ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------
VŨ THỊ NGỌC BÍCH
PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC LỊCH SỬ
CỦA KARL POPPER TRONG TÁC PHẨM
“SỰ NGHÈO NÀN CỦA THUYẾT SỬ LUẬN”
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------
VŨ THỊ NGỌC BÍCH
PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC LỊCH SỬ
CỦA KARL POPPER TRONG TÁC PHẨM
“SỰ NGHÈO NÀN CỦA THUYẾT SỬ LUẬN”
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Chủ tịch Hội đồng
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. Nguyễn Vũ Hảo
TS. Trần Thị Điểu
HÀ NỘI – 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC LỊCH SỬ CỦA KARL POPPER 7
1.1 Những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội ....................................... 7
1.1.1 Tác động kinh tế đến sự hình thành tư tưởng phương pháp luận triết
học lịch sử của Karl Popper ........................................................................ 7
1.1.2 Những tác động chính trị và xã hội đến sự hình thành tư tưởng
phương pháp luận triết học lịch sử của Karl Popper .................................. 8
1.2 Những tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng phƣơng pháp luận
triết học lịch sử của Karl Popper.............................................................. 11
1.2.1.Những tiền đề khoa học và công nghệ thế kỷ XX ........................... 11
1.2.2.Các trào lưu triết học duy khoa học ................................................. 13
1.2.3.Quan niệm về triết học lịch sử ......................................................... 22
1.3 Cuộc đời và tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” của Karl
Popper ......................................................................................................... 26
1.3.1. Những nét chính về cuộc đời Karl Popper ..................................... 26
1.3.2.Tác phẩm Sự nghèo nàn của thuyết sử luận .................................... 27
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 29
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC LỊCH
SỬ CỦA KARL POPPER TRONG TÁC PHẨM “SỰ NGHÈO NÀN
CỦA THUYẾT SỬ LUẬN” ......................................................................... 30
2.1 Sự phê phán của Karl Popper đối với “Thuyết sử luận” và quan
điểm “bất định luận lịch sử” ..................................................................... 30
2.1.1.Sự phê phán của Karl Popper đối với “thuyết sử luận” ................... 30
2.1.2 Quan điểm của Karl Popper về “bất định luận lịch sử”................... 34
2.2 Sự phê phán của Karl Popper về quan điểm “chủ toàn” và quan
điểm của ông về phƣơng pháp“phân mảnh”........................................... 37
2.2.1 Phê phán quan điểm chủ toàn .......................................................... 37
2.2.2 Phương pháp phân mảnh ................................................................. 44
2.3. Quan điểm của Karl Popper về phƣơng pháp thực nghiệm ........... 48
2.3.1 Sự ngộ nhận của các nhà sử luận về phương pháp thực nghiệm của
vật lý học ................................................................................................... 48
2.3.2 Sự đối lập của phương pháp thực nghiệm chủ toàn và thực nghiệm
phân mảnh ................................................................................................. 50
2.4. Quan điểm của Karl Popper về phƣơng pháp diễn dịch – giả thuyết ... 53
2.4.1 Phê phán phương pháp quy nạp cổ điển .......................................... 53
2.4.2 Nội dung phương pháp diễn dịch - giả thuyết ................................. 56
2.5 Những giá trị và hạn chế của phƣơng pháp luận triết học lịch sử của
Karl Popper ................................................................................................ 58
2.5.1 Những giá trị của phương pháp luận triết học lịch sử của Karl
Popper ....................................................................................................... 59
2.5.2 Những hạn chế của phương pháp luận triết học lịch sử của Karl
Popper ....................................................................................................... 61
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Nó là sự kế thừa và phát triển những
giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại, là khoa
học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và
giải phóng con người, là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Kể từ khi ra đời đến nay, chủ
nghĩa Mác – Lênin không chỉ đóng vai trò là một học thuyết khoa học mà còn
là con đường giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi
chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới giải phóng con người.
Trong lịch sử triết học đã có rất nhiều quan điểm, học thuyết triết học
hình thành và phát triển trở thành đối tượng của sự phê phán bởi một hoặc
một số học thuyết khác. Không nằm quy luật ấy, chủ nghĩa Mác – Lênin nói
chung và triết học Marx nói riêng đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, bởi nhiều quan điểm, học thuyết triết học khác nhau với nhiều ý kiến kể
cả đồng tình cũng như phê phán. Bên cạnh những tư tưởng phê phán cực
đoan, bị yếu tố chính trị chi phối thì cũng có những ý kiến phê phán trên cơ sở
khoa học đáng để chúng ta xem xét và nghiên cứu. Trong đó có thể kể đến tư
tưởng của Karl Popper – một trong những triết gia rất có ảnh hưởng trong thế
kỷ XX. Với tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” (Chu Lan Đình dịch)
Karl Popper đã đi sâu vào phê phán “thuyết sử luận” (historism), được hiểu là
phê phán chính “quan điểm duy vật lịch sử” và theo ông, triết học Marx chính
là “hình thức phát triển nhất” của chủ nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm thế nào có thể phân tích và đánh giá
được quan điểm, tư tưởng của Karl Popper khi phê phán “thuyết sử luận”? để
thông qua đó thấy được những đóng góp của ông đối với triết học nhân loại?
1
Cần trả lời được vấn đề trên chúng ta mới có cơ sở khoa học để bảo vệ tính
đúng đắn của chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx và đồng thời ghi
nhận những đóng góp của Karl Popper ở khía cạnh nào đó đối với triết học
lịch sử.
Mặt khác, việc nghiên cứu tư tưởng triết học lịch sử của Karl Popper
còn có ý nghĩa quan trọng, ở chỗ nó cũng khẳng định một điều là trong nghiên
cứu khoa học chúng ta không nên cứng nhắc, bảo thủ gạt đi những tư tưởng
phê phán chủ nghĩa Marx. Trái lại, chính điều này càng khẳng định sức sống
của chủ nghĩa Marx nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng cả trên
nhận thức và trong thực tiễn.
