SO SÁNH SỰ ĐỔI MÀU CỦA MỘT SỐ COMPOSITE DƯỚI
TÁC DỤNG CỦA TRÀ VÀ CÀ PHÊ
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá sự đổi màu của các loại
composite khác nhau dưới tác động của trà và cà phê.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Bốn loại composite khác nhau
cùng màu A3 là: Tetric Ceram (TC), Tetric Ceram heavy body (HB), Instent
S (IS), Compoglass flow (CF); Mỗi loại gồm 4 mẫu (kích thước 27151
mm) và được mã hoá thành 4 nhóm: Nhóm 0: Ngâm trong nước cất liên tục
trong suốt tất cả các chu trình nhuộm màu; Nhóm 1: Ngâm trong trà lipton;
Nhóm 2: Ngâm trong trà xanh; Nhóm 3: Ngâm trong cà phê Trung Nguyên.
Các mẫu được ngâm vào 4 loại dung dịch khác nhau kể trên theo nhóm mã
hoá trong vòng 20 ngày (Thay mới dung dịch sau mỗi ngày). Đánh giá sự
đổi màu của các mẫu sau 1, 3, 5, 10, 20 ngày bằng máy do quang phổ phản
xạ (Reflectance Spectrophotometter).
Kết quả: Không có sự đổi màu có ý nghĩa của các loại composite khi
ngâm trong nước cất sau 20 ngày. Các composite đổi màu tỉ lệ thuận với thời
gian tiếp xúc với dung dịch màu. Với cùng một dung dịch màu, các loại
composite khác nhau có sự đổi màu khác nhau: CF luôn là loại đổi màu
nhiều nhất với cả 3 dung dịch, ba loại còn lại thứ tự đổi màu khác nhau tùy
dung dịch màu.
Kết luận: Với cả 4 loại CF, IS, TC và HB các dung dịch gây đổi màu
theo thứ tự giảm dần: trà Lipton> trà xanh > cà phê.
ABSTRACT
Objectives: The purpose of this study was to evaluate the color
stability of various composites after immersion in coffee and tea.
Materials and Methods: In this test, four kinds of composite (shade
A3) were used: Tetric Ceram (TC), Tetric Ceram heavy body (HB), Instent
S (IS), Compoglass flow (CF). Each composite consisted of four samples
(27×15×1mm) and coded to four groups: Group 0: Immersed in pure water
continuously during all of staining cycles; Group 1: Immersed in Lipton tea;
Group 2: Immersed in Green tea; Group 3: Immersed in Trung Nguyen
coffee. These samples were immersed in four solutions according to their
respective code during 20 days (The solutions were renewed everyday).
Color change was measured after 1, 3, 5, 10, 20 days by Reflectance
Spectrophotometer.
Results: Composites were immersed in pure water: No significant
difference in color change among various composites after 20 days. The
more time the samples were immersed in color solutions the more they
stained. In the same color solution, various composites has different color
changes: CF is always the most heavily stained in all three solutions.For the
three other composites, the order of color changes depended on the color of
the solutions.
Conclusion: The staining capacity of color solutions by descending order
was Lipton tea> Green tea> Coffee.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng đối với phục hồi các răng
trước, do đó tiêu chuẩn đầu tiên để lựa chọn vật liệu trám là phải có màu
giống màu răng thật và ít bị đổi màu. Trước đây, xi măng silicate được chọn
nhưng chúng có khuyết điểm là đổi màu nhanh chóng và co nhiều tạo khe
hở, năm 1963 Composite đầu tiên ra đời, vật liệu này có giống răng thật và
có nhiều màu để lựa chọn, không dẫn nhiệt, dán vào mô răng tốt, không tan
rã trong môi trường miệng. Chính vì vây, vật liệu này trở thành vật liệu trám
thẩm mỹ được lựa chọn nhiều nhất hiện nay. Có thể nói composite ra đời đã
giải quyết được tương đối yêu cầu của việc trám răng thẩm mỹ. Tuy vậy
người ta nhận thấy composite vẫn tồn tại một số khuyết điểm như sau: độ
kháng mài mòn kém, lực liên kết giữa mô răng và vật liệu chưa đủ mức, sự
hở bờ…. Riêng về khía cạnh thẩm mỹ, sự đổi màu của Composite là vấn đề
được bác sỹ và bệnh nhân quan tâm nhiều. Composite có thể đổi màu do
nhiều yếu tố khác nhau như: do tác dụng của tia tử ngoại trong ánh sáng mặt
trời, do các chất có màu trong thức ăn, nước uống hàng ngày v.v
Để nghiên cứu sự đổi màu của các loại Composite khác nhau dưới tác
dụng của các chất màu có trong thức ăn, nước uống, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Đánh giá và so sánh sự đổi màu của các loại
Composite khác nhau của cùng một hãng sản xuất dưới tác dụng của trà và
cà phê.
