; có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án tuyên bố
người đó mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22, Điều 23 và Điều
24 Bộ luật dân sự 2015. Khi đó cha mẹ không còn đầy đủ năng lực hành vi nên
không còn đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục và bảo vệ con
chưa thành niên. Ngoài ra, đối với các trường hợp cha, mẹ bị Tòa án tuyên bố hạn
chế quyền đối với con theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con2
Cha mẹ là người đầu tiên phải bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con, nhưng họ lại không những không bảo vệ mà còn vi phạm nghĩa vụ này
thì khi họ bị kết án về các tội được quy định trong Bộ luật hình sự thì đây cũng là
một căn cứ để tòa án hạn chế quyền của họ đối với người con mà họ có hành vi vi
phạm. Cha, mẹ cố ý xâm phạm sức khỏe của con chưa thành niên là những hành vi
cố ý, có thể bằng hành động hoặc không hành động xâm phạm tới quyền được tôn
trọng và bảo vệ sức khỏe của con chưa thành niên. Hành vi của cha mẹ có thể là
hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc những hành vi khác gây tổn hại tới sức khỏe cho
con chưa thành niên. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 thì cha, mẹ có hành vi
cố ý xâm phạm sức khỏe của con có thể cấu thành các tội như: Tội cố ý gây thương
tích cho người khác (tại các Điều 104, Điều 105 và Điều 106), tội hành hạ người
khác (Điều 110) và tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu,
người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151). Cha, mẹ có thể là người trực tiếp thực
hiện những hành vi vi phạm đó hoặc là người đồng phạm. Dù là người trực tiếp
thực hiện hay là đồng phạm thì khi cha, mẹ bị kết án về những tội cố ý xâm phạm
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đối với con chưa thành niên thì bên cạnh việc bị truy
2. truy cập ngày
30/6/2016
12
cứu trách nhiệm hình sự, cha, mẹ còn bị tòa án ra quyết định hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên.
Cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
giáo dục, nuôi dưỡng con
Cha mẹ phải có nghĩa vụ trông nom con, không để con bị những người khác
xâm hại hoặc không để con rơi vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe;
chăm sóc là việc cha mẹ cần quan tâm sức khỏe, tinh thần và giáo dục con, tùy theo
điều kiện mà khám chữa bệnh cho con. Nuôi dưỡng là phụ thuộc vào điều kiện của
mình mà cha mẹ tạo cho con những điều kiện vật chất tốt nhất có thể để con phát
triển tốt về thể chất, trí tuệ. Vậy vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ này là như thế nào?
Hiện nay pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể vì vậy rất khó cho Tòa án áp dụng căn
cứ này. Do vậy khi áp dụng căn cứ này cần hiểu vi phạm nghiêm trọng là trường
hợp cha mẹ đã không hề trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con cái thường xuyên,
cha mẹ đã bỏ mặc con, không bảo vệ hoặc không lường trước được những nguy
hiểm mà lẽ ra phải biết đối với con, làm cho con bị rơi vào tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, hay không có một môi trường sống an
toàn ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của con.
Cha, mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc đối với con
chưa thành niên là việc cha, mẹ không quan tâm, quản lý con, không bảo vệ con
một cách tốt nhất, làm cho con chưa thành niên bị thiệt hại về sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm. Cha, mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc, trông nom con được
thể hiện dưới những hình thức như cha, mẹ bỏ rơi con chưa thành niên; cha, mẹ bắt
con lao động sớm dẫn đến con rơi vào tình trạng bị lạm dụng và bị bóc lột sức lao
động; cha, mẹ thiếu sự quan tâm làm cho con bị tai nạn thương tích nặng …
Cha, mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với con chưa thành
niên là trường hợp cha, mẹ đã không cung cấp vật chất để đảm bảo cuộc sống
thường ngày của con chưa thành niên. Hậu quả của hành vi này gây nguy hiểm cho
tính mạng, sức khỏe của con chưa thành niên. Việc vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng
của cha, mẹ có thể là trường hợp cha, mẹ có điều kiện, có tài sản nhưng đã không
dùng tài sản đó chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu hằng ngày của con chưa thành
niên như ăn, mặc… Hoặc trường hợp cha, mẹ có khả năng lao động nhưng đã
không nỗ lực lao động để có tài sản nuôi sống con chưa thành niên, làm cho con
không đủ dưỡng chất cho sự phát triển, thậm chí con còn bị bỏ đói gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe của con.