Với những lý do cơ bản nêu trên tôi chọn đề tài: Phương pháp luận
triết học lịch sử của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết
sử luận” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu về Karl Popper ở Việt Nam xuất hiện từ
những năm cuối thế kỷ XX. Tiếp cận tư tưởng triết học của Karl Popper có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Trong chuyên khảo “Một số học thuyết về triết học phương Tây hiện
đại” (2001) của Nguyễn Hào Hải, tác giả đã đưa ra những khái quát về chủ
nghĩa thực chứng mới, trong đó có triết học của Karl Popper. Tác giả đã chỉ ra
cách tiếp cận chung của chủ nghĩa thực chứng mới, những điểm khác biệt
trong cách tiếp cận của Karl Popper, từ đó đưa ra những nhận định khái quát.
Do là một tài liệu chuyên khảo về triết học phương Tây, các vấn đề được đề
cập đến rộng, do đó nội dung về triết học Karl Popper còn mang tính khái
quát, chưa đi sâu vào những nội dung cụ thể.
Một hướng tiếp cận mang tính gợi mở về triết học đương đại với nguồn
tư liệu phong phú đó là ấn phẩm “Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX”
2
(2008) và “Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại” (2010) của tác
giả Phan Quang Định. Trong cả hai công trình, đều có đánh giá về triết học
của Karl Popper từ nhiều phương thức tiếp cận lịch sử triết học khác nhau.
Đối với công trình thứ nhất, tư tưởng của Karl Popper được tiếp cận dưới góc
độ logic và lịch sử. Với công trình thứ hai, tư tưởng của Karl Popper được
tiếp cận ở góc độ triết học khoa học.
Tư tưởng triết học của Karl Popper cũng được đề cập đến ở góc độ khái
quát trong dòng chảy của triết học phương Tây hiện đại có thể kể đến giáo
trình “Lịch sử triết học” do Nguyễn Hữu Vui chủ biên và giáo trình “Lịch sử
triết học” do Bùi Thanh Quất chủ biên. Karl Popper được đề cập đến ở hai
công trình này như một đại diện tiêu biểu cho một trào lưu triết học phương
Tây hiện đại thế kỷ XX.
Trong hai ấn phẩm “Diện mạo triết học phương Tây hiện đại” (2006)
và “Lịch sử triết học đại cương” (2010) của Đỗ Minh Hợp, tác giả đã phân
tích tiến trình vận động của triết học khoa học từ Descartes cho tới nay.
Thông qua sự tác động qua lại giữa triết học, xã hội và khoa học đã định hình
hai khuynh hướng triết học khoa học cơ bản: nhận thức luận tiến hóa
(S.Toulmin) và tri thức luận tiến hóa (K.Popper). Từ đó, mở ra hướng tiếp cận
cơ bản về các xu hướng triết học khoa học, tính phức hợp và xu hướng
chuyên sâu trong sự phát triển triết học khoa học.
Trong bài viết của Lương Đình Hải “Karl Popper – xã hội mở và
những kẻ thù của nó” (Tạp chí Triết học, Số 10 (269), tháng 10-2013), bên
cạnh việc chỉ ra tư tưởng triết học của Karl Popper, tác giả còn khẳng định
Popper đã tạo nên một dấu ấn lớn trong lịch sử tư tưởng của thế kỷ XX và dấu
ấn ấy đang tiếp tục in đậm ở những năm đầu thế kỷ XXI hiện nay. Thời kỳ
thống trị của tư duy siêu hình, máy móc đang đi qua, những giá trị và yếu tố
hợp lý trong tư tưởng của Popper cần được nghiên cứu nghiêm túc và tiếp thu
3
nghiêm chỉnh phục vụ cho sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, việc giảng dạy triết học
phương Tây hiện đại nói chung, triết học Popper nói riêng cần được chú trọng
hơn.
Bài viết “Karl Raimund Popper với sự phê phán chủ nghĩa thực chứng
và chủ nghĩa lịch sử” của Nguyễn Tấn Hùng (Tạp chí Triết học, số 2 (261),
tháng 2-2013) đã làm rõ sự phê phán của Popper đối với chủ nghĩa thực
chứng và chủ nghĩa lịch sử, đồng thời đưa ra một số nhận xét về lập luận của
Karl Popper nhằm bác bỏ phương pháp lịch sử.
Những năm gần đây, Tư tưởng triết học của Karl Popper trở thành đối
tượng nghiên cứu trực tiếp của một số luận văn thạc sĩ như: “Tư tưởng triết
học của Karl Popper trong tác phẩm Sự nghèo nàn của thuyết sử luận”
(2014) của Đỗ Thanh Kim, “Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác
phẩm Tri thức khách quan” (2016) của Trần Văn Nội và “Tư tưởng triết học
về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm” (2017) của Nguyễn Thị
Thúy Di. Trong công trình của Đỗ Thanh Kim và Nguyễn Thị Thúy Di, tư
tưởng triết học của Karl Popper được tiếp cận dưới góc độ triết học khoa học.
Với công trình của Trần Văn Nội, tư tưởng triết học của Karl Popper được
tiếp cận dưới góc độ tri thức luận tiến hóa.
Karl Popper được biết đến là một trong những triết gia có nhiều ảnh
hưởng nhất thế kỷ XX. Tuy nhiên tư tưởng triết học của Karl Popper nói
chung và tư tưởng của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết
sử luận” nói riêng chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập trung ở việc phê phán tư tưởng của Karl Popper về
một số quan niệm chống chủ nghĩa Mác và phân tích nội dung triết học khoa
học của ông qua một số tác phẩm. Do vậy, tư tưởng triết học lịch sử của Karl
Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” vẫn còn là một vấn
4
đề rất mới cần được nghiên cứu, đặc biệt ở khía cạnh phương pháp luận triết
học lịch sử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những khía cạnh nội dung phương pháp luận triết học lịch sử
của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận”, từ đó chỉ
ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Trình bày những tiền đề lịch sử của sự hình thành tư tưởng phương
pháp luận triết học lịch sử của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của
thuyết sử luận”.
- Phân tích những nội dung phương pháp luận triết học lịch sử của Karl
Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận”.
