TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin
TÊN ĐỀ TÀI
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về tiền
tệ và vấn đề lạm phát ở Việt Nam
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT150105 –17146CLA
GVHD: Đặng Thị Minh Tuấn
HỌC KỲ: 1 –NĂM HỌC: 2017 - 2018
TP.HỒ CHÍ MINH – tháng/năm : 12/2017
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1.Nguyễn Hồ Duy
2. Nguyễn Minh Nhựt
3. Trịnh Anh Quân
4. Nguyễn Tấn Tùng
5. Lâm Nguyên Sơn
-
MSSV: 17146010
MSSV: 17146048
MSSV: 17146058
MSSV: 17146075
MSSV: 17146061
Giảng viên hướng dẫn: Đặng Thị Minh Tuấn
ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GV:
GV ký tên
Mục lục
Mở đầu………………………………..…………………………………….1
Lời mở đầu…………………………………………………………………1
Lý do chọn đề tài………………………………………….………………..1
Mục tiêu và nhiệm vụ……………………………………………………...1
Phương pháp thực hiện đề tài……………………………………………...1
Chương 1: Khái niệm, bản chất, chức năng của tiền tệ và vấn đề lạm phát…2
1.1: Khái niệm, bản chất và chức năng của tiền tệ……………..………2
1.1.1: Khái niệm và bản chất của tiền tệ…………………………….....2
1.1.2: Lịch sử của tiền tệ………………………………………....…2,3
1.1.3: Chức năng của tiền tệ………………………………………….4
1.2: Khái niệm và nguyên nhân của lạm phát………………………...6
1.2.1: Khái niệm lạm phát…………………………………………….6
1.2.2: Các hình thức lạm phát………………………………………...7
1.2.3: Nguyên nhân của lạm phát…………………………………..8,9
Chương 2:Lạm phát ở Việt Nam qua từng thời kỳ (1976-2017)……11
Kết luận……………………………….……………………………...21
Tài liệu tham khảo……………………………….……….…………..….22
Phần 1: Mở đầu
Lời mở đầu
Gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa là tiền tệ. Trong sự
phát triển của nền kinh tế của các nước trên thế giới. Vấn đề tiền tệ là vấn đề rất
được xã hội quan tâm do tiền tệ ra đời làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ
được dễ dàng, thuận tiện hơn. Khi tiền tệ ngày càng phát triển lạm phát được
sinh ra. Mác cho rằng: ‘’ lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá lố’’. Lênin cũng
đưa ra:’’ lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong các kênh lưu thông’’. Tình trạng
lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là hai con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Chính vì vậy mà
chúng em lựa chọn đề tài ‘’ Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tiền tệ
và vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay’’.
Lý do chọn đề tài :
Đồng tiền là thứ được sử dụng hằng ngày của cuộc sống,nó được lưu hành trong
mọi lĩnh vực,giá trị của nó không chỉ là một vật dùng để trao đổi mà nó còn là
thước đo cho một nền kinh tế.
Nếu như đồng tiền đó có giá trị cao thì minh chứng cho một nền kinh tế phát
triển và ngược lại.
Gửi đến cho tất cả mọi người về giá trị của đồng tiền nước ta so với thế giới,bản
chất của đồng tiền để từ đó chứng ta có thể sử dụng nó một cách hiệu quả nhất
tối ưu nhất từ đó đưa ra phương pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn sự lạm phát
tiền tệ .
Mục tiêu và nhiệm vụ:
Mục tiêu: Tìm hiểu khái niệm về tiền tệ và lịch sử hình thành của tiền tệ
trên thế giới và tìm hiểu nguyên nhân xảy ra lạm phát và những vấn đề
nhức nhối về lạm phát ở nước ta.
Nhiệm vụ: Giải thích rõ bản chất của tiền tệ và đưa ra giải pháp giải quyết
vấn đề lạm phát hiện nay.
Phương pháp thực hiện đề tài: Nghiên cứu những tài liệu liên
quan đến chủ nghĩa Marx – Lenin về vấn tiền tệ và lạm phát, phân
tích, đánh giá và tổng hợp nội dung.
4
Nội dung
Chương 1.1: Khái niệm, bản chất và chức năng của tiền tệ.