13
Cha, mẹ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giáo dục con chưa thành niên là
việc cha, mẹ đã không thực hiện nghĩa vụ giáo dục con hoặc quá lạm dụng quyền
giáo dục con, gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển về thể chất, về trí tuệ, tinh thần,
đạo đức của con chưa thành niên. Hậu quả dẫn tới là con có những hành động gây
hại cho chính bản thân, cho người khác và cho xã hội. Cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ
giáo dục đối với con chưa thành niên biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chẳng hạn, cha, mẹ ép con học hành mà không quan tâm tới khả năng của con, làm
cho con bị những khủng hoảng tâm lý nặng nề, trầm cảm, không chịu nổi áp lực nên
có những hành động dại dột như tự tử, bỏ nhà đi bụi, có những hành vi vi phạm
pháp luật. Hoặc khi con có những hành động sai trái cha, mẹ đã không tìm hiểu
nguyên nhân, không lắng nghe, không tâm sự để gỡ những vướng mắc giúp con
vượt qua khó khăn đó mà lại dùng những lời lẽ xúc phạm, mạt sát con gây ảnh
hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con.
Cha, mẹ có hành vi phá tán tài sản của con
Pháp luật nước ta công nhận con có quyền có tài sản riêng, theo quy định của
Bộ luật Dân sự thì tài sản của con dưới 15 tuổi do cha mẹ quản lý, như vậy cha mẹ
có nghĩa vụ bảo vệ khối tài sản của con, nhưng hiện nay có vướng mắc với quy định
này là như khi tài sản của cha mẹ không đủ thì phải lấy tài sản của con để đảm bảo
cho những như cầu thiết yếu của gia đình và nhu cầu của con khi đó có được coi là
phá tán hay không? Hay cha mẹ dùng tài sản của con vào đầu tư kinh doanh nhưng
chẳng may bị phá sản, bị mất vậy có được coi là phá tán hay không? Hiện nay chưa
có quy định cụ thể về vấn đề này, tuy nhiên nếu xem việc bố mẹ lấy tài sản của con
để bảo đảm cho nhu cầu thiết yếu của gia đình và của con hoặc cha mẹ dùng tài sản
của con dưới 15 tuổi vào đầu tư kinh doanh nhưng chẳng may bị phá sản là hành vi
phá tán tài sản của con thì chưa hợp tình và hợp lí. Bởi vì suy cho cùng những tài
sản này được cha mẹ sử dụng vào mục đích chính đáng, phục vụ gia đình và vì
tương lai của con, việc tài sản của con bị mất đi do phá sản, hay thua lỗ trong kinh
doanh là việc mà cha mẹ không hề mong muốn. Vì vậy để xác định cha mẹ có hành
vi phá tán tài sản của con cần dựa vào hoàn cảnh thực tế của từng gia đình, dựa vào
mục đích cha mẹ dùng tài sản của con. Khi cha mẹ dùng tài sản của con không vì
nhu cầu chung của gia đình và của con mà dùng vào những mục đích không tốt
khác ví dụ như: đánh bạc, ăn chơi,…thì đó là cơ sở để nhận định “cha mẹ có hành
vi phá tán tài sản của con.