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiên cứu
Bốn loại composite khác nhau của cùng một hãng, màu A3 được làm
thành hình khối chữ nhật có kích thước 27mm×15mm×1mm: Tetric Ceram;
Tetric Ceram heavy body; Insten S; Compoglass Flow.
Dung dịch màu: dung dịch trà và cà phê. Để đồng nhất yếu tố màu tất
cả các mẫu composite đều được ngâm trong cùng dung dịch trà hoặc cà phê
cho mỗi chu trình nhuộm.
Mô thức nghiên cứu
Nghiên cứu thực nghiệm trong labo với bốn loại composite khác nhau
của cùng một hãng theo phương pháp mù đôi.
Quy trình thực hiện
Tạo mẫu composite:
Sử dụng khuôn bằng mica trong, hai mặt được chặn bằng hai tấm thuỷ
tinh, lòng khuôn có kích thước: 27×15×1mm. nhồi composite vào khuôn, ép
hai mặt khuôn cho khít sát.
Quang trùng hợp theo đúng chỉ dẫn của nhà sản xuất, chia khuôn ra
làm bốn phần, mỗi phần trùng hợp trong 40 giây sau đó trùng hợp thêm ở
phần trung tâm khuôn 40 giây, chiếu đèn ở cả hai mặt.
Đánh bóng: tất cả các mẫu đều được đánh bóng bằng đĩa nhám với 4
độ mịn khác nhau và 1 mũi silicone theo cùng 1 qui trình với cùng 1 khoảng
thời gian như nhau (đánh bằng đĩa nhám từ thô tới mịn trong 3 phút và hoàn
tất bằng mũi silicone trong 1 phút).
Mã hóa mẫu
Việc mã hóa mẫu sẽ do một nghiên cứu viên độc lập thực hiện. mỗi
loại composite được làm thành 4 mẫu và được mã hóa theo loại composite
và chất nhuộm màu.
Mỗi loại composite được chia thành 4 nhóm phụ: Nhóm 0: ngâm trong
nước cất liên tục trong suốt tất cả các chu trình nhuộm màu; Nhóm 1: ngâm
trong trà Lipton; Nhóm 2: ngâm trong trà xanh; Nhóm 3: ngâm trong cà phê.
Chuẩn bị dung dịch màu
Trà xanh:
Sử dụng trà cây đa: cho 2 gam trà vào ly, chế vào ly 220ml nước sôi,
đậy nắp ly chờ trong 5 phút, quậy đều và lọc bỏ xác trà. trà lipton: một gói
trà lipton 10 gam pha trong 220ml nước sôi trong 5 phút, quậy đều và bỏ túi
trà đi.
Cà phê
Sử dụng cà phê trung nguyên: cho 10 gam cà phê vào ly, chế 220ml
nước sôi vào ly rồi đậy nắp lại trong vòng 5 phút sau đó quậy đều rồi lọc bỏ
xác cà phê
Phương pháp ngâm
Các dung dịch sau khi pha được làm nguội tới 50 độ C sau đó ngâm
mẫu vào dung dịch và đưa vào máy ủ ở 37 độ C. Cho máy ủ vào tủ kín để
loại bỏ tác dụng của ánh sáng. Dung dịch ngâm được thay mới hàng ngày.
Khi kết thúc một chu trình ngâm, rửa mẫu dưới vòi nước chảy 10 giây sau
đó đặt vào nước cất và đem đi đo.