- Đánh giá những giá trị và hạn chế phương pháp luận triết học lịch sử
của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận”.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, cụ thể là dựa trên cơ sở lý luận của quan điểm chủ nghĩa duy
vật lịch sử và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề xã hội
và lịch sử phát triển xã hội.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
như: Phương pháp thống nhất giữa logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so
sánh, trừu tượng hóa,…
5
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung phương pháp
luận triết học lịch sử của Karl Popper trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của
thuyết sử luận”, qua đó chỉ ra những đóng góp và hạn chế trong tư tưởng triết
học lịch sử của Karl Popper.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn trong việc nghiên cứu những khía cạnh nội dung chủ
yếu của phương pháp luận triết học lịch sử của Karl Popper trong tác phẩm
“Sự nghèo nàn của thuyết sử luận”(Chu Lan Đình dịch).
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu về tác giả Karl Popper, về tư tưởng
triết học của ông, trọng tâm là tư tưởng phương pháp luận triết học lịch sử, từ
đó góp phần nhận thức về triết học đương đại, nhất là triết học phương Tây,
cụ thể là tác giả Karl Popper.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên
cứu về triết học khoa học của Karl Popper, những công trình nghiên cứu về
triết học lịch sử và đặc biệt là phương pháp luận triết học lịch sử.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn trình bày một cách tương đối hệ thống nội dung phương pháp
luận triết học lịch sử của Karl Popper, góp phần xây dựng không chỉ cái nhìn
mà cả thái độ tích cực đối với triết học phương Tây nói chung, triết học Karl
Popper nói riêng, đồng thời cả đối với triết học Marx.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, nội dung chính gồm 2 chương, 8 tiết, kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo.
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN HÌNH THÀNH
PHƢƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC LỊCH SỬ CỦA KARL POPPER
1.1 Những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội
1.1.1 Tác động kinh tế đến sự hình thành tư tưởng phương pháp luận
triết học lịch sử của Karl Popper
Tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” được viết trong giai đoạn
chiến tranh thế giới thứ hai, là giai đoạn có những biến động to lớn ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước hết cần điểm qua một vài biến động
đáng chú ý trên lĩnh vực kinh tế ở đầu thế kỷ XX.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã làm suy thoái nền kinh tế
toàn cầu, nó diễn ra sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall vào
ngày 29 tháng 10 năm 1929. Cuộc “Đại khủng hoảng” bắt đầu ở Hoa Kỳ, sau
đó nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và các nước khác trên thế giới gây
nên hậu quả khủng khiếp ở nhiều nước. Từ kinh tế, cuộc đại khủng hoảng lan
sang lĩnh vực chính trị, hàng ngàn cuộc biểu tình, đấu tranh đã diễn ra, nhất là
ở các nước tư bản. Đời sống nhân dân hết sức khổ cực, các tầng lớp nhân dân
điêu đứng. Có thế nói đây là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong những cuộc
khủng hoảng kinh tế xảy ra từ xưa đến nay. Nó làm cho những mâu thuẫn
trong xã hội tư bản và mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau càng thêm
gay gắt, chủ nghĩa tư bản thế giới càng thêm suy yếu. Chính từ cuộc đại
khủng hoảng này mà chủ nghĩa phát xít đã ra đời, lên nắm quyền ở Đức, Ý,
Nhật và ráo riết chạy đua vũ trang hòng gây chiến tranh chia lại thế giới. Vì
vậy, cuộc khủng hoảng này bị coi là “đêm trước” của chiến tranh thế giới thứ
hai.
Kinh tế ở nước Áo (quê hương của Karl Popper) cũng có những sự
chuyển biến không nhỏ. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đế chế Áo – Hung
7
tan rã, phân nhỏ thành nhiều quốc gia, điều này đã tác động sâu sắc tới nền
kinh tế nước Áo lúc bấy giờ. Cuộc chiến tranh đã đưa nước Áo lâm vào tình
trạng khủng hoảng nặng nề, đời sống nhân dân khó khăn, túng quẫn. Thủ đô
Vienna là thành phố lớn nhất, đồng thời cũng là một tiểu bang của nước Áo.
Tuy nhiên, nền kinh tế của Vienna cũng phải gánh chịu những ảnh hưởng
nặng nề như đại đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, nhân dân rơi vào
hoàn cảnh thất nghiệp, họ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn và những sức
ép của thời cuộc.
Những chuyển biến trên lĩnh vực kinh tế thế giới nói chung và quê
hương nước Áo của Karl Popper nói riêng đã có những ảnh hưởng không nhỏ
đến quan điểm của các nhà triết học đương thời, đặc biệt là quan điểm triết
học của Karl Popper. Từ những khủng hoảng trong lĩnh vực linh tế, dẫn đến
những khủng hoảng trong lĩnh vực tư tưởng. Các nhà tư tưởng đương thời băn
khoăn trong việc tiếp tục đi theo lý luận cũ hay cần một hệ tư tưởng mới phù
hợp hơn, mang tính cách mạng hơn? Đó là lý do mà ở thời kỳ này, rất nhiều
những tư tưởng, quan điểm triết học mới ra đời dựa trên sự phê phán những
nội dung tư tưởng triết học của các bậc tiền bối hoặc là dựa trên cơ sở của sự
phát triển khoa học kỹ thuật. Karl Popper cũng không nằm ngoài trào lưu này,
tư tưởng của ông đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ so với các bậc tiền bối, thay vì
tiếp tục phát triển hay cổ xúy cho tư tưởng triết học thực chứng thì Karl
Popper đưa ra quan điểm phủ chứng với nhiều nội dung mới mẻ và tính ứng
dụng cao trong bối cảnh đương thời.
1.1.2 Những tác động chính trị và xã hội đến sự hình thành tư tưởng
phương pháp luận triết học lịch sử của Karl Popper
Từ những chuyển biến sâu sắc trên lĩnh vực kinh tế, nhân loại phải đối
mặt với những biến động mang tính lịch sử trên các lĩnh vực chính trị - xã hội.
Điều này tác động rất lớn đến sự chuyển biến tư tưởng của các nhà tư tưởng
8
trong thời kỳ này và Karl Popper cũng không nằm ngoài sự tác động ấy.
Chính vì vậy, sự ra đời của tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” của
Karl Popper phần nào đó đã phản ảnh được những chuyển biến của tư duy
nhân loại.