Cha, mẹ có lối sống đồi trụy
14
Cha mẹ có nghĩa vụ tạo cho con có một môi trường sống lành mạnh và cha
mẹ phải là những tấm gương sáng để con phát triển đúng chuẩn về thể chất, trí tuệ
và đạo đức. Nếu cha mẹ có lối sống đồi trụy, tức là cha mẹ đã tạo ra một môi trường
sống không lành mạnh, do vậy sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển bình thường
của con, nhất là về đạo đức và tinh thần. Tuy nhiên rất khó để xem cha mẹ có lối
sống nào là lối sống đồi trụy để hạn chế quyền của cha mẹ.
Khi cha, mẹ có lối sống đồi trụy, tức cha, mẹ có lối sống lệch lạc, có những
hành vi thiếu văn hóa, vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Khi đó nếu con sống
chung với cha, mẹ sẽ tạo cho con có môi trường sống không lành mạnh, ảnh hưởng
xấu tới sự phát triển tâm sinh lý, nhân cách của con. Nếu cha, mẹ có lối sống lệch
chuẩn, rất dễ tạo cho con bị ảnh hưởng chính lối sống đó. Khi đó, có thể con sẽ có
những suy nghĩ sai lầm, đạo đức xuống cấp. Nguy hiểm hơn, lối sống không lành
mạnh của cha, mẹ còn có thể là nguyên nhân dẫn tới những hành vi phạm tội của
con. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của người chưa thành
niên là có cha, mẹ hoặc người trong gia đình thiếu gương mẫu, vi phạm pháp luật.
ha, mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội
Nếu cha mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội cũng là một căn cứ hạn chế quyền, đây là một hiện tượng xuất hiện nhiều
trong những năm gần đây như ép và lôi kéo con vào việc buôn bán ma túy, ép hay
bao che cho con ăn trộm hay lôi kéo con vào việc gây tổn hại tới tính mạng, sức
khỏe của người khác, ép con bán dâm… Đó là một hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ của cha mẹ, cha mẹ đã không bảo vệ con mà còn tạo cho con hình thành
nhân cách không tốt, ảnh hưởng sự phát triển của con, đồng thời ảnh hưởng tới trật
tự công cộng.
Cha, mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội, đó là việc cha, mẹ có hành vi, lời nói, thái độ thể hiện sự kích động, dụ dỗ, lừa
phỉnh… tác động tới ý chí tư tưởng của con chưa thành niên, dẫn đến con có những
hành vi vi phạm pháp luật hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội. Hậu quả của việc xúi
giục, dụ dỗ này có thể làm cho con có hành vi phạm tội hay vi phạm pháp luật hành
chính. Hiện nay, không ít người cha, người mẹ vì lợi nhuận, vì sức hút đồng tiền là
quên mất trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mình, không những không bảo vệ con,
tạo cho con có một môi trường sống an toàn, hướng và giáo dục con tuân thủ pháp
luật, chuẩn mực đạo đức xã hội mà con xúi giục, ép buộc, lôi kéo con thực hiện
15
những hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, cha, mẹ ép con bán dâm; lợi dụng con
vận chuyển, buôn bán ma túy, buôn bán hàng lậu trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản của người khác, ép con đi ăn xin… Có trường hợp bố, mẹ trực tiếp đẩy con ra
đường, xúi giục con vi phạm pháp luật khiến con bỏ nhà đi lang thang, trộm cắp.
Những hành vi này của cha, mẹ không những gây tổn hại trực tiếp tới tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con mà còn hủy hoại tương lai của con, gây ra
những tổn thương khó chữa lành.
Nếu thuộc một trong những trường hợp này thì Tòa án có căn cứ để hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là trong trường hợp người
cha, mẹ bị hạn chế quyền này có nhiều con chưa thành niên. Việc giám hộ được đặt
ra đối với người con chưa thành niên mà cha, mẹ bị hạn chế quyền hay đối với tất
cả người con chưa thành niên?
