DÙNG L Ờ
I TH ƠVÀ CA T ỪĐỂ D Ạ
Y TỐ
T
PH Ầ
N T ỪLO Ạ
I TI Ế
NG VI Ệ
T CHO SINH VIÊN ĐẠI H Ọ
C
TS. TRƯƠNG THỊ DIỄM
(Đại học Đà Nẵng)
Trong giảng dạy nói chung và giảng dạy ngữ văn nói riêng, dạy theo quan điểm tích hợp đang là
phương pháp chiếm ưu thế. Giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy các tri
thức, kĩ năng riêng của từng phân môn. Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri thức, kĩ năng
thuộc từng phân môn thật nhuần nhuyễn. Nguyên tắc tích hợp diễn ra theo nhiều hướng và một
trong những hướng đó là giúp hấp thụ kiến thức nội dung môn học khác qua nội dung đang dạy
và ngược lại có thể tận dụng kiến thức của môn học khác để giúp người học tiếp thu tốt môn học
này.
Qua thực tiễn giảng dạy môn Tiếng Việt cho sinh viên trong nhiều năm, chúng tôi nhận thấy
rằng: so với phần từ vựng, phong cách, phần ngữ pháp là phần mà người giảng dạy khó có thể
vừa truyền thụ đầy đủ kiến thức, vừa có thể được sinh viên đánh giá là dạy hấp dẫn, dạy "hay".
Tất cả những người nghiên cứu, giảng dạy tiếng Việt, từ trước đến nay, luôn tìm các phương
pháp để giúp người học không "sợ", không "ngán" môn Tiếng Việt mà ngược lại thấy yêu tiếng
Việt và từ đó sẽ nói và viết đúng tiếng Việt. Với mục đích khiêm tốn như vậy, các tác gia ngữ
pháp tiếng Việt và các giảng viên bộ môn ngữ pháp đã không ngừng tìm tòi, đưa ra những hệ
thống bài tập thực hành ngữ pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. Có thể kể một vài cuốn
sách bài tập ngữ pháp đã xuất bản như: Thực hành ngữ pháp tiếng Việt của Diệp Quang Ban và
Hoàng Văn Thung, Nxb GD 1993, Bài tập ngữ pháp tiếng Việt của Đỗ Thị Kim Liên, Nxb GD
2002, Rèn luyện ngôn ngữ- Bài tập tiếng Việt thực hành của Phan Thiều, Nxb GD 1998...
Trên tinh thần tiếp thu những kết quả của các tác giả đi trước, chúng tôi xin được "góp nhặt" và
trình bày một số kiểu bài tập phù hợp với đối tượng giảng dạy của mình. Trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi xin được giới hạn ở phần "Từ loại tiếng Việt".
Trước hết, chúng tôi xác định các thông tin về đối tượng giảng dạy - người học: tuổi tác, thị
hiếu, trình độ hiểu biết... Người học của chúng tôi là sinh viên đại học có tuổi đời từ 17 trở lên. Ở
độ tuổi này, không thể không có một niềm say mê đối với thơ, nhạc. Đây cũng là độ tuổi vừa đủ
để có một vốn sống nhất định, một vốn kiến thức âm nhạc nhất định.
Thứ hai là nội dung giảng dạy. Nội dung bài giảng của chúng tôi là "Từ loại tiếng Việt". Phạm
trù từ loại tiếng Việt là một vấn đề khá phức tạp, việc phân chia từ loại, các tiểu loại trong mỗi từ
loại là rất chi li dễ gây cảm giác nặng nề khi trình bày phần lý thuyết. Tiếng Việt lại thuộc loại
hình ngôn ngữ đơn lập, từ không biến hình nên việc xác định tư cách từ loại của một từ phải dựa
vào cả 3 tiêu chí: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp của từ. Nghĩa là không
thể xác định tư cách từ loại của một từ nếu không dựa vào ngữ cảnh. Hơn nữa, hiện tượng các từ
có cùng hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về tư cách từ loại trong tiếng Việt là rất phổ biến.
Thông qua việc phân biệt tư cách từ loại của những từ này, người học sẽ nhận thức được một
cách sâu sắc các đặc trưng ngữ pháp của mỗi từ loại và đặc điểm hoạt động của chúng. Hệ thống
bài tập cũng nhằm giúp sinh viên hiểu sâu hơn về hiện tượng chuyển loại - một hiện tượng phổ
biến trong tiếng Việt.
Để có ngữ liệu ra bài tập thực hành cho sinh viên, chúng tôi đã sử dụng các phần mềm tin học,
nghe các đĩa nhạc, đọc các tuyển tập âm nhạc và thực hiện điều tra xã hội học, lấy ý kiến người
học nhằm xây dựng một hệ thống bài tập phong phú, đa dạng và hấp dẫn.
