Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã có những bước tăng trưởng
đáng khích lệ. Đóng góp vào thành công chung đó không thể không kể đến vai trò
của hoạt động xuất nhập khẩu. Với đặc điểm địa lý của nước ta có hơn 3.000 km
là bờ biển, lại nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Vì vậy vận chuyển bằng
đường biển là phương thức vận chuyển chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Mỗi năm có gần 80% khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển theo
phương thức này, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Cũng như bất kỳ một phương thức vận tải nào, vận tải bằng đường biển cũng
không thể tránh khỏi các rủi ro bất ngờ ngoài ý muốn của các doanh nghiệp. Do
đó,để đảm bảo tài chính cho các nhà xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã ra đời giúp các doanh nghiệp ổn định
được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tránh phá sản khi có rủi ro xảy ra.
Dấu hiệu đáng mừng này hứa hẹn một mảnh đất lý tưởng cho thị trường bảo hiểm
hàng hải Việt Nam nương mình và phát huy. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm nước nhà
cần phát huy tất cả nguồn lực có thể và khắc phục những khiếm khuyết hiện tại để
hoạt động hiệu quả hơn, để thích nghi và tồn tại trước sự cạnh tranh của các công
ty bảo hiểm nước ngoài
Dưới đây là bài phân tích của nhóm chúng tôi về đề tài:”Một số vấn đề
xung quanh bảo hiểm vận tải đường biển Việt Nam”
1
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
MỤC LỤC
Chương 1.Tình hình chung về bảo hiểm đường biển Việt Nam
1.1.Tình hình chung về thị trường.......................................................................................3
1.2.Các công ty bảo hiểm Việt Nam....................................................................................4
Chương 2.Các tình huống thực tế xảy ra đối với vấn đề bảo
hiểm hàng hải
2.1.Trục lợi bảo hiểm..........................................................................................................9
2.2.Một số vụ kiện tiêu biểu liên quan đến bảo hiểm hàng hóa đường biển................14
Chương 3.Một số kinh nghiệm rút ra......................................21
2
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
NỘI DUNG
Chương 1T ình hình chung về bảo hiểm đường biển Việt Nam
1.1.Tình hình chung về thị trường
1.1.1.Số lượng tàu biển
Theo thống kê đến cuối năm 2009, đội tàu biển Việt Nam gổm 1.588 tàu,
tổng GT 3.865.702, tổng trọng tải DW 6.242.677. Đội tàu do VR phân cấp là
1.620 tàu tổng GT 4.281.469, tổng trọng tải DW 6.991.394, trong đó có 58 tàu treo
cờ nước ngoài.
Đội tàu biển Việt Nam đã mở rộng phạm vi hoạt động khắp thế giới, nhiều
tàu cho thuê định hạn dài ngày ở nước ngoài không về nước yêu cầu phải thực
hiện kiểm tra phân cấp tại nước ngoài, một số tàu phải sửa chữa và kiểm tra tại
nước ngoài do trong nước không đủ nhà máy sửa chữa tàu.
Chất lượng công tác giám sát kỹ thuật tiếp tục được cải thiện tốt hơn, công
tác thanh tra, tổng kiểm tra với các tàu đóng mới chạy tuyến Quốc tế và tàu cao
tuổi tại các đợt kiểm tra định kỳ được duy trì đều đặn: Phát hiện và ngăn ngừa
khiếm khuyết tránh lưu giữ tàu, đào tạo và nâng cao được chất lượng, ý thức của
đăng kiểm viên hiện trường, nâng cao được ý thức của chủ xưởng, chủ tàu trong
việc đóng mới và sửa chữa tàu, tạo được kênh thông tin nhanh chóng, chặt chẽ
giữa bộ phận xét duyệt thiết kế, chỉ đạo giám sát kỹ thuật với công tác kiểm tra
hiện trưòng để có những điều chỉnh nhanh chóng cần thiết trong mọi khâu của
công tác giám sát kỹ thuật.