Bước sang thế kỷ XX, sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 10 Nga
năm 1917 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mở ra một thời kỳ mới
cho nhân loại, đó là thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ
nghĩa xã hội được xác lập. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chủ nghĩa đế
quốc với những đặc điểm mới đang định hình và xuất hiện chủ nghĩa phát xít,
cả hai đều đối đầu với chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Trên thế giới xuất hiện sự đối đầu của hai phe chính là xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa. Sự đối đầu này ngày càng được xác lập rõ ràng trên
trường quốc tế sau hai cuộc đại chiến thế giới. Đặc biệt, cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai là cuộc chiến tranh thảm khốc diễn ra từ 1939 đến 1945, đây là
cuộc chiến giữa các lực lượng đồng minh và phe phát xít. Cuộc chiến này đã
tác động đến hầu hết mọi lục địa trên thế giới (trừ Nam Cực). Nó là cuộc
chiến rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại. Sau cuộc chiến, châu Âu
bị chia làm hai phái: Một phía chịu ảnh hưởng phương Tây do Hoa Kỳ đứng
đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Trật tự hai cực Yalta chi phối
quan hệ quốc tế, nhân loại sống trong sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Bên
cạnh đó, chiến tranh lạnh diễn ra, hai cực Xô – Mỹ ráo riết tăng cường chạy
đua vũ trang.
Tại Vienna, tình hình chính trị - xã hội nửa đầu thế kỷ XX diễn biến
phức tạp, đế quốc Áo – Hung có tham vọng làm chủ khu vực Balkan trong khi
đó nền kinh tế vô cùng lạc hậu, khó khăn, dẫn đến mâu thuẫn dân tộc phức
tạp. Chính sách bành trướng của Áo – Hung vấp phải sự cạnh tranh với đế
quốc Nga, do đó Áo – Hung liên minh với đế quốc Đức để chống lại Nga.
9
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, Áo – Hung tan rã, phân chia thành
nhiều quốc gia. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939 – 1945), nhân
loại chứng kiến sự mất mát to lớn từ thảm kịch hạt nhân ở Nhật Bản, thế giới
bị phá hủy hoang tàn, thảm khốc bởi chính hành động của con người. Nhìn
chung, tình hình chính trị - xã hội của nước Áo cũng chịu những ảnh hưởng
nặng nề trong cả hai lần đại chiến thế giới.
Bối cảnh lịch sử đầu thế kỷ XX với những biến động trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị - xã hội chính là căn nguyên không nhỏ cho sự chuyển biến
và ra đời của các khuynh hướng tư tưởng triết học mới. Đặc biệt, đó là sự ra
đời tư tưởng triết học của Karl Popper và có thể kể đến tác phẩm “Sự nghèo
nàn của thuyết sử luận” với tư tưởng nổi bật đó là nội dung phương pháp luận
triết học lịch sử của ông. Chứng kiến những biến động phức tạp của thế giới
đầu thế kỷ XX, đặc biệt là âm mưu thống trị thế giới của chủ nghĩa phát xít,
sau đó là sự đối đầu của hai cực Xô – Mỹ đại diện cho sự đối đầu của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, Popper đặc biệt căm ghét chế độ cực quyền,
chính vì thế ông phản đối gay gắt chủ nghĩa toàn trị (hay thuyết chủ toàn). Do
đó, ông ủng hộ và bảo vệ khuynh hướng dân chủ và tư tưởng về xã hội mở.
Sự phê phán của Karl Popper đối với thuyết sử luận chính là xuất phát từ quan
điểm ông cho rằng thuyết sử luận diễn giải lịch sử đi theo một quy luật tất yếu
và cuối cùng sẽ đưa đến khuynh hướng toàn trị, từ đó họ không thấy được
những xu hướng đa dạng của lịch sử và đó chính là “sự nghèo nàn” mà
Popper đã phê phán thuyết sử luận trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của thuyết
sử luận”. Thông qua sự phê phán đó, Popper đã đưa ra những phương pháp
triết học lịch sử mới, mà theo ông đó là những phương pháp tiến bộ nhất mà
ông đứng trên lập trường đó để phê phán thuyết sử luận.
10
1.2 Những tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng phƣơng pháp luận
triết học lịch sử của Karl Popper
1.2.1.Những tiền đề khoa học và công nghệ thế kỷ XX
Bước sang thế kỷ XX, loài người vẫn tiếp tục vươn lên mạnh mẽ và đã
gặt hái được nhiều thành tựu khoa học mới, đánh dấu bước chuyển mình lớn
của lịch sử nhân loại. Dưới đây là một số thành tựu khoa học cơ bản ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành nội dung phương pháp luận triết học lịch sử
của Karl Popper. Theo Popper thì trong số những học thuyết khoa học được
phát triển, được đề xướng trong thời kỳ hiện đại có hai lý thuyết đáng lưu tâm
nhất đó là “Thuyết tương đối” của Einstein và “Nguyên lý bất định trong vật
lý lượng tử” của Heisenberg. Bởi vì hai thuyết này “củng cố sự hoài nghi làm
cho ông phải đặt lại những vấn đề để tìm hiểu, nghiên cứu, phát hiện ra những
chân lý xác thực hay nói đúng hơn là để xác thực lại mọi chân lý” [13, tr.169].
Một là, thuyết tương đối của Einstein (Bao gồm: Thuyết tương đối hẹp
được đưa ra vào năm 1905 và thuyết tương đối rộng được đưa ra vào cuối
năm 1915) là một trong những thành tựu vĩ đại của nhân loại. Thuyết tương
đối miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian trong một thực thể thống
nhất là không - thời gian, cũng như giải thích bản chất của lực hấp dẫn là do
sự uốn cong của không - thời gian bởi vật chất và năng lượng. Thuyết tương
đối hẹp miêu tả hành xử của không gian và thời gian và những hiện tượng liên
quan từ những quan sát viên chuyển động đều tương đối với nhau. Thuyết
tương đối rộng tổng quát các hệ quy chiếu quán tính sang hệ quy chiếu
chuyển động có gia tốc và bao gồm lực hấp dẫn giữa các khối lượng với nhau.