Đánh giá sự đổi màu
Sử dụng máy đo quang phổ phản xạ (Reflectance spectrophometer)
model UV-2510 hiệu Shimazdu. Thông số đánh giá: đánh giá dựa vào độ
phản xạ của ánh sáng khi gặp vật chất, được tính bằng R%; Đánh giá độ
khác biệt về màu của các mẫu dựa vào sự vào sự chênh lệch độ phản xạ:
R(%). Cách đo: tất cả các mẫu được đo trước khi bắt đầu vào chu trình
nhuộm màu; Việc đo sẽ được lặp lại sau mỗi chu trình nhuộm, tại các thời
điểm: sau 1 ngày, sau 3 ngày, sau 5 ngày, sau 10 ngày và sau 20 ngày.
Xử lý thống kê
- Sử dụng phần mềm Excel để nhập số liệu và phần mềm STATA để
xử lý thống kê.
- Ap dụng phương pháp thống kê hồi quy logic để xác định có sự khác
biệt về sự nhiễm màu giữa các loại composite khác nhau khi chịu cùng tác
động nhuộm màu.
- Áp dụng phương pháp thống kê hồi quy logic để xác định có sự khác
biệt về tác động gây nhiễm màu của các dung dịch khác nhau trên cùng một
loại composite.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
So sánh sự đổi màu của các loại composite khác nhau trong cùng
một dung dịch màu
Để so sánh sự đổi màu của bốn loại composite (CF: compoglass Flow;
IS: Inten-S; TC: tetric Ceram; HB: Tetric Ceram heavy body) trong các dung
dịch nhuộm màu, tất cả các mẫu sẽ được đo đường chuẩn trước khi tiến hành
nghiên cứu và đo sau mỗi chu trình nhuộm màu. Sự chênh lệch về màu của
từng mẫu được tính bằng thông số R%, là hiệu số giữa độ phản xạ R0%
(Baseline) và độ phản xạ Rx%, trong đó x là số ngày mẫu vật được ngâm.
R% càng tăng nghĩa là độ nhiễm màu càng tăng và ngược lại (bảng 1)
Bảng 1. Độ chênh lệch phản xạ R% trong các dung dịch màu (0:
nước cất; 1: trà lipton; 2: trà xanh; 3: cà phê)
Ngày
Composit
e
1 3 5 10 20
CFO(chuẩ
n)
0,99
6
2,06
2
3,962
4,083
3,065
CF1 4,88
0
7,77
4
11,15
5
12,84
1
15,39
5
CF2 4,37
6
6,48
3
9,143
9,301
12,18
1
CF3
4,16 4,14
6,331
7,260
9,193
8 9
ISO(chuẩn
)
0,14
0
0,45
5
1,749
1,353
1,382
IS1 2.94
8
5.20
0
7,634
9,303
11,65
3
IS2 2.38
1
2.62
7
4,818
5,481
7,014
IS3 0.81
6
1.57
5
3,980
3,900
4,947
TCO(chuẩ
n)
0,18
1
0,03
8
1,862
1,097
0,820
TC1 3,24
3
5,80
5
7,847
10,06
1
11,10
5
TC2 1,54
7
2,86
2
5,992
6,451
7,650
TC3 1,59
9
3,00
0
4,925
5,349
5,895
HBO(chuẩ
n)
0,27
6
0,20
2
0,264
-
0,655
-
0,971
HB1 0,21
9
1,62
4
4,508
6,043
8,974
HB2 0,14
1
2,46
8
5,754
7,607
8,405
HB3 0,12
1
1,06
4
4,037
4,437
4,795
Đối với các mẫu ngâm trong nước cất (mẫu chuẩn)
Cả bốn mẫu composite CF, IS, TC, HB ngâm nước cất có R% thay
đổi không đáng kể sau 20 ngày so với chính nó. Kết quả kiểm định hồi qui
logic cho thấy HB có độ phản xạ cao nhất (sáng màu và đục nhất), ba loại
còn lại độ phản xạ tương đương nhau và thấp hơn (sậm màu hơn). Khác biệt
về màu ban đầu giữa HB và 3 loại CF, TC, IS là có ý nghĩa (p< 0,05) và
không có sự khác biệt màu ban đầu có ý nghĩa giữa CF, TC, IS (p>0,05)
(bảng 1, biểu đồ 1). Quan sát bằng mắt ta cũng thấy có sự khác biệt về màu
ban đầu giữa bốn loại: HB có vẻ đục hơn, ba composite còn lại không thấy
được sự khác biệt.