1.1.1: Khái niệm và bản chất của tiền tệ
KHÁI NIỆM:
TIỀN là vật ngang giá chung có tính thanh khoản cao nhất dùng để trao đổi lấy
hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận (nghĩa là
mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng) và thường được Nhà nước phát
hành bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu,
ngoại tệ.
- BẢN CHẤT:
TIỀN là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hóa dịch vụ, là phương tiện
giúp cho quá trình trao đổi đượcthực hiện dễ dàng hơn. Thể hiện rõ qua 2 thuộc
tính: giá trị sử dụng và sức mua tiền tệ.
Quá tình lưu thông của tiền tệ
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Về
mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, ta có thể nhận
biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái
xã hội của hàng hóa, nó không có một nguyên tử vật chất nào nên đủ cho
người ta có lật đi lật lại mãi một hàng hóa, thì cũng không thể sờ thấy,
nhìn thấy giá trị của nó. Giá trị chỉ có một tính hiện thực thuần túy xã hội,
và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa
là trong mối quan hệ giữa các hảng hóa với nhau. Chính vì vậy, thông qua
sự nghiên cứu các hình thái biểu hiện của giá trị, chúng ta sẽ tìm ra nguồn
gốc phát sinh của tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và tiêu biểu nhất.
1.1.2: Lịch sử của tiền tệ
•
Thông qua 4 hình thái:
-Hình thái đơn giản hay ngẫu nhiên
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao
đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp
vật này lấy vật khác.
10kg thóc = 1m vải
5
-Hình thái đầy đủ hay mở rộng
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ
nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một
hàng hóa này có thể quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn
này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.
10 kg thóc
0,1 chỉ vàng= 1 mét vải
1con gà
-Hình thái chung của giá trị
Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu
cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng
người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực
tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người
ta phải đi con đường vòng, mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà nó
được nhiều người ưa chuộng, rồi đem hàng hóa đó đổi lấy thứ hàng hóa mà
mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa
được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
-Hình thái tiền tệ
1 mét vải
2 con gà = 0.1 chỉ vàng
1 mét lụa
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản
xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật
ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó
dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi
6
vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện
hình thái tiền tệ của giá trị.
1.1.3: Chức năng của tiền tệ
Gồm có 5 chức năng:
-Thước đo giá trị
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường
giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức
năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần
thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng
tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của
hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian
lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá
được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu
hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết
định:
+Giá trị hàng hóa
+Giá trị của tiền
+Giá trị cung cầu
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định
của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác
nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng
của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi
dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các
hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm
tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao
động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay
đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị
của vàng thay đổi như thế nào.
-Phương tiện lưu thông
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá
trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có
tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng
hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong
trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời
7
nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán
chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén.
Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị
hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp
nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta
đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện
lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc
tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị
thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó
dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu
hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.
-Phương tiện cất giữ
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền
vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một
cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng,
lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại,
nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi
lưu thông đi vào cất trữ.
-Phương tiện thanh toán
Tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất
và trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc
mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức
năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu
nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện
thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả
năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt.
Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người
bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi,
đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây
khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng
kinh tế tăng lên.
8
Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng
tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm
phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện
của cải nói chung của xã hội1.
Chương 1.2: khái niệm và nguyên nhân của lạm phát
1.2.1: Khái niệm về lạm phát
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng lên
so với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang). Cần phải hiểu việc
tăng giá ở đây là gia tăng chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, chứ
không phải tăng giá một hàng hóa cá biệt. Khi giá trị của hàng hóa và dịch
vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với
cùng một lượng tiền nhưng người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn so
1 Bộ giáo dục và đào tạo- Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin năm 2014-nhà xuất bản chính trị quốc giatrang 204 đến 214
9
với trước đó.Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường
hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì
lạm phát là sự phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác2.
Vd 1: Lạm phát Zimbabwe bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi tổng thống
Robert Mugabe khởi động chương trình phân phối lại đất đai lấy từ nông
dân gốc Âu để chia cho nông dân Zimbabwe. Việc này làm sản lượng
nông nghiệp đột ngột giảm mạnh và giá cả tăng là điều tất yếu.