Các dạng bài tập mà chúng tôi cho sinh viên thực hành bao gồm các loại sau:
1. Xác định từ loại của tất cả các từ trong văn bản.
Ví dụ: (đề và đáp án)
- Bây giờ / tháng / mấy / rồi / hả / em?
đại từ danh từ đại từ phó từ tình thái từ danh từ
- Yêu / nhau / kéo / áo / đắp / chung
động từ đại từ động từ danh từ động từ tính từ
(từ nhau có tác giả cho là đại từ tương hỗ, có tác giả cho là phó từ tương hỗ)
- Chị / buồn / quay / đi / không / nhìn / lá, / để /gió / quê /vi vút,/
dt tt đgt pht pht đgt dt kt dt dt tt
diêu bông / hỡi, / diêu bông / hời.
dt ttht dt ttht
Đối với loại bài tập này, sinh viên phải vạch ra được ranh giới giữa các từ rồi sau đó mới xác
định từ loại cho mỗi từ.
2. Tìm và nhặt ra 1 từ loại hoặc tiểu loại từ nào đó trong văn bản.
Ví dụ:
a) Hãy gạch chân dưới những danh từ chỉ loại (loại từ) trong đoạn văn sau: (đề và đáp án)
Anh còn nhớ con đò xưa, nhớ dòng sông mênh mông thuở trước. Mùi hương cây trái chín trong
vườn. Anh còn nhớ luỹ tre làng, hàng dừa nghiêng mình đong đưa, đường vào nhà em
vàng tia nắng thưa. Anh còn nhớ mái đình xưa, ngôi trường xưa ê a giọng hát, gọi ve bắt bướm
những trưa hè. (Vi Nhật Tảo, Chuyến đò quê hương)
b) Liệt kê các tính từ có trong đoạn văn trên: (đáp án)
xưa, mênh mông, chín, vàng, thưa, ê a.
Đối với dạng bài tập này, yêu cầu sinh viên phải có những hiểu biết sâu hơn về các tiểu loại từ.
Muốn chọn đúng, không thừa, không thiếu thì phải hiểu và phân tích kĩ các đặc điểm từ loại của
từ.
3. Gọi tên từ loại của từ được đánh dấu. Ví dụ:
Hãy xác định từ loại, tiểu loại của những từ được gạch chân trong những ví dụ sau đây: (đề
và đáp án)
a) có :
- Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi. Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho
tôi. (Trịnh Công Sơn, Nhớ mùa thu Hà Nội)
có : thuộc nhóm động từ tồn tại
- Từ nay tôi đã có người, có em đi đứng bên đời líu lo. (Trịnh Công Sơn, Đoá hoa vô thường)
có : thuộc nhóm động từ sở hữu
- Nắng có còn hờn ghen môi em (Trịnh Công Sơn, Như cánh vạc bay)
có : thuộc nhóm phó từ chỉ sự khẳng định, phủ định
b) còn:
- Vẫn thấy bên đời còn có em. Tấm lòng em như lá kia còn xanh. (Trịnh Công Sơn, Vẫn có em
bên đời)
còn : là phó từ chỉ sự tiếp diễn
- Em còn nhớ hay em đã quên. (Trịnh Công Sơn, Em còn nhớ hay em đã quên)
còn : là phó từ chỉ sự tiếp diễn
- Ta còn em, cây bàng mồ côi mùa đông (Phú Quang, Em ơi Hà Nội phố)
còn : là động từ tồn tại
- Nắng tắt còn em đứng mãi đây. Em đứng bên cầu đợi anh. (Vũ Quần Phương-Huy Thục, Đợi)
còn : là kết từ đẳng lập
c) cùng:
- Em cùng lá tung tăng như loài chim đến. Và đã hót giữa phố nhà. (Trịnh Công Sơn, Tuổi đời
mênh mông)
cùng : kết từ đẳng lập
- Để cùng ngâm khúc ca dao quê mùa (An Thuyên, Ca dao em và tôi)
cùng : phó từ chỉ sự so sánh, đối chiếu
d) lên:
- Đường đi suốt mùa, nắng lên thắp đầy (Trịnh Công Sơn, Hạ trắng).
lên: động từ chuyển động
- Em đứng lên gọi mưa vào hạ (Trịnh Công Sơn, Gọi tên bốn mùa).
lên : phó từ chỉ hướng
e) đi
- Em đi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằm ngủ (Trịnh Công Sơn, Biết đâu nguồn cội).