Hình 1. Các mẫu composite sau 20 ngày ngâm trong các dung dịch
màu (0: nước cất, 1: trà Lipton, 2: trà xanh, 3: cà phê)
Đối với các mẫu ngâm trong trà lipton, trà xanh và cà phê ở 37
0
C
Kết quả của phép kiểm định hồi quy logic cho thấy các mẫu
composite của cả 4 loại sậm màu dần tỉ lệ thuận với thời gian ngâm. Trong
cùng một dung dịch màu, dù là trà lipton, trà xanh hay cà phê thì bốn mẫu
composite (CF; IS, TC và HB) đều có sự biến đổi màu khá giống nhau: vào
ngày thứ 5 sau khi ngâm các mẫu composite sậm màu rõ rệt so với sau 3
ngày ngâm; Sự đổi màu chậm dần sau đó: độ phản xạ của các mẫu
composite đo sau 10 ngày ngâm và sau 20 ngày ngâm khác biệt không đáng
kể mặc dù thời gian ngâm dài hơn, nghĩa là chỉ hơi sậm màu hơn so với
ngày thứ 5. Điều này có thể là do thời gian đầu sự chênh lệch về nồng độ
chất màu trong vật liệu và dung dịch ngâm lớn, do đó mặc dù thời gian ngâm
ngắn nhưng chất màu khuyếch tán vào vật liệu nhanh và nhiều, càng về sau
sự chênh lệch về nồng độ chất màu giảm dần nên khả năng ngấm màu từ
dung dịch sang vật liệu giảm dần.
Đối với dung dịch trà Lipton, sau khi ngâm bốn loại composit trong 20
ngày và ghi nhận sự đổi màu vào các ngày thứ 3, thứ 5, thứ 10 và 20 nhận
thấy mức độ đổi màu (thấm màu nhiều) của chúng xếp theo thứ tự giảm dần
như sau: CF > IS > TC > HB. Như vậy CF bị nhiễm màu nhiều nhất và HB
ít bị thấm màu nhất (biểu đồ 1).
Biểu đồ1. Độ chênh lệch phản xạ của bốn loại composite sau khi
ngâm trong dung dịch trà Lipton
Đối với dung dịch trà xanh, quy trình ngâm và đánh giá tương tự như
đối với dung dịch trà Lipton, kết quả cho thấy sự sậm màu so với chính nó
ban đầu được liệt kê theo thứ tự giảm dần là: CF > HB >TC > IS. Như vậy,
CF vẫn là loại nhiễm màu nhất, IS lại là loại ít nhiễm màu nhất (biểu đồ 3,
4).
Biểu đồ 3: Thay đổi của độ phản xạ (R%) của bốn loại composite sau
20 ngày ngâm trong nước cất
Biểu đồ 4. Độ chênh lệch phản xạ của bốn loại composite sau khi
ngâm trong dung dịch trà xanh.
Đối với dung dịch cà phê, thứ tự sậm màu của các loại composite so
với chính nó trước khi ngâm giảm dần như sau: CF > TC > IS > HB (biểu đồ
5).