+ Người chưa thành niên là người được giám hộ theo yêu cầu của cha, mẹ
trong trường hợp cha, mẹ không có đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa
thành niên đó. Việc giám hộ chỉ đặt ra khi có yêu cầu của cha và mẹ, nếu một trong
hai người yêu cầu hoặc cả hai không yêu cầu thì việc giám hộ cũng không xảy ra.
Bởi vì nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con, đại diện cho con trước tiên thuộc về cả cha
và mẹ, người đã sinh ra con. Cả Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 đều
không có hướng dẫn cụ thể như thế nào là “cha, mẹ không có đủ điều kiện chăm
sóc, giáo dục con” tuy nhiên có thể hiểu là đây là trường hợp cha, mẹ phải thi hành
án phạt tù có thời hạn; cha, mẹ đi nước ngoài không có điều kiện chăm sóc, giáo
dục con chưa thành niên…
Tóm lại, người chưa thành niên được giám hộ cần phải có cả cha và mẹ
thuộc vào một trong các trường hợp nêu trên. Ví dụ như, người cha đã chết còn
người mẹ bị Tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc người mẹ bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người cha đang thi hành án phạt tù. Bởi nếu cha mẹ còn
một người không lâm vào tình trạng không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với
con, thì người con chưa thành niên vẫn chưa lâm vào tình trạng không có người
chăm sóc, giáo dục, đại diện cho mình, do vẫn còn cha hoặc mẹ thực hiện nghĩa vụ
đó.
Nếu con chưa thành niên còn cha, mẹ và cha, mẹ vẫn đủ điều kiện, khả năng
bảo vệ chăm sóc và nuôi dưỡng con thì khi đó cha, mẹ là người đại diện cho con
chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật dân sự 2015 . Quan hệ
16
giám hộ chỉ đặt ra khi cha mẹ không đủ điều kiện, khả năng bảo vệ, chăm sóc và
nuôi dưỡng con chưa thành niên.
Trước đây, trong Bộ luật dân sự 2005 việc giám hộ chỉ bắt buộc đặt ra nếu
người chưa thành niên chưa đủ mười lăm tuổi (khoản 3 Điều 58 Bộ luật dân sự
2005). Theo đó có thể hiểu là đối với những người chưa thành niên ở lứa tuổi từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không còn cả cha lẫn mẹ; hoặc còn cha,
mẹ nhưng họ đều bị mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong
nhận thức làm chủ hành vi; bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục và có yêu
cầu về việc giám hộ, tùy theo điều kiện cụ thể của người chưa thành niên mà đặt ra
vấn đề có giám hộ hay không. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự 2015 đã bỏ quy định này
theo đó thì việc giám hộ đặt ra là bắt buộc đối với tất cả người chưa thành niên
thuộc đối tượng được giám hộ tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật dân sự 2015. Mặc dù
người chưa thành niên ở lứa tuổi từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
tuy đã có sự trưởng thành về thể chất và nhận thức nhất định, được pháp luật cho
phép tự mình xác lập, thực hiện một số giao dịch dân sự nhưng những đối tượng
này, có thể họ không cần phải có người trông nom, chăm sóc nhưng vẫn cần có
người định hướng, người đại diện để bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ đặc biệt
là khi phát sinh tranh chấp. Do đó, Bộ luật dân sự 2015 quy định người chưa thành
niên thuộc trường hợp được giám hộ tại khoản 1 Điều 47 ở mọi lứa tuổi đều bắt
buộc phải có giám hộ là hợp lí, có khác chăng chỉ là nghĩa vụ của người giám hộ
đối với người chưa thành niên chưa đủ mười lăm tuổi và người chưa thành niên từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi.
- Người mất năng lực hành vi dân sự
Người mất năng lực hành vi dân sự là người được giám hộ theo quy định của
Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên, một người được coi là mất năng lực hành vi dân sự
chỉ khi có quyết định của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 thì:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này
là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm
thần.