đi: động từ chuyển động
- Ngủ đi em, tóc gió thôi bay! (Trịnh Công Sơn, Biết đâu nguồn cội)
đi: tình thái từ
- Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi (Phan Thị Thanh Nhàn, Hương thầm)
đi: phó từ chỉ hướng
- Thu đi cho lá vàng bay (Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Lá đổ muôn chiều).
- đi: động từ chuyển động
Chúng tôi phân tích hiện tượng cùng một hình thức ngữ âm nhưng do có ý nghĩa khái quát khác
nhau, do chức năng ngữ pháp trong cụm từ, hoặc do chức vụ cú pháp trong câu khác nhau mà
các từ sẽ có tư cách từ loại khác nhau. Thử so sánh: lên1 trong "nắng lên" và lên2 trong "em
đứng lên". Ta thấy lên1mang ý nghĩa chỉ quá trình,hoạt động, là vị ngữ trả lời cho câu hỏi:"nắng
như thế nào, nắng làm gì" nên nó là động từ; lên2 mang nghĩa chỉ hướng, bổ nghĩa cho động từ
"đứng" và đã có "đứng" là động từ làm vị ngữ chính, vậy lên2 là phó từ chỉ hướng...
4. Trắc nghiệm (chọn đáp án đúng) về tư cách từ loại của từ được đánh dấu. Ví dụ:
* Hãy xác định từ loại của từ được gạch chân: (đề và đáp án)
- Ngày xuân bước chân người rất nhẹ, mùa xuân đã qua bao giờ (Trịnh Công Sơn, Đêm thấy ta
là thác đổ).
a) động từ; b) phó từ; c) tính từ; d) kết từ
- Một hôm bước qua thành phố lạ, thành phố đã đi ngủ trưa (Trịnh Công Sơn, Đêm thấy ta là
thác đổ)
a) động từ; b) phó từ; c) tính từ; d) kết từ
-Ta là ai mà còn khi rơi lệ, ta là ai mà còn trần gian thế (Trịnh Công Sơn, Tôi ơi, đừng tuyệt
vọng)
a) động từ; b) danh từ; c) tính từ; d) cả 3 đều sai
- Mưa ngoài sông bay, lời ca anh nhỏ nỗi lòng anh đây (Trịnh Cung - Trịnh Công Sơn, Cuối
cùng cho một tình yêu).
a) động từ; b) phó từ; c) tính từ; d) cả 3 đều sai
- Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già (Trịnh Công Sơn, Biết đâu nguồn cội).
a) động từ; b) trợ từ; c) đại từ; d) cả 3 đều sai
Chúng tôi lý giải những trường hợp cùng hình thức ngữ âm nhưng có những tư cách từ loại khác
nhau trong những ngữ cảnh khác nhau, lý giải các trường hợp chuyển di từ loại.
Bước đầu đưa hệ thống bài tập này áp dụng vào giảng dạy cho sinh viên Đại học Ngoại ngữ Đà
Nẵng và sinh viên Khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm Đà Nẵng, chúng tôi đã thấy có hiệu quả rõ
rệt. Đa số sinh viên tỏ ra rất hứng thú khi làm bài tập và họ tự giác tiếp thu các kiến thức lý
thuyết để làm tốt bài tập. Ngược lại, việc làm thật nhiều bài tập đã giúp sinh viên hiểu sâu hơn
các kiến thức vốn khô khan của ngữ pháp học.
Chúng tôi mong muốn sẽ xây dựng một chương trình phần mềm tin học về bài tập trắc nghiệm
tiếng Việt. Trong một khoảng thời gian nhất định, sinh viên phải hoàn thành số lượng câu hỏi
trắc nghiệm nhất định và được máy tính chấm điểm. Sinh viên có thể biết câu trả lời của mình là
đúng và tại sao đúng, sai và tại sao sai. Với loại bài tập này, sinh viên vừa được nâng cao kiến
thức ngôn ngữ, nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ vừa được rèn luyện, tăng cường kiến thức
về tin học, có phản xạ nhạy bén nhằm có thể giải quyết tốt hơn các vấn đề xảy ra trong cuộc
sống. Đây cũng chính là một cách để thực hiện nguyên tắc tích hợp trong giảng dạy.
Những gì chúng tôi trình bày trong khuôn khổ bài viết này chỉ có tính giới thiệu, nêu vấn đề.
Muốn thực hiện tốt những ý tưởng trên, chúng tôi còn phải đầu tư nhiều công sức hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1993), Thực hành ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1996), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
4. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Bài tập ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
5. Phan Thiều (1998), Rèn luyện ngôn ngữ- Bài tập thực hành, Nxb Giáo dục.