Tỷ lệ tàu biển Việt Nam bị lưu giữ tại các Cảng nước ngoài giảm xuống
còn 6% so với 10% năm 2008.
Trong năm 2009 toàn ngành đã thực hiện 1.603 lượt kiểm tra tàu biển.
Với việc gia tăng các đội tàu biển, rõ ràng thị trường bảo hiểm cho lĩnh vực
hàng hóa đường biển cũng đang có xu hướng mở rộng dần. Bên cạnh đó hàng hóa
xuất cảng đang tăng dần qua các năm, cũng là một nhân tố quan trọng bổ sung vào
sự phát triển chung cho thị trường này.
1.1.2.Tình hình hàng hóa xuất cảng
Cho đến nay Việt Nam hiện có 266 cảng biển lớn nhỏ tại 24 tỉnh, thành
vùng duyên hải. Trong đó, 9 cảng có khả năng cải tạo, nâng cấp để tiếp nhận tàu
3
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
50.000 DWT (loại tàu trung bình của thế giới) hoặc tàu chở container đến 3.000
TEU.
Ở khu vực miền Bắc, hàng hoá chủ yếu được vận chuyển qua cảng Hải
Phòng và Cái Lân. Cảng Hải Phòng hiện có quy mô lớn gấp 8 lần cảng Cái Lân,
có thuận lợi là gần thủ đô Hà Nội. Một chuyên gia nước ngoài cho rằng Chính
phủ Việt Nam cần tập trung đầu tư hơn nữa cho cảng Hải Phòng, nhất là nâng
mức mớn nước lên trên 20m để các tàu có trọng tải lớn có thể cập cảng.
Tại miền Trung, hai cảng lớn Đà Nẵng và Quy Nhơn chỉ đáp ứng 2%
lượng hàng hoá vận chuyển của cả nước. Con số này chứng tỏ lượng hàng hoá
vận chuyển qua hệ thống cảng miền Trung là không nhiều.
Tại miền Nam, hệ thống cảng gồm: Cát Lái, VICT, Sài Gòn, Bến Nghé,
ICP Phước Long, New Port ICP, Cái Mép - Thị Vải, Vũng Tàu, Hiệp Phước...
hiện đang bị quá tải.
Dưới đây là bảng thống kê số lượng hàng hóa xuất cảng ở Việt Nam qua
các năm
Bảng 1: Sản lượng hàng hoá xuất cảng ở Việt Nam qua các năm
Chỉ tiêu Đơn vị 2001- 2005 2006 2007 2008
Lượng hàng qua
cảng
Triệu tấn 575 154,498 181,116 176,124
1.2.Các công ty bảo hiểm Việt Nam
Theo thống kê của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm - Bộ Tài Chính: Thị
trường bảo hiểm nước ta phát triển rất nhanh, nếu như năm 1995 cả nước mới chỉ
có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm thì đến nay đã có tới 50 doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực này. Trong đó, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 28
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1
công ty tái bảo hiểm…
Thị trường bảo hiểm vận tải hằng hải Việt Nam hiện có 11 công ty, tổ chức
tham gia thị trường bảo hiểm (Trên thực tế chỉ có 7 công ty hoạt động chiếm thị
phần chính với khoảng 15% - khoảng 6% hàng xuất được bảo hiểm trong nước và
24% với hàng nhập) thị phần bảo hiểm như : tập đoàn bảo việt, Công ty bảo hiểm
TP. Hồ Chí Minh (Bảo Minh) – tách ra từ chi nhánh Bảo Việt TP. Hồ Chí Minh,
Công ty môi giới bảo hiểm và tái bảo hiểm Ichinbrok (Liên doanh giữa Bảo Việt
và tập đoàn bảo hiểm Inchcape), Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam
(VINARE), và một số công ty cổ phần như Bảo Long, PVIC, Pjico… Bên cạnh đó
4
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
các văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng đã có mặt hoạt
động tại Việt Nam như AGF (Assurance Général De France), Tokyo Marine And
Fire Ins, Yasuada Marine And Fire Ins, Mitsui Marine And Fire Ins, Jardine
Broker… trong đó nổi hơn cả và chiếm thị phần nhiều nhất là Bảo Việt, Bảo
Minh, Pjico chiếm thị phần lớn nhất
Kết quả năm 2009 doanh thu phí bảo hiểm đạt 25.473 tỉ đồng, trong đó:
doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 13.616 tỉ đồng tăng 2.738 tỉ đồng đồng so
với năm 2008 (tương đương 25,16%), doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 11.857 tỉ
đồng (tăng 14%)
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển năm 2008 đạt doanh thu 955 tỉ đồng, tăng
36,8% so với cùng kỳ năm 2007. Dẫn đầu là Bảo hiểm Bảo Việt 267 tỉ đồng,
PJICO 137 tỉ đồng, Bảo Minh 135 tỉ đồng
Sang Năm 2009, kim ngạch xuất nhập khẩu giảm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến bảo hiểm hàng hóa, nhưng các doanh nghiệp vẫn tích cực khai thác để đạt
doanh thu toàn thị trường được 952 tỉ đồng (giảm .314 %) so với 2008. Top đầu
doanh thu Bảo Việt 267 tỉ đồng, tiếp đến PJICO 130 tỉ đồng, PVI 90,3 tỉ đồng, Bảo
Minh 90,2 tỉ đồng, VIA 49 tỉ đồng. Toàn thị trường đã bồi thường 494 tỉ đồng
tương đương 51,86%.
(Thị phần bảo hiểm hàng hóa vận chuyển 2005-2008 )
năm 2005 2006 2007 2008 2009
Bảo Minh 20 18 20 14.34 9.5
Bảo Việt 28 25 27 28 28.05
Pjico 20 24 12 14.35 13.7
khác 32 33 41 43.31 48.75
( đơn vị tính %)
5
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
1.1.3.Bảo Việt
Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo
Việt ngày nay tiền thân là Công ty Bảo hiểm
Việt Nam được thành lập theo Quyết định số
179/CP ngày 17/12/1964. Thành lập ngày
15/1/1965, đến nay Bảo Việt đã trở thành Tập
đoàn Tài chính - Bảo hiểm hàng đầu Việt Nam.
Không chỉ có mạng lưới 7 rộng khắp trên toàn
quốc, Bảo Việt còn được biết đến là thương
hiệu mạnh, uy tín số 1 trong lĩnh vực bảo hiểm.
Với khả năng tài chính mạnh, sự thông hiểu thị
trường trong nước, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam kinh doanh cả
2 loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Bảo Việt đã được công nhận là một
trong số 25 doanh nghiệp lớn nhất của Việt Nam; là doanh nghiệp bảo hiểm lâu
đời, được tin cậy đối với đông đảo các tầng lớp dân cư, cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp.
Năm 1989 đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Bảo Việt khi Công
ty bảo hiểm Việt Nam được Chính phủ chuyển đổi thành Tổng Công ty Bảo hiểm
Việt Nam theo Quyết định số 27-TCQĐ-TCCB ban hành bởi Bộ Tài chính ngày
17/2/1989. Sự chuyển biến quan trọng trên có được là nhờ vào việc thực hiện
thành công chủ trương mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, tạo
ra sự phát triển vượt bậc về qui mô kinh doanh. Ngày 31/5/2007 đánh dấu một sự
kiện, một mốc lịch sử quan trọng của Bảo Việt, đó là việc Bảo Việt bán cổ phần
lần đầu ra công chúng chính thức trở thành công ty cổ phần kinh doanh đa ngành,
đa lĩnh vực. Ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt đã hoàn thành Đăng ký kinh
doanh công ty cổ phần có sự tham gia của đối tác chiến lược là các tập đoàn kinh
tế hàng đầu trong nước (Vinashin) và nước ngoài (HSBC Insurance (Asia - Pacific)
Holdings Limited); hình thành Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt. Trong
suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Bảo Việt đã vinh dự được Đảng
và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc Lập Hạng Ba, Chính phủ xếp hạng
Doanh nghiệp Nhà nước hạng Đặc biệt và nhiều danh hiệu, giải thưởng do các tổ
chức uy tín của trong và ngoài nước trao tặng. Bảo Việt được tổ chức BVQI
(Vương quốc Anh) cấp chứng chỉ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO
9001:2000 từ tháng 8/2001.