17
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
Bộ luật dân sự 1995 quy định người được giám hộ là người bị bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình,
trong khi Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 thay đổi quy định này thành
người được giám hộ phải là người mất năng lực hành vi dân sự. Hai loại chủ thể này
theo quy định của pháp luật, chỉ có tình trạng bệnh tật giống nhau nhưng không
trùng nhau về mức độ năng lực hành vi dân sự. Bởi vì cá nhân được xác định là mất
năng lực hành vi dân sự cần phải đảm bảo hai điều kiện: Thứ nhất, điều kiện cần
chính là tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn tới tình trạng không
nhận thức và làm chủ hành vi. Thứ hai, điều kiện đủ là có quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án tuyên cá nhân là mất năng lực hành vi dân sự, dựa trên hai cơ
sở là có yêu cầu của những người có quyền lợi ích liên qua và có xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền về tình trạng bệnh tật của cá nhân này. Như vậy, nếu cá
nhân chỉ mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
hành vi của mình và không có quyết định của Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự thì cá nhân này không được xác định là mất năng lực hành vi dân sự. Và
theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân này không thuộc trường hợp được
giám hộ. Tuy nhiên, cần xem xét tính hợp lý từ quy định này của Bộ luật dân sự
2015.
Thứ nhất, mục đích của giám hộ, như đã nói ở trên, là tạo sự trợ giúp về mặt
pháp lý cho cá nhân không đầy đủ về năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, giám hộ,
còn mang tính chất đặc trưng là các chủ thể cần giám hộ không chỉ cần được trợ
giúp về mặt pháp lý vì khuyết thiếu năng lực pháp lý mà còn là những chủ thể cần
được chăm sóc, bảo vệ.
Thứ hai, một mặt vì tâm lí e ngại các thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục
tại Tòa của đa số người dân, một mặt vì họ chưa nhận thức được các lợi ích của việc
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự cho người thân thích của họ. Vì vậy, trong xã
18
hội có không ít người bệnh tâm thần vẫn đang sống và thậm chí là tham gia vào các
quan hệ pháp luật dân sự mà họ không được công nhận là người mất năng lực hành
vì dân sự dẫn đến việc giám hộ không được đặt ra.
Việc này đặt ra vấn đề có nên quay trở lại quy định như Bộ luật dân sự 1995,
đó là người được xác định là mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn tới tình
trạng không nhận thức và làm chủ hành vi của mình là người cần có người giám hộ,
để đảm bảo việc chăm sóc và bảo vệ hợp lý quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
này, đồng thời đảm bảo được tinh thần nhân đạo luôn xuyên suốt định hướng trong
các văn bản pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam.3
- Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
Khái niệm “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” là một
khái niệm hoàn toàn mới được quy định trong Bộ luật dân sự 2015. Theo đó người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người được giám hộ cũng lần đầu
tiên được quy định trong Bộ luật dân sự 2015.
Tại điều 23 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và
chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ
quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Theo đó thì một người được xem là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi khi đáp ứng đủ các điều kiện:
- Người từ đủ từ 18 tuổi trở lên.
- Người do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự.
3. truy cập ngày
15/7/2017
19
- Theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ
quan, tổ chức hữu quan.
- Kết luận giám định pháp y tâm thần.
- Quyết định của Tòa án tuyên bố người này là người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi trên cơ sở kết luận giám định pháp ý tâm thần.