Biểu đồ 5. Độ chênh lệch phản xạ của bốn loại composite sau khi
ngâm trong dung dịch cà phê
Như vậy trong cả 3 loại dung dịch màu, CF (compoglass flow) luôn là loại
bị nhiễm màu nhiều nhất, vì thế sau 20 ngày ngâm, dù trong dung dịch nào, CF
sậm màu nhất so với màu nguyên thuỷ của nó. Trong bốn loại composite được lựa
chọn trong nghiên cứu, CF là loại có thành phần nhựa khung chiếm tỷ lệ nhiều
nhất (32,9% trọng lượng) gấp 1,88 lần so với IS; 1,63 lần so với TC và 1,73 lần so
với HB. Khung nhựa của composite là pha yếu, co nhiều khi trùng hợp, dễ hấp thu
nước và có tính xốp. Tỷ lệ khung nhựa càng cao, composite xốp, càng dễ hấp thu
nước kéo theo các chất màu. Ngoài ra trong thành phần CF còn có xi măng Glass
ionomer. Theo Abu – Bakr do khả năng hấp thu nước và sự nở vì hút ẩm của
compomer cao hơn composite nên compomer và xi măng resin modified
glassionomer có sự đổi màu nhiều hơn hẳn composite (p < 0,001) khi ngâm chúng
trong các dung dịch màu. Nghiên cứu của FayR và CS về sự đổi màu của
compomer ngâm trong cà phê và rượu vang đỏ cho kết quả sự đổi màu nhìn thấy
được sau 24 giờ. Nghiên cứu trên lâm sàng của Kitty MY và CS về sử dụng
compomer cho răng sữa đã đưa đến kết luận: sau 1 năm miếng trám compomer
không đổi màu có ý nghĩa thống kê, nhưng khi so sánh sự nhiễm màu của bờ
miếng trám compomer so với composite người ta thấy miếng trám compomer
nhiễm màu nhiều hơn và sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê. Đối với ba loại
composite IS, TC và HB tuy có sự thấm màu tăng theo thời gian nhưng ít hơn
composite CF.
So sánh ảnh hưởng của các dung dịch màu
Theo phép kiểm định hồi quy logic, các dung dịch màu khác nhau có
khả năng gây đổi màu khác nhau trên cùng loại composite. Dung dịch trà
Lipton gây đổi màu nhiều nhất, kế tiếp là trà xanh và cuối cùng là dung dịch
cà phê. Khác biệt về khả năng gây đổi màu vật liệu của các loại dung dịch so
với nhau và so với nước cất là có ý nghĩa (p < 0,05). Kết quả này cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Khokhar ZA và cs. là trà gây nhiễm màu các
loại composite nhiều hơn cà phê và sự có mặt của chlorexidine và nước bọt
sẽ làm tăng sự nhiễm màu đối với trà. Ngược lại, trong nghiên cứu về sự ổn
định màu của các loại composite khác nhau sau khi ngâm trà và cà phê Jang
Sang và cs thấy rằng với cùng một loại composite, sau khi ngâm trong trà và
cà phê sau 14 ngày cà phê gây đổi màu vật liệu nhiều hơn trà. Giải thích về
cơ chế nhiễm màu của dung dịch màu vào vật liệu, Ruyter IE và cs cho rằng
trà gây đổi màu vật liệu chủ yếu là do sự hút bám chất màu lên bề mặt vật
liệu, còn cà phê gây đổi màu vật liệu là vừa do sự hút bám lẫn sự ngấm chất
màu vào pha hữu cơ của vật liệu.
Từ những kết quả trên ta có thể rút ra một số ý nghĩa ứng dụng: trà và
cà phê làm composite đổi màu theo , vì thế để miếng trám giữ được vẻ thẩm
mỹ lâu dài, hạn chế sự đổi màu thì bệnh nhân nên hạn chế sử dụng những
thức ăn, nước uống có màu như trà, cà phê, rượu vang, nghệ….
Composite có thành phần khung nhựa chiếm tỷ lệ cao hay có chứa
glass ionomer có khuynh hướng nhiễm màu nhiều hơn các loại composite có
tỷ lệ hạt độn cao, vì thế các Bác Sĩ RHM cần cân nhắc để chọn lựa loại
composite có khả năng ổn định màu. Tuy nhiên đây chỉ là một khía cạnh về
màu sắc và thẩm mỹ, để lựa chọn 1 loại composite tối ưu còn phụ thuộc vào
nhiều tính chất khác: vị trí miếng trám, độ kháng mòn, độ kết dính với mô
răng của composite…
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đánh giá sự ổn định màu của bốn loại Composite khác
nhau của hãng Ivoclar Vivadent là: Compoglass Flow (CF), Inten-S (IS),
Tetric Ceram (TC) và Tetric Ceram Heavy Body (HB) dưới tác dụng của các
dung dịch màu trà lipton, trà xanh và cà phê bằng cách dùng máy đo quang
phổ phản xạ để đo độ phản xạ (R%) của các mẫu trước khi ngâm và sau 1, 3,
5, 10, 20 ngày trong các dung dịch màu tương ứng. Sự khác biệt về màu
giữa các loại Composite sẽ được đánh giá qua thông số R%. Nghiên cứu
cho phép kết luận như sau:
Không có sự đổi màu có ý nghĩa của các loại composite khi ngâm trong
nước cất sau 20 ngày.