Vd 2:Trường hợp lạm phát phi mã tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới từng
được ghi lại là ở Hungary vào nửa đầu năm 1946. Giữa năm đó, tờ tiền
mệnh giá lớn nhất ở đây là 100.000.000.000.000.000.000 pengo. Con số
này năm 1944 chỉ là 1.000 pengo3.
.
1.2.2: Các hình thức của lạm phát
-Lạm phát vừa phải
. Lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải
làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động
bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu
hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình
trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn...
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ
vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn
định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
-Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ
lệ 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả
chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng
được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động
2 https:// voer.eduv.vn/m/nguyen-nhan-gay-ra-lam-phat/f7cf91f7- tác giả đại học kinh tế quốc dân
3 Hà Thu-5 trường hợp lạm phát tồi tệ nhất lịch sử- ngày 7/3/2011
10
sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này
khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát 2 hoặc 3 con
số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn
giữ tiền mặt mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho
việc thanh toán hằng ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại
tệ. Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước ngoài).
-Siêu lạm phát
: tỷ lệ tăng giá khoảng trên 1000% /năm. Đồng tiền gần như mất giá hoàn
toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền không còn làm
được chức năng trao đổi. Nền tài chính khủng hoảng (siêu lạm phát đã
từng xảy ra ở Đức 1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% và xảy ra ở Bolivia
1985 với 50.000%/năm).
Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt
xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực
tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính
xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình
trạng rối loạn
Kết luận: Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối
với nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt lạm
phát cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và không được
dự đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự
đoán trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo,
mọi thu nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ
điều chỉnh hoạt động của mình theo thuớc do đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một
năm thì nay những người có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới
16% một năm. Công nhân viên chức sẽ được tăng lương lên 10% một năm…
Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự đoán trước đã không gây ra một tác
hại nào đối với sản lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu4
.
1.2.3: Nguyên nhân của lạm phát
4 Dân kinh tế- />
11
Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ ,khi cung tiền tệ tăng
lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát .Có thể thấy
ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng .Khi nền kinh tế
chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều ,chưa khai thác
nhiều .Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động .Do đó
nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này ,khi
tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ nào đó ,các nhà đầu tư
thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các nhà máy ,xí nghiệp mở cửa
để sản xuất ,kinh doanh .Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai
thác ,người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên .
-Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung ,do chi phí
sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng .Điều này chỉ có
thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng
trả với giá cao hơn
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng
hoặc khả năng khai thác hạn chế. Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn
được chuyển cho người tiêu dùng nội địa cũng là một yếu tố gây lên lạm
phát .Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so
với đồng tiền khác
-Lạm phát do cầu kéo dài
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc
tăng không kịp. Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến việc tăng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là
nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến
3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung , song sản xuất vẫn không
được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì
nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối
sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu
kém xuất hiện5
5 tác giả đại học kinh tế quốc dân- />
12
-Lạm phát dự kiến
Là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm
phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó
trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm
phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống
,đến kinh tế6
Chương 2:Hướng giải quyết vấn đề lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát ở Việt Nam qua từng thời kỳ
Giai đoạn 1976
Diễn biến
Từ năm 1976 đến tháng 5/1988 là giai đoạn không có lạm phát theo quan niệm
chính thống của các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng.
Xuyên suốt thời kỳ này, lạm phát phi mã diễn ra với mức tăng bình quân của
giá cả là 52%/ năm . Sức mua của đồng Việt Nam giảm; chi phí sản xuất và lưu
thông liên tục tăng cao do quản lý kém và điều kiện sản xuất đã thay đổi; cung
cầu mất cân đối nghiêm trọng và trong xã hội xảy ra tình trạng khan hiếm hàng
hoá, dịch vụ. Đó là những biểu hiện của lạm phát không thể phủ nhận trong nền
kinh tế .