Sự ghi nhận và quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi trong Bộ luật dân sự 2015 đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để giải
quyết những vướng mắc, khó khăn trên thực tiễn (bởi các nguyên do tuổi tác, tai
nạn, bệnh tật…). Ngoài người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự thì người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thể
được xem là người có khuyết thiếu về năng lực hành vi dân sự. Để đảm bảo quyền
bình đẳng của nhóm người này khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, Bộ luật dân
sự 2015 lần đầu tiên quy định về việc giám hộ cho người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Tuy nhiên như đã nêu ở trên, một người chỉ bị coi là khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình khi đã có sự tuyên bố của Tòa án,
trong khi đó Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 quy định người được giám hộ là người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Vô hình chung, người không thể nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa bị Tòa án tuyên bố về tình trạng đó thì không cần
người giám hộ. Quay lại quy định về người được giám hộ tại Điều 67 Bộ luật dân
sự 1995 quy định người được giám hộ là “người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình”, quy định này có
phần tiến bộ và mang tính thực tiễn hơn quy định của Bộ luật dân sự 2005 và Bộ
luật dân sự 2015 về “người mất năng lực hành vi dân sự” và “người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi” đều là những người chỉ được giám hộ sau khi có
quyết định của Tòa. Hay nói cách khác, theo quan điểm cá nhân thì về vấn đề này
Bộ luật dân sự 2015 tiếp tục là bước thụt lùi so với Bộ luật dân sự 1995.
Điểm mới rất hay trong quy định này đó là cho phép cá nhân có thể lựa chọn
cho mình người giám hộ ngay từ trước khi bị rơi vào tình trạng không nhận thức và
làm chủ hành vi (khoản 2 Điều 46 Bộ luật dân sự 2015). Điều này là hoàn toàn phù
hợp và được coi là có sự học hỏi pháp luật các nước trên thế giới. Theo quy định
của Bộ luật dân sự Camphuchia, những người không đủ khả năng nhận thức và dự
liệu được kết quả mang tính pháp lý từ hành vi của mình gây ra do những khiếm
khuyết về mặt trí tuệ và những người hạn chế năng lực hành vi dân sự được bảo vệ
20
bằng cơ chế bảo trợ (Điều 28 và Điều 32), cơ chế bảo trợ song song với cơ chế giám
hộ là các cơ chế khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích của nhóm chủ thể yếu thế
trong pháp luật Camphuchia, cùng với đó là sự phân định cụ thể những đối tượng,
với những điều kiện nào thì được áp dụng cơ chế bảo vệ đó.
Tuy nhiên, quy định này của Bộ luật dân sự 2015 vẫn tồn tại điểm bất cập
khi người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình không yêu cầu
người giám hộ vì không muốn hoặc không có khả năng, đồng thời Tòa án cũng
chưa tuyên bố họ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì có cần
người giám hộ đối với họ không. Rõ ràng, khi đó người này cần có người giám hộ
nhưng gặp khó khăn vì phải có quyết định của Tòa để xác định họ là người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình và chờ Tòa án chỉ định người giám
hộ.
Về người được giám hộ, Bộ luật dân sự Pháp quy định người được giám hộ
bao gồm: người chưa thành niên mà cả cha và mẹ đều chết hoặc bị tước quyền thực
hiện quyền của cha mẹ và con ngoài giá thú nếu đứa trẻ đó không được cả cha lẫn
mẹ tự nguyện công nhận con (Điều 390); người thành niên có khả năng về tinh thần
bị suy giảm do bệnh tật, do tật nguyền hoặc tuổi tác (Điều 490 và Điều 492). Về cơ
bản, quy định về những người được giám hộ theo pháp luật Pháp cũng tương đồng
với pháp luật Việt Nam (chỉ khác trường hợp khi cha, mẹ có yêu cầu thì người con
chưa thành niên cũng được giám hộ).
1.3.2. Ngƣời giám hộ
Người giám hộ là cá nhân hoặc pháp nhân, thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ
người được giám hộ và đại diện cho người giám hộ trong các giao dịch dân sự vì lợi
ích của người được giám hộ. Người giám hộ được xác định theo quy định của pháp
luật nhưng đề cao tính tự nguyện, bởi ngoài nghĩa vụ làm người đại diện thì việc
chăm sóc, bảo vệ, chữa bệnh cho người được giám hộ muốn đạt hiệu quả cao thì
cần đến cái tâm của người giám hộ.
- Giám hộ là cá nhân
Theo quy định tại Điều 49 Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân có đủ các điều
kiện sau được làm người giám hộ:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.