Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thương hiệu Quốc gia và các chữ "Made"!

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.21 KB, 9 trang )

Thương hiệu Quốc gia và các chữ
"Made"!

"...Xây dựng thương hiệu quốc gia theo kiểu “hạ quyết tâm”,
“hướng ra thế giới”, “dàn hàng ngang tiến lên”, “làm tốt mọi thứ”,
“nâng cấp mọi thứ”, “đáp ứng mọi nhu cầu”, muốn “made in
Vietnam” và “made by Vietnam” có mặt khắp mọi nơi, chắc chắn
sẽ dẫn đến thất bại...“Made in Vietnam” và “made by Vietnam”
không tạo nên thuộc tính của thương hiệu quốc gia. Thuộc tính
của thương hiệu quốc gia phải gắn liền với sự khác biệt
(differentiation) và chất lượng cảm nhận (perceived quality).
Thuộc tính là, khi nói đến tên quốc gia, người ta liên tưởng đến
điều gì; điều đó có gì khác biệt so với các quốc gia khác".
Chuyên mục Thương hiệu quốc gia của Thời báo Kinh tế Sài Gòn
số 31, ngày 24-7-2008 có bài viết của tác giả Giản Tư Trung với
tựa đề “Made in” hay “made by”?, trong đó có những phân tích rất
sâu sắc về hai khía cạnh “made in Vietnam” (làm tại Việt Nam) và
“made by Vietnam” (tạo ra bởi người Việt). Trong bối cảnh có quá
nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề thương hiệu quốc gia,
trong đó, có cả những quan điểm trái ngược nhau, bài viết của
tác giả đã gợi mở một cách nhìn mới vượt ra khỏi phạm vi lãnh
thổ của quốc gia, hướng đến cộng đồng người Việt ở nước
ngoài, hướng đến các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam
đang hoạt động ở nước ngoài, xem đó là những tác nhân không
thể thiếu trong hoạt động xây dựng thương hiệu quốc gia.
Tuy vậy, cần phải hiểu rằng, thương hiệu quốc gia không chỉ
dừng lại ở “made in” hay “made by”. “Made in” hay “made by”,
suy cho cùng, chỉ liên quan đến sản phẩm cụ thể - được làm ra ở
đâu, làm ra bởi ai. Nếu chỉ là sản phẩm hay dịch vụ thì cần phải
kể luôn đến những dạng “made” sau đây:
- “Made for” (làm cho ai); ví dụ, hàng dệt may Việt Nam (made in


Vietnam), nhưng lại làm cho thị trường Mỹ (made for USA), nên
chất lượng phải cao, và Việt Nam cũng tự hào khi làm được hàng
chất lượng cao để xuất cho thị trường khó tính như Mỹ;
- “Made of” (làm bằng gì); ví dụ bàn, ghế xuất khẩu làm bằng gỗ
quý hiếm;
- “Made from” (làm từ thứ gì); ví dụ bia Heineken, làm ở Việt
Nam, nhưng lại làm từ một loại lúa mạch đặc biệt nào đó tận
châu Âu, nên mới ngon;
- “Made under licence of” (làm theo giấy phép của ai); ví dụ, An
Phước của Việt Nam có thể may quần áo theo giấy phép của
Pierre Cardin, chất lượng không thua kém Pierre Cardin chính
gốc...
Và như vậy, gắn với sản phẩm, không chỉ có “made in” và “made
by” mà còn nhiều kiểu “made” khác và hễ có từ “Vietnam” theo
sau là tốt rồi, vì khi đó hình ảnh của Việt Nam sẽ được nâng cao,
tên gọi Việt Nam sẽ được nhiều người biết đến...
Điều đáng bàn là thương hiệu quốc gia không chỉ giới hạn trong
phạm vi sản phẩm hay dịch vụ cụ thể của quốc gia hay của
những người sống ở nước ngoài nhưng có gốc gác thuộc quốc
gia. Thương hiệu quốc gia càng không phải là “tổng hợp của mọi
thứ mà người ta có thể thực hiện được một cách tốt nhất cho thế
giới và đóng góp nhiều nhất cho thế giới”.
Đã nói đến thương hiệu, không thể không nói đến định vị
(positioning) và thuộc tính hay sự liên tưởng thương hiệu (brand
association). Thương hiệu quốc gia cũng không nằm ngoài quy
luật này. Không thể định vị thương hiệu quốc gia theo kiểu làm tốt

×