Lạm phát thời kỳ này có đặc điểm là tăng liên tục và tốc độ lạm phát ở cao nhất
vào năm cuối cùng của thời kỳ (1985) Trong nền kinh tế, người ta không chính
thức thừa nhận lạm phát để có biện pháp ứng phó cho đến tận tháng 6/1980.
6 Nguy ễn Tri Khiêm-nguyên nhân x ảy ra l ạm phát- />
13
Nguyên nhân
Lạm phát như trên bắt nguồn từ một nền kinh tế thấp kém, lạc hậu, phụ thuộc
nhiều vào bên ngoài trong điều kiện Nhà nước thống trị mọi lĩnh vực thông qua
cơ chế quan liêu, bao cấp, mệnh lệnh hành chính nặng nề. Cụ thể, lạm phát xảy
ra do 4 nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chế độ độc quyền nhà nước, cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp
là nguyên nhân cơ bản nhất gây ra lạm phát. Nhà nước đã hợp nhất các xí
nghiệp trong mỗi ngành thành liên hiệp hay tổ chức độc quyền làm cho giá cả
tăng cao. Việc tiến hành bao cấp hàng hoá, không tính đến nhu cầu, thị hiếu của
người tiêu dùng dẫn tới sự khan hiếm hàng hoá, dịch vụ. Đặc biệt nền kinh tế lúc
đó có tới hai hệ thống giá (giá chính thức do Nhà nước quy định và giá trên thị
trường tự do) với nỗ lực ổn định và phấn đấu hạ giá hàng hoá khiến cho giá cả một đòn bẩy kinh tế quan trọng - bị "đông cứng".
Thứ hai, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khu vực quốc doanh làm ăn thua lỗ, kém
hiệu quả. Kinh tế nhà nước chiếm gần 90% vốn cố định, 95% lượng lao động
lành nghề nhưng chỉ tạo ra gần 40% tổng sản phẩm xã Vốn ngân sách cấp ra thì
nhiều, thu về thì ít nên Nhà nước luôn phải bù lỗ. Có năm, 1/3 ngân sách là dùng
vào bù giá và bù lỗ. Để tài trợ cho bội chi ngân sách, Nhà nước buộc phải phát
hành tiền và lạm phát cao xảy ra.
Thứ ba, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, cơ cấu đầu tư bất cập góp
phần làm cho lạm phát tăng cao. Chính sách đóng cửa về kinh tế cùng với sự
bao vây cấm vận của Mỹ đã ngăn cản các nước phương Tây đầu tư, buôn bán
với Việt Nam khiến nước ta bị thiếu vốn sản xuất và do đó, càng khan hiếm hàng
hoá.
Thứ tư, các chính sách kinh tế sai lầm làm cho lạm phát ngày càng
trầm trọng. Tuy tư duy kinh tế ở nước ta lúc đó đã có sự đổi mới, được đánh dấu
bằng sự ra đời của Nghị quyết 26 (23/6/1980) về giải quyết vấn đề phân phối lưu
thông (trọng tâm là điều chỉnh giá cả) nhưng ngay trong chủ trương này cũng
14
chứa đựng những mâu thuẫn. Chính cải cách giá đã đẩy lạm phát tăng vọt trong
thời kì 1986 - 1988.
Trong ba năm 1986, 1987, 1988, siêu lạm phát hoành hành ở nước ta với tốc độ
tăng mức giá ba con số. Đỉnh cao của lạm phát kể từ năm 1954 đến nay xảy ra
vào năm 1986. Giá bình quân năm 1986 bằng 570% so với năm 1985 Ảnh
hưởng của lạm phát bao trùm lên mọi lĩnh vực,đời sống nhân dân, đe doạ sự ổn
định về mặt chính trị của đất nước.
Thực trạng kinh tế như vậy là hậu quả tổng hợp của nhiều nhân tố mà trước hết
là do bội chi ngân sách tăng vọt. Điều này là do Nhà nước luôn phải bù lỗ, bù
giá cho khu vực kinh tế quốc doanh cũng như chi cho nhập khẩu phục vụ đời
sống.. Nền kinh tế rơi vào vòng xoáy: thâm hụt - phát hành tiền - lạm phát .