Thuyết tương đối làm nên cuộc cách mạng về sự hiểu biết không gian và thời
gian cũng như những hiện tượng liên quan mà vượt xa khỏi những ý tưởng và
quan sát trực giác. Những hiện tượng này đã được miêu tả bằng những
phương trình toán học chính xác và xác nhận đúng đắn bằng thực nghiệm.
11
Sự ra đời của thuyết tương đối là một trong những tiền đề khoa học cho
sự ra đời của triết học thực chứng, một trào lưu tư tưởng triết học châu Âu
phổ biến rộng rãi ở thế kỷ XIX – XX. Trào lưu triết học này luận chứng ý
nghĩa nền tảng của tri thức cụ thể, dựa vào kinh nghiệm có thể kiểm tra được,
có hiệu quả thực hành về mặt triết học, phương pháp luận. Bên cạnh đó, họ ra
sức phê phán siêu hình học trừu tượng của triết học truyền thống. Do chịu ảnh
hưởng của thuyết tương đối của Einstein, Karl Popper đã công khai phê phán
nguyên tắc về khả năng thực chứng của chủ nghĩa thực chứng cổ điển (triết
học thực chứng của A.Comte). Karl Popper cho rằng sự kiểm nghiệm thực sự
của lý luận không nằm ở chỗ chứng thực (kiểm đúng) nó mà là ở chỗ phủ
chứng (kiểm sai) nó để tìm ra nhược điểm của nó.
Hai là, nguyên lý bất định trong vật lý lượng tử là một nguyên lý quan
trọng của cơ học lượng tử, do nhà Vật lý lý thuyết người Đức Werner
Heisenberg phát triển. Theo nguyên lý này thì chúng ta không thể xác định
chính xác cả vị trí lẫn vận tốc (hay động lượng, hoặc xung lượng) của một hạt
vào cùng một lúc. Nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại
lượng kia càng kém chính xác. Sự ra đời của Nguyên lý bất định trong vật lý
lượng tử đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng triết học Karl Popper, đặc biệt
là trong việc bác bỏ quyết định luận.
Bên cạnh những thành tựu trong lĩnh vực vật lý, các lĩnh vực khác như
hóa học, sinh học, các khoa học về trái đất, hải dương học, khí tượng
học…đều đạt được những thành tựu to lớn. Đặc biệt trong lĩnh vực sinh học,
không thể không kể đến Thuyết tiến hóa và di truyền học. Thuyết tiến hóa
được phát hiện bởi Lamark và Ch. Darwin và thuyết di truyền được phát hiện
bởi G.Mendel, sau đó là Morgan. Sự kết hợp của thuyết tiến hóa và di truyền
học đã giúp nhân loại hiểu sâu hơn về chính loài người, đó là một bước tiến
cách mạng trong nghiên cứu sinh học, mở ra thời đại công nghệ sinh học.
12
Cùng với những thành tựu về khoa học tự nhiên thì khoa học xã hội cũng
có những sự phát triển nhất định, mặc dù vẫn còn chậm chạp hơn sự phát triển
của các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên. Sự phát triển của khoa học xã hội theo
khuynh hướng chuyên sâu, khu biệt hóa các lĩnh vực cơ bản, vận dụng các
phương pháp của khoa học tự nhiên vào trong nghiên cứu xã hội.
Như vậy, bước ngoặt có tính cách mạng trong khoa học tự nhiên đã có
ảnh hưởng to lớn đối với triết học và các ngành khoa học xã hội, đặc biệt là trong
nhận thức và các vấn đề phương pháp luận. Điều này cũng đã tác động ít nhiều
đến nhận thức và định hướng tư duy của các nhà triết học đương thời, mà cụ thể
là triết học của Popper. Kế thừa thành tựu của khoa học công nghệ như Thuyết
tương đối của Einstein, Nguyên lý bất định trong vật lý lượng tử, Karl Popper đã
đề xuất quan điểm về “bất định luận lịch sử”. Theo ông, tính bất thường không
được tính đến của các tiên đoán được mô tả bằng một nguyên lý gọi là “nguyên
lý bất định”. Nguyên lý này khi được vận dụng vào việc lý giải các vấn đề trong
khoa học xã hội của Karl Popper được gọi là “bất định luận lịch sử”. Mục đích
chính của việc đưa ra quan điểm bất định luận lịch sử của Karl Popper là để phủ
nhận những tiên đoán lịch sử dài hạn của thuyết sử luận.
1.2.2.Các trào lưu triết học duy khoa học
Từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học
phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng
xoay quanh hai trào lưu chủ yếu là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân
bản duy phi lý. Trong đó duy khoa học là định hướng bền vững cho tri thức,
là niềm tin sâu sắc dành cho rằng khoa học có thể giải quyết tất cả các vấn đề
đang tồn tại. Tiêu biểu cho trào lưu này là chủ nghĩa thực chứng - một khuynh
hướng nhận thức luận của triết học và xã hội học cho rằng phương pháp khoa
học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của tự nhiên, xã hội và con
người. Chủ nghĩa thực chứng xuất hiện vào những năm 1830 do A.Comte,
13
J.S. Mill vè H.Spencer sáng lập. Học thuyết cho rằng mọi tri thức của con
người cần phải được chứng thực, được chứng minh, được kiểm tra bằng kinh
nghiệm, bằng tri giác. Chủ nghĩa thực chứng phát triển qua rất nhiều giai
đoạn: chủ nghĩa thực chứng sơ kì, chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm, chủ nghĩa
thực chứng mới. Karl Popper một đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa hậu thực
chứng. Chủ nghĩa hậu thực chứng ra đời từ những năm 50 là một trào lưu cải
cách trong lòng chủ nghĩa thực chứng mới. Vì vậy trước khi đi vào chủ nghĩa
hậu thực chứng cần điểm qua đôi nét về tư tưởng của những nhà thực chứng
có ảnh hưởng đến sự hình thành nội dung phương pháp luận triết học lịch sử
của Karl Popper.
Một là, tư tưởng triết học thực chứng của A.Comte
Comte sinh ra tại Môngpơlê, và tốt nghiệp Đại học Bách khoa Paris vào
năm 1816. Từ năm 1818 đến 1824 Ông làm thư ký riêng của Saint – Simon.