Các composite đổi màu tỉ lệ thuận với thời gian tiếp xúc với dung dịch
màu.
Với cùng một dung dịch màu, các loại Composite khác nhau có sự đổi
màu khác nhau: CF luôn là loại đổi màu nhiều nhất với cả 3 dung dịch, ba
loại còn lại thứ tự đổi màu khác nhau tùy dung dịch màu.
Với cả 4 loại composite (CF, IS, TC và HB), dung dịch trà lipton gây
đổi màu nhiều nhất, kế đến là dung dịch trà xanh và dung dịch cà phê ít gây
đổi màu nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alacam A. Burgaz Y. Effect of various polishing techniques
on restorative resin discoloration. Ankara Unty Hekim Fak Derg, 1989 May,
16 (1):123-7.
2. Craig. Powers. Wataha. Dental Materials:properties and
manipulation.
3. Dietschi D. Campanile G. Holz J. Meyer JM. Comparison of
the color Stability of ten new–generation composites: an in vitro stuty. Dent
mater , 1994 Nov, 10(6):353-62.
4. Đinh Thị Khánh Vân. Cập nhật về nhựa composite trực tiếp.
Cập nhật nha khoa tập 7 số 2 năm 2002,72-82.
5. Fay RM. Servos T. Powers JM. Color of restorative materials
after staining and bleaching. Oper Dent 1999 Sep-Oct, 24(5): 292-6.
6. Hoàng Tử Hùng. Giáo trình vật liệu nha khoa: composite nha
khoa.
7. Hoàng Tử Hùng. Phát triển hệ thống lai composite- glass
ionomer cement.
8. J.Sang. X.Wang.B.A Hughes and L.C Hayes (Dentsply /
Caulk, Milford, DE, USA). Color Stability of Vartous Composites after
Immersion in Coffee and tea.
9. Kho Khar ZA. Razzoog ME. Yaman P. Color stability of
restorative resin. Quintessence Int, 1991 Sep, 22(9): 733-7.
10. Neamat Abu-Bakr. Linlin Han. Akira Okamoto. Masaaki
Iwaku. Color stability of Compomer after imersion in various Media. J
Esthet Dent 12:258-263, 2000.
11. Pamela G Doray. Magda S Eldiwany. John M Powers. Effect
of resin suface sealers on improvement of Stain Resistancefor a Composite
Provisional Material. J Esthet Restor Dent 15: 244-250, 2003.
12. Phillip’s sicience of Dental Materials,273-302.
13. Rose-Marie Fay. Carol S Walker. John M c. Discoloration of a
Compomer by Stains. The Journal of the Greater Houston Dental Society,
March 1998.
14. Seghi RR. Hewlett ER. Kim J. Visual and instrumental
colorimetric assessment of small color differences on translucent dental
porcelain. J Dent Res 1989;86:1760.
15. Stober T Gilde H Lenz P Color Stability of highly filled
Composite resin malerials for facings. Dental material, 2001Jan, 17(1); 87-
94.
16. Trương Thị Phương Hà. So sánh sự bám của vết dính lên hai
loại răng giả khác nhau. Tiểu luận tốt nghiệp Bác Sĩ Răng Hàm Mặt 1997-
2003 (HD: Ngô Thị Quỳnh Lan).
17. Um CM. Ruyter IE. Staining of resin-based veneering
materials with coffee and tea. Quintessence Int, 1991May, 22(5); 377-86.
18. Yannikakis SA. Zissis AL. Polyzois GL. Caroni C. Color
stability of provisional resin restorative materials. J Prosthet Dent, 1998
Nov, 80(5): 533-9.