Cũng tương tự như thời kỳ trước, siêu lạm phát từ 1986 đến 1988 còn là hệ quả
của chính sách kinh tế sai lầm. Các cuộc cải cách giá cả năm 1981 - 1982, năm
1985 nhằm mục tiêu xóa bỏ bao cấp nhưng ngay từ tư duy về cách tiến hành đã
phạm sai lầm: xoá bỏ bao cấp được tiến hành bằng các biện pháp hành chính,
quan liêu. Sự leo thang của giá cả làm cho tình trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa
càng phổ biến, hàng hóa rất khan hiếm trên thị trường, cung càng thiếu hụt vì
tiền thu được từ việc bán các sản phẩm đầu ra không đủ để mua đầu vào tiếp
theo do giá tăng quá nhanh. Vào tháng 6/1987, Nhà nước công bố giá kinh
doanh thương nghiệp ổn định trong từng khoảng thời gian và là mức giá giới hạn
cho các mặt hàng quan trọng lưu thông trong cả nước. Đây là giá cả "phi thị
trường" gây kìm hãm sản xuất
Thời kỳ 1986-1988 là khoảng thời gian mà lạm phát đã tăng vọt đến mức ba con
số nhưng vẫn chưa được thừa nhận thực sự và Chính phủ chưa đưa ra biện pháp
gì để “kìm chân con ngựa bất kham”. Những cải cách liên quan đến giá, lương,
tiền không nhằm mục tiêu điều trị “căn bệnh" lạm phát nên nó ngày càng nguy
hiểm đối với nền kinh tế lúc đó. Kinh tế rơi vào suy thoái với tốc độ tăng trưởng
năm 1986 chỉ là 0,3%
Biện pháp
15
Sự ra đời Nghị quyết số 11 của Uỷ ban Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam về
đấu tranh với lạm phát chứng tỏ đến đây lạm phát đã được chính thức thừa
nhận ở nước ta. Từ đó, Nhà nước mới có các biện pháp để đối phó với thực tế
lạm phát dai dẳng và đầy tai hại cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. Nhờ đó, chúng ta bước đầu được chứng kiến những thành quả trong sự
nghiệp đấu tranh chống lạm phát. Nếu như tỷ lệ lạm phát ở mức đỉnh điểm
774% vào năm 1986 thì đến năm 1990 đã giảm xuống còn 67,4%. Kinh tế bắt
đầu tăng trưởng khá với tốc độ tăng GDP năm 1988, 1989, 1990 lần lượt là
6,0%, 4,7% và 5,1% [15]. Tuy con số đó còn cao nhưng đây được coi là một
thành công đáng kể của Đảng và Nhà nước ta khi nền kinh tế còn vô vàn khó
khăn và trong tương quan so sánh với giai đoạn trước.
Chúng ta đạt được kết quả như vậy là do công cuộc đổi mới gần như toàn bộ cơ
chế kinh tế, chuyển mạnh và khá đồng bộ sang cơ chế thị trường, bao gồm một
loạt các biện pháp bước đầu mang tính đồng bộ và tuân theo quy luật thị trường.
Nếu như trước đây người ta không quan tâm đến lạm phát khi tiến hành cải cách
giá thì nay chống lạm phát cao và kiềm chế lạm phát trở thành mục tiêu của cải
cách giá. Hơn thế nữa, các chính sách để đưa lạm phát vào tầm kiểm soát là
phương tiện để cải cách giá đạt được thành công.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh trong các giải pháp chống lạm phát là vào giai
đoạn 1988 - đầu 1989 nước ta có chính sách tài chính quốc gia tiến bộ hơn hẳn
so với giai đoạn trước để điều tiết cầu với liều lượng mạnh, làm giảm hẳn lạm
phát. Lãi suất tiết kiệm được nâng lên cao hơn tỷ lên trượt giá (hay lãi suất thực
dương). Tỷ lệ lạm phát bình quân trong năm 1989 là 2,45%/tháng trong khi lãi
suất gửi tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 10%/ tháng [6] nên lượng tiền gửi vào ngân
hàng tăng mạnh làm giảm cầu trên thị trường. Nhờ đó, nhà nước hạn chế được
việc phát hành thêm tiền giấy mà vẫn có thể khắc phục tình trạng bội chi ngân
sách. Lượng tiền tiết kiệm, hệ thống ngân hàng thu hút về được đầu tư vào sản
xuất, nhập khẩu thêm hàng hoá nhờ đó mà quan hệ cung cầu trên thị trường bớt
16
căng thẳng hơn. Chính việc nâng lãi suất tiền vay và tiền gửi của các tổ chức
kinh tế quốc doanh lên cao là biểu hiện rõ nét của công tác chống bao cấp vốn
(trợ cấp thông qua lãi suất tín dụng thấp). Từ đây, các doanh nghiệp không thể
vay vốn vì những mục đích trục lợi riêng tư, mà phải có kế hoạch bảo tồn và
phát triển nó sao cho trả được khoản vay khi đến hạn. Do đó, hiệu quả sử dụng
vốn được nâng lên rõ rệt.