Từ năm 1830 đến năm 1854, Comte hoàn thành tác phẩm “Tập bài giảng về
triết học thực chứng” bao gồm 6 tập. Một tác phẩm quan trọng khác của
Comte đó là “Hệ thống chính trị thực chứng” (1851 – 1854), nó có liên hệ
mật thiết với việc thành lập Hội thực chứng (1848), tác phẩm này đã luận
chứng cho kế hoạch hoạt động của Hội thực chứng.
Những tư tưởng triết học của Comte đã hình thành dưới sự ảnh hưởng
của Saint Simon. Tuy nhiên, vào những năm 30 -50 của thế kỷ XIX, Comte
đã trở thành một nhà tư tưởng độc lập. Ông đã từ bỏ Saint Simon do có những
sự trái ngược quan điểm không thể dung hòa và lựa chọn tiếp tục nghiên cứu
triết học thực chứng. Comte đã đưa ra thuật ngữ “xã hội học” nhằm nói đến
việc nghiên cứu khoa học rộng rãi về xã hội nhờ cả một hệ thống “các khoa
học thực chứng”.
Phương pháp luận xã hội học, Comte cho rằng vai trò của xã hội học là
góp phần tổ chức lại xã hội và lập lại trật tự xã hội dựa trên các quy luật tổ
14
chức và biến đổi xã hội do xã hội học nghiên cứu phát hiện được. Theo Ông,
cũng giống như các khoa học khác như khoa học tự nhiên, vật lý học, sinh vật
học, xã hội học cũng vận dụng các phương pháp luận vào nghiên cứu để tìm
hiểu bản chất của xã hội và Comte còn gọi xã hội học là vật lý học xã hội. Khi
sử dụng phương pháp thực chứng vào nghiên cứu xã hội, tức là thu thập và xử
lý thông tin, kiểm tra giả thuyết và xây dựng lý thuyết, so sánh và tổng hợp cứ
liệu. Chính vì vậy, Comte phân loại các phương pháp xã hội học thành những
nhóm: 1. Quan sát; 2. Thực nghiệm; 3. So sánh; 4. Phân tích lịch sử. Từ đó,
Comte quan niệm rằng xã hội học là khoa học sử dụng các phương pháp khoa
học thực chứng để nghiên cứu các quy luật biến đổi của xã hội. Các quan
điểm của Comte đã mở đầu cho thời kỳ xây dựng và phát triển một khoa học
mới mẻ mà Comte gọi là xã hội học hay vật lý học xã hội.
Quan niệm về cơ cấu của xã hội học, theo Comte thì xã hội học nghiên
cứu các hệ thống xã hội trên hai cấp độ: Các điều kiện tồn tại, các quy luật
hoạt động của chúng (tĩnh thái xã hội) được nghiên cứu trên một cấp độ; Các
xu hướng, tính tuần tự của các thang bậc phát triển xã hội (động thái xã hội) –
trên cấp độ khác.
Tĩnh học xã hội là bộ phận xã hội học nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ
cấu xã hội, các thành phần và các mối liên hệ của chúng. Lúc đầu, Comte
nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị cấu thành
của cơ cấu xã hội. Comte xem cá nhân với tư cách là một tập hợp, một hệ
thống gồm: Các năng lực và nhu cầu đã có sẵn bên trong cá nhân và các nhu
cầu, năng lực được tiếp thu từ bên ngoài qua quá trình cá nhân tham gia vào
xã hội. Sau đó, quan niệm xã hội của Comte thay đổi, ông cho rằng cá nhân
không phải là "đơn vị xã hội đích thực". Comte coi nghiên cứu về cá nhân là
nghiên cứu thuộc về lĩnh vực sinh vật học, khác hẳn với nghiên cứu xã hội
học chủ yếu phân tích các "đơn vị xã hội". Đơn vị xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng
15
nhất có mặt trong tất cả các đơn vị xã hội khác là "gia đình". Điều thực sự có
ý nghĩa về lý luận xã hội học là quan niệm của Comte về cơ cấu xã hội. Cơ
cấu xã hội bao giờ cũng được tạo nên từ các cơ cấu xã hội khác đơn giản hơn,
gọi là tiểu cơ cấu xã hội. Do đó, hiểu cơ cấu xã hội có nghĩa là nắm bắt được
các đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cơ cấu xã hội.
Cơ cấu xã hội phát triển theo con đường tiến hóa từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở mức độ phân hóa,
đa dạng hóa và chuyên môn hóa chức năng, cũng như mức độ liên kết giữa
các tiểu cơ cấu xã hội. Comte đặt vấn đề nghiên cứu xem làm thế nào duy trì
được mối liên kết giữa các bộ phận (các tiểu cơ cấu xã hội) khi mức độ phân
hóa chức năng ngày một tăng lên trong xã hội. Comte đưa ra cách giải quyết
nhấn mạnh tới vai trò của nhà nước và yếu tố văn hóa, tinh thần xã hội.
Vai trò của nhà nước: Comte cho rằng ngoài sự phụ thuộc lẫn nhau, sự
tập trung quyền lực vào tay nhà nước cho phép điều hòa, phối hợp và liên kết
các bộ phận của hệ thống xã hội đảm bảo chống lại sức ép của sự phân hóa và
phân rã xã hội.
Vai trò của văn hóa, tinh thần: Ngoài hành động "vật chất" của nhà
nước, yếu tố trí tuệ và đạo đức, thiện trí và thiện cảm của các thành viên xã
hội, đóng vai trò là nhân tố duy trì sự liên kết, trật tự xã hội.
Động học xã hội là nghiên cứu các quy luật biến đổi xã hội trong các hệ
thống xã hội theo thời gian. Comte đưa ra học thuyết về ba giai đoạn, với tư
cách là một bộ phận của xã hội học, có liên hệ động thái xã hội đó là: 1. Hệ
thống thần học, hay hư ảo; 2. Hệ thống siêu hình, hay trừu tượng; 3. Hệ thống
khoa học, hay thực chứng.