Về hoạt động kinh doanh, trong quá trình phát triển, Bảo Việt liên tục đạt
được những thành tích vượt trội, doanh thu, lợi nhuận và các khoản đóng góp ngân
sách Nhà nước liên tục tăng, doanh thuphí bảo hiểm tăng bình quân trên 20% trong
5 năm qua. Năm 2007, tổng doanh thu kinh doanh của Tập đoàn Tài chính – Bảo
hiểm Bảo Việt đạt 7.800 tỷ đồng, tăng trưởng 13,5% so với năm 2006. Tổng tài
sản đạt 28.581 tỷ đồng (tính đến ngày 15/10/2007).
6
Nhóm thực hiện: Busan GVHD: Thầy Hoàng Lâm Cường
Về nhân sự, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất của Việt Nam có
quy mô với các chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc, thu hút một lực lượng đông
đảo cán bộ nhân viên lên tới trên 5.000 người, với khoảng 34.000 đại lý tận tâm
với khách hàng, tận tình với công việc trải đều trên khắp các tỉnh thành. Trong số
đó, nhiều cán bộ có kinh nghiệm am hiểu thị trường bảo hiểm Việt Nam và nhiều
cán bộ trẻ được đào tạo chuyên ngành chính quy có trình độ chuyên môn cao, tạo
ra một lực lượng đan xen đồng bộ nhằm mang lại dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
Là một Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm kinh doanh đa ngành, với ngành nghề chính
là kinh doanh bảo hiểm, Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt có công ty mẹ -
“Tập đoàn Bảo Việt” và các công ty con:
Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2009 tổng doanh thu trong
linh vực bảo hiểm đạt 7.377 tỉ đồng, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ
đạt 3.718 tỉ đồng. Đứng đầu bảo hiểm vận chuyển hàng hóa tại thị trường Việt
Nam. Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ đứng thứ hai chỉ sau Prudential 4.730 tỉ
đồng) bảo hiểm thân tàu , bảo hiểm Tài sản thiệt hại ( sau PVI), thứ ba thị phần về
Bảo hiểm Cháy nổ và mọi rủi ro tài sản.
1.1.4. Bảo Minh
Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước
đầu tiên được thành lập sau Nghị định 100/CP. Ra đời trên
cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí
Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là
Bảo Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày
01/01/1995, được phép hoạt động trên phạm vi cả nước và
quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại hình nghiệp vụ bảo
hiểm. Từ 1995 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có
nhiều thay đổi khi có chính sách mở cửa hoàn toàn, đặc biệt
là thị trường bảo hiểm.
Thách thức lớn đối với các công ty bảo hiểm trong nước là phải có đủ khả
năng cạnh tranh quốc tế. Nhằm mục tiêu tạo ra một tổng công ty bảo hiểm phi
nhân thọ mạnh nhất thị trường có đủ khả năng đó, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ
Chí Minh (Bảo Minh) đã chính thức chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành
Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 27 GP/
KDBH ngày 08/9/2004 của Bộ Tài chính. Đây là một công ty cổ phần gồm 11 cổ
đông sáng lập gồm các Tổng Công ty lớn của Nhà nước như: Tổng Công ty Hàng
không, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng Công ty
Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt
Nam .v.v.. Tiếp đó, Hội đồng Quản trị Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh đã ban
hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Bảo Minh Hà Nội (gọi tắt là Bảo
7