Chính sách lớn thứ hai được sử dụng để kiềm chế lạm phát là nhấn mạnh sản
xuất nhập khẩu nhằm làm tăng cung hàng hóa cho xã hội. Để đạt mục tiêu đó,
nhà nước đã khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân, giao quyền sử dụng
vốn và gắn trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn cho các doanh nghiệp quốc
doanh. Thế độc quyền của khu vực kinh tế nhà nước từng bước bị phá vỡ, tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng hơn, thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế
tham gia một cách hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hoá,
dịch vụ. Nhà nước còn đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là nhập khẩu
các hàng tiêu dùng, máy móc, vật tư khan hiếm phục vụ cho sản xuất. Nhu cầu
ngoại tệ để nhập khẩu trước đây là 200 - 300 triệu USD/năm thì đến 1990 cần
phải có gấp 3-5 lần số đó
Ngoài các “liệu pháp” trên, điểm tiến bộ rõ rệt trong chính sách giá cả là chuyển
giá nhà nước quy định sang giá cả thị trường. Điều này phản ánh sự tuân thủ
quy luật giá trị và một khi vẻ đẹp của quy luật giá trị được tôn trọng thì tự nó sẽ
thúc đẩy sản xuất và lưu chuyển hàng hoá trong xã hội. Chính phủ chỉ điều tiết
gián tiếp giá cả của một số mặt hàng thiết yếu như gạo, vàng bằng cách khi cần
thiết thì mua vào và bán ra nhằm điều tiết cung cầu thị trường. Một động thái
nữa thực hiện nhận thức đúng đắn hơn về vai trò của quy luật giá trị là việc điều
chỉnh tỷ giá hối đoái cho sát hơn với tỷ giá của thị trường tự do. Nhà nước đã
chọn mức giá và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và hai loại ngoại tệ tiêu biểu cho hai
khu vực thị trường thế giới là đồng Rúp mậu dịch và đô-la Mỹ để xác định giá
trị còn lại của tài sản cố định trong các doanh nghiệp quốc doanh. Chúng ta đã
17
đưa được mức giá những nguyên - nhiên - vật liệu quan trọng nhất lên xấp xỉ giá
thị trường khu vực II (các nước không thuộc cộng đồng tương trợ kinh tế SEV)
giúp nước ta từng bước hoà nhập thị trường thế giới. Do đó, tình trạng lãi giả lỗ
thật của các doanh nghiệp dần bị xoá bỏ, giúp cho việc điều hoà cung cầu, giảm
lạm phát. Tuy nhiên, điểm mới trong cách điều chỉnh giá lần này là điều chỉnh từ
từ để người tiêu dùng và các doanh nghiệp không bị “sốc”, tránh những phản
ứng do tâm lý có thể tạo ra cầu giả tạo.
Những cải cách toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường, chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách mở cửa nền kinh tế như chúng ta vừa
xét cùng với chính sách khoán đến hộ nông dân đã làm giảm chi phí sản xuất,
tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng hoá cho xã hội, khắc phục dần sự mất
cân đối cung - cầu, tiền - hàng. Sau 18 tháng duy trì được tốc độ lạm phát tương
đối thấp (trên 2%/tháng), đến cuối năm 1990, đầu năm 1991, lạm phát có xu
hướng tăng trở lại: Mức giá vào tháng 1/1991 tăng thêm 14,3% so với tháng
12/1990 [6]. Từ đây, công cuộc chống lạm phát ở nước ta lại bước vào một giai
đoạn mới7.