Theo quy luật ba giai đoạn, mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển
của mỗi giai đoạn sau. Ví dụ, nếu không có hệ thống dòng họ thì khó có thể
phát triển các hệ thống tiếp theo như hệ thống chính trị, luật pháp, quân đội và
16
hệ thống xã hội công nghiệp hiện đại. Lịch sử tiến hóa xã hội diễn ra theo con
đường tích lũy, tiến hóa (các tư tưởng mới, các hệ thống cơ cấu mới được xây
dựng, được bổ sung vào cái cũ); ví dụ, trong xã hội hiện đại, dòng họ không
mất đi, cũng như các tư tưởng thần bí, siêu tự nhiên không hoàn toàn bị biến
mất.
Việc biến đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác không "trôi chảy,
nhẹ nhàng", mà thường trải qua thời kỳ bất ổn định, mâu thuẫn giữa cái cũ và
cái mới. Comte cho rằng, hệ thống văn hóa bao gồm đạo đức và tinh thần quy
định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội.
Dựa vào quy luật ba giai đoạn, Comte cho rằng việc "xã hội học" ra đời
ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa là một tất yếu lịch sử; và xã hội học là
khoa học đứng trên tất cả các khoa học khác. Xã hội học ra đời ở giai đoạn
cuối của quá trình tiến hóa - giai đoạn thực chứng và đó là khoa học phức tạp
nhất, phải dựa trên nền tảng khoa học khác. Vì ra đời muộn nên xã hội học
ngay lập tức đã phải là một khoa học thực chứng và chiếm vị trí cao nhất
trong hệ thống thứ bậc các khoa học.
Như vậy, Comte là người đầu tiên chỉ ra nhu cầu và bản chất của một
khoa học về các quy luật tổ chức xã hội. Comte cho rằng bản chất của xã hội
học là ở chỗ sử dụng các phương pháp khoa học để xây dựng lý thuyết và
kiểm chứng giả thuyết. Quan điểm như vậy của Comte về chủ nghĩa thực
chứng khác hẳn với quan niệm của một số nhà nghiên cứu thế kỷ XIX và thế
kỷ XX. Comte đã chỉ ra được các nhiệm vụ và vấn đề cơ bản của xã hội học.
Xã hội học có nhiệm vụ phát hiện ra các quy luật, xây dựng lý thuyết, nghiên
cứu cơ cấu xã hội (tĩnh học xã hội) và nghiên cứu quá trình xã hội (động học
xã hội). Quan điểm của Comte về tĩnh học xã hội và động học xã hội là tiền
đề cho Popper phân biệt hai khái niệm “xu thế” và “định luật”. Cũng từ quan
điểm này ông phê phán Comte “Khi nói đến những định luật nối tiếp nhau,
17
Comte nghĩ đến những định luật về một loạt những hiện tượng “động lực
học” xảy ra theo trình tự chúng ta quan sát được. Thế nhưng điều quan trọng
là phải nhận thấy rằng những định luật “động lực học” về sự nối tiếp nhau
như Comte quan niệm là không hề tồn tại. Trong động lực học chắc chắn là
không tìm thấy những định luật như thế” [30, tr.200]. Popper phủ nhận những
định luật mà theo Comte đó là nhiệm vụ của xã hội học, những “định luật” đó
theo Popper chỉ là những “xu thế”. Đây cũng là điểm mấu chốt để Popper phê
phán các nhà sử luận.
Hai là, tư tưởng triết học thực chứng của J.S.Mill (1806 – 1873)
J.S.Mill là đại biểu của chủ nghĩa thực chứng xã hội học, đồng thời là
nhà kinh tế học, nhà hoạt động xã hội người Anh. Mặc dù không làm việc tại
Hàn lâm viện mà làm việc tại Công ty Osthindu, nhưng Mill vẫn luôn tích cực
hoạt động khoa học, triết học và chính trị học từ những năm 40 của thế kỷ
XX. Khoảng thời gian 1823 - 1858 Mill hoạt động kinh doanh, tranh thủ làm
quen với các tác phẩm của Saint - Simon, nhưng không tán thành quan điểm
của nhà cộng sản không tưởng này về quyết định luận xã hội trong hoạt động
của con người. Ông luôn ủng hộ chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cải cách.
Mill tán thành rất nhiều quan điểm triết học và logic học của Comte,
đặc biệt là quan niệm của Comte về tri thức khoa học và thái độ của ông ta
đối với triết học, việc phân biệt giữa tĩnh thái và động thái xã hội, cũng như
học thuyết “ba giai đoạn”, xem xét giai đoạn thực chứng như là trạng thái tối
cao của xã hội loài người. Tuy nhiên, Mill lại bác bỏ học thuyết chính trị, xã
hội của Comte hậu kỳ, phát hiện ở đó hiện thân của chủ nghĩa độc tài chính trị
và tinh thần, xem nhẹ tự do và tính cá thể của con người. Mill cho rằng cần
dành cho con người khoảng không tự do, thay vì quàng lên cổ nó một thứ
định mệnh luận xã hội nhân tạo nào đó. Tư tưởng chống đối này được Mill
trình bày trong “A. Comte và chủ nghĩa thực chứng” (1865).
18
Các tác phẩm chính của Mill bao gồm hai tập “Hệ thống logic học”
(1843); “Chủ nghĩa vị lợi”(1863) và “Nghiên cứu triết học của ngài
W.Hamilton” (1865).
Học thuyết về phương pháp luận khoa học của Mill bao gồm: Phương
pháp quy nạp, logic học và học thuyết về tính nhân quả.
Học thuyết về quy nạp được coi là lý thuyết cấu thành cơ sở của học
thuyết về phương pháp luận của Mill. Phép quy nạp của Mill thực chất là sự
kế thừa và phát triển phương pháp quy nạp khoa học do F. Bacon xây dựng
trong điều kiện khoa học thực nghiệm đương đại. Mill đã hoàn thiện các thủ
thuật quy nạp của Bacon. Mill bắt đầu xem xét chúng như là các thủ thuật
nghiên cứu chuyển biến các giả thuyết thành các định luật về quan hệ nhân
quả. Có năm phương pháp như vậy đó là: phương pháp giống nhau duy nhất;
phương pháp khác biệt duy nhất; phương pháp hợp nhất sự giống nhau và sự
khác biệt; phương pháp những phần còn lại; phương pháp những sự biến đổi
đi liền nhau.