Giai đoạn 2007
Diễn biến
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh
tế nước ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua
(trong 5 năm 2003-2007 GDP tăng bình quân trên 8%/năm). Đời sống nhân dân
được tăng lên, thu nhập GDP bình quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng
lên 836 USD năm 2007, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ
rệt, nhiều công trình kinh tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các
7 MÈO TƯNG TẨY-CÁC GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT Ở Việt Nam- />
18
nước trên thế giới (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156%
GDP), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO,.. VN được các nước trên thế
giới đánh giá tốt và khen ngợi,.
Hiện nay nước ta đang đứng trước khó khăn thực sự, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng
nhanh năm 2007 là 12.63% và 3 tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%
Vì vậy bài toán kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay là bài toán phức tạp và vô
cùng khó khăn, vừa kiềm chế lạm phát, vừa đảm bảo tăng trưởng. Do đó, khi
triển khai giải pháp kiềm chế lạm phát, cần có sự đồng thuận và chia sẻ của các
cấp, của mọi người, của người đi vay và người cho vay, giữa ngân hàng và
doanh nghiệp, giữa Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại, giữa người
gởi tiền và ngân hàng huy động vốn, giữa tổ chức xuất khẩu với tổ chức nhập
khẩu, giữa cái riêng và cái chung…Phải sử dụng cả giải pháp “Tây Y và Đông
y”, giải pháp ngắn hạn ( tỷ giá, lãi suất, hạn mức, thắt lưng buộc bụng, trợ giá,
trợ cấp …) và dài hạn (kiểm soát tín dụng, chi tiêu công, nâng cao năng lực sản
xuất trong nước, tăng năng suất lao động…).
nguyên nhân
Lạm phát do chính sách: thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở rộng,
phản ánh thâm hụt thu chi ngân sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng tiền tệ,
thường là cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ kinh điển đó là những trận siêu lạm
phát ở áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái quá.
Lạm phát do chi phí đẩy: xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay cả khi
thất nghiệp và việc sử dụng nguồn lực còn thấp. Vì tiền lương ( tiền công )
thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp
với tăng trưởng năng suất có thể khơi mào cho quá trình lạm phát. Nhưng lạm
phát do chi phí đẩy có thể không dai dẳng nếu chính sách tiền tệ tác động vào,
trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn tới thất nghiệp cao hơn thay vì lạm
phát cao hơn.
Lạm phát do cầu kéo: xảy ra do tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung lên cao.
Sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay bên ngoài
nhưng thường hình thành từ những chính sách thu chi ngân sách hay tiền tệ mở
rộng.
lạm phát quán tính: có xu hướng dai dẳng ở cùng tỷ lệ cho đến khi những sự
kiện kinh tế gây ra nó thay đổi. Nếu lạm phát cứ đều đặn, tỷ lệ lạm phát thịnh
hành có thể được dự đoán và do đó được đưa vào các hợp đồng tiền lương và tài
chính, điều này lại tiếp tục duy trì nó. Tỷ lệ lạm phát quán tính đôi khi ngụ ý lạm
phát cơ bản hay cốt lõi.
19
Thông thường những cú sốc đối với nền kinh tế từ phía cung hay cầu làm cho tỷ
lệ lạm phát thực tế di chuyển lên trên hay xuống dưới tỷ lệ lạm phát cơ bản. Các
cú sốc chính về phía cầu bao gồm sự tăng nhanh của tổng cầu do dự đoán thu
nhập sẽ tăng.
Biện pháp
- Điều chỉnh mục tiêu kinh tế xã hội nước ta trong ngắn hạn và dài hạn. Xác
định việc kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu và cần có lộ trình. Năm 2008,
Chỉ số CPI ở mức 15-16 %, tăng trưởng GDP ở mức 7-8%.