Logic học của Mill chính là logic học nghiên cứu khoa học, trọng tâm
của nó được đặt vào các thủ thuật quy nạp. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa
là loại bỏ các thủ thuật diễn dịch, ông chỉ phê phán sự đề cao thái quá phép
diễn dịch và các mệnh đề duy lý, nhưng thừa nhận tác dụng của nó trong nhận
thức khoa học. Mill nghiên cứu tỉ mỉ và đánh giá cao tam đoạn luận, nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc trình bày chính xác tri thức nhận được theo con
đường quy nạp. Song kết luận bằng tam đoạn luận không thể trở thành cái chủ
yếu trong khoa học và do vậy chỉ có ý nghĩa kỹ thuật đối với nhà khoa học.
Học thuyết về tính nhân quả, Mill xem xét tính nhân quả như là mối
liên hệ tương đối ổn định giữa những cảm giác, như là tính tuần tự bền vững
giữa những hiện tượng, như là cái đem lại khả năng tiên đoán những sự kiện
tương lai. Năng lực tiên đoán như vậy, theo Mill cần được tính đến khi xây
19
dựng logic học của các khoa học tinh thần. Nguyên nhân được xác định là
tổng thể mọi hiện tượng (hay những điều kiện cần thiết của chúng) tồn tại
trước một hiện tượng nào đó. Như vậy, nguyên nhân là tổng thể hiện tượng
trong thế giới. Căn cứ trên định hướng chủ quan của mình, chúng ta thường
lựa chọn những hiện tượng tồn tại trước nào đó trong không gian và thời gian
làm nguyên nhân cho một hiện tượng chúng ta chưa biết rõ. Nhưng theo Mill,
khả năng tiên đoán hành vi của con người dựa trên tri thức về nguyên nhân
không cản trở việc bộc lộ ý chí tự do. Quyết định luận cứng nhắc hoàn toàn
không nảy sinh từ quan điểm của Mill về quan hệ nhân quả. Tự do trong bối
cảnh đó là năng lực tự quyết của ý chí con người.
Những quan niệm của Mill, đặc biệt là học thuyết quy nạp và học
thuyết về nhân quả đã có những ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nội dung
phương pháp luận triết học lịch sử của Karl Popper. Đặc biệt là sự ra đời của
phương pháp diễn dịch – giả thuyết của Karl Popper có sự kế thừa ít nhiều
dựa trên phương pháp quy nạp của Mill. Bởi vì Mill không hoàn toàn loại bỏ
các thủ thuật diễn dịch, ông chỉ phê phán sự đề cao thái quá phép diễn dịch và
các mệnh đề duy lý, nhưng thừa nhận tác dụng của nó trong nhận thức khoa
học. Việc kết hợp quá trình đưa ra giả thuyết với việc kiểm tra những hệ quả
sinh ra từ nó bằng diễn dịch trong phương pháp luận của Mill cho phép chúng
ta nói về việc ông nắm bắt trước được phương pháp diễn dịch tiên đề đặc
trưng cho thế kỷ XX. Popper nói: “Phương pháp quy giản những phép khái
quát hóa lịch sử hay những phép khái quát hóa loại khác thành một tập hợp
những định luật mang tính khái quát cao hơn được Mill gọi là “phương pháp
diễn dịch ngược” [30, tr.207].
Ba là, tư tưởng triết học của các nhà Hậu thực chứng
Thế kỷ XIX với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, dẫn
đến những biến đổi to lớn trên nhiều mặt của đời sống xã hội, đặt ra nhiều vấn
20
đề cho nhận thức. Chủ nghĩa hậu thực chứng ra đời từ những năm 50 là một
trào lưu cải cách trong lòng chủ nghĩa thực chứng mới. Chủ nghĩa hậu thực
chứng ra đời đòi xét lại một loạt quan điểm của chủ nghĩa thực chứng mới.
Với các đại biểu tiêu biểu như Karl Popper ,Thomas S.Kuhn và I.Lakatos....
Sự xuất hiện của nó đánh dấu sự chuyển hướng trong việc xác định đối tượng
nghiên cứu của triết học khoa học nửa cuối thế kỷ XX. Một trong những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa hậu thực chứng là sự phát triển của khoa học. Chủ
nghĩa hậu thực chứng đưa ra một loạt mô hình của sự phát triển khoa học.
Chủ nghĩa hậu thực chứng có thể phân chia thành các nhánh khác nhau như:
chủ nghĩa duy lý phê phán; phương pháp luận lịch sử; chủ nghĩa duy lý mới.
Nguyên tắc thực chứng mà các triết gia thực chứng nêu lên, ở chừng
mực nhất định, là những tiêu chuẩn nhằm hiện thực hóa những tri thức của
con người, làm cho con người tránh những lầm lạc vô ích, tránh sự viển vông,
trừu tượng. Chính vì vậy, có thể nói những tưởng của chủ nghĩa thực chứng ít
nhiều thể hiện tư duy khoa học, tác phong lối sống của xã hội công nghiệp.
Đó là tư duy của thời hiện đại, tư duy hợp lý và thực tế theo khoa học chính
xác, tiết kiệm công sức và thời gian, hướng đến hiệu quả và lợi ích thiết thực,
ở khía cạnh khác, nguyên tắc thực chứng để xác minh tính đúng đắn của trí
thức mà chủ nghĩa thực chứng nêu lên có vai trò nhất định trong việc loại bỏ
những giả định mà những định kiến của con người, hoặc tôn giáo đặt ra như là
những hạn chế đối với khoa học. Nó tránh những hậu quả do những quy ước
tùy tiện có thể thay đổi vào bất cứ lúc nào khi mà đại đa số các nhà khoa học
cho rằng sự thay đổi như vậy là cần thiết. Bởi trên thực tế, các tri thức gọi là
khoa học không phải có sự thay đổi.
Việc các nhà thực chứng bằng mọi cách loại bỏ các vấn đề triết học chân
chính khỏi khoa học và tách khỏi nghiên cứu khoa học cụ thể khỏi những tiền
đề có tính chất triết học không những dẫn đến chỗ xuyên tạc mối quan hệ qua
21