- Cần có quan điểm thống nhất và đồng thuận trong điều hành. Thủ tướng Chính
phủ là người chỉ huy bộ máy kiềm chế lạm phát, Thống đốc NHNN và Bộ
trưởng Bộ tài chính là thường trực, Bộ trưởng các Bộ và các cơ quan ngang Bộ,
Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố là ủy viên. Tất cả các chính sách phải theo
đúng mục tiêu trên.
- Sử dụng tổng hợp các biện pháp ngắn hạn mang tính cấp bách (chặng sốt) và
dài hạn (giảm sốt và đi đến hết sốt)
- Tập trung giải quyết tốt các chủ trương chính sách của Chính Phủ đã ban hành
và kịp thời tổng kết theo định kỳ để điều chỉnh giải pháp và liều lượng.
+ Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự trữ bắt
buộc, giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu- tái chiết khấu, tái cấp vốn,
giảm cung tiền , kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị trường
quốc tế để hạn chế một phần tác động của lạm phát quốc tế , cắt giảm và kiểm
soát chi tiêu công một cach hiệu quả, chính phủ phải thắt lưng buộc bụng, Chính
phủ ban hành những Sắc lệnh mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn,
chống đến cùng các nhóm đầu cơ găm hàng làm giá, buôn lậu (tội phá hoại kinh
tế).
+ Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi ngày): kiểm
soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham
nhũng thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho
tăng trưởng trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt
theo hướng mở rộng biên độ và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa
tình trạng đô la hóa tại VN, sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách tiền
tệ theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế8
Giai đoạn 2011
Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước
trong tháng 12 và cả năm 2011. Theo đó, CPI trong tháng cuối năm tăng 0,53%,
8 Cùng các chuyên gia phân tích nguyên nhân về lạm phát hiện nay-
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 210 –
THÁNG 4/2008- />
20
cao hơn 2 tháng trước đó. Con số này đưa chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011
tăng cao hơn 18,13% so với cùng kỳ 2010. Tuy nhiên, tính chung trong cả năm
2011, mặt bằng giá đã tăng 18,58% so với 2010.
Tính chung trong cả năm 2011, lạm phát cả nước đạt 18,58%9.
Nguyên nhân
Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một
cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ
bản sau:
Thứ nhất, do đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư
công. Nhưng nhà nước chỉ nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn
cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có
hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế
và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của
khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm
vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20%
GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt
hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái
cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.
Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực
thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và
một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được
sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí
trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ
rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và một
phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hoạt động kinh doanh có tính đầu
cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Dĩ nhiên, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động lực tăng
9
Nhật Minh-Lạm phát cả năm vượt 18%- />
2717173.html-vnexpress-đăng ngày 23/12/2011
21
trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp
cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày.
Thứ ba, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm
phát luôn cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như
nhiều lần tôi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng
hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở
nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít
hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiên lệch
như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường có nhu
cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng tiền
làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá
như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi
thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng
với lạm phát luôn ở mức rất cao10.
Giải pháp
Mục tiêu của Chính phủ năm 2011 là duy trì lạm phát ở mức 7% và ổn định kinh
tế vĩ mô. Theo tôi để đạt được tỷ lệ lạm phát dưới 10% và tăng trưởng kinh tế
khoảng 7% thì Chính phủ cần quyết liệt thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
- Giảm chi tiêu công, giảm bội chi ngân sách thấp nhất, có thể chỉ bội chi ở mức
2%
- Tăng cường kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu, có những biện pháp kỹ thuật
để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu, những mặt hàng đã sản
suất được ở trong nước.
- Khuyến khích sản suất hàng hóa trong nước, vận động người Việt Nam sử
dụng hàng Việt Nam.
- Giảm lãi suất huy động bằng USD từ dân cư để người dân không giữ USD mà
giữ tiền đồng. Tăng lãi suất cho vay USD để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
không thiết yếu. Tất cả các mặt hàng từ nhỏ nhất đều phải niêm yết bằng VND
10Huỳnh Thế Du -Đâu là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam-vinacorp- inacorp.vn/news/dau-la-nguyen-nhanchinh-dan-den-lam-phat-o-viet-nam/ct-452603- đăng ngày 6/5/2011
22
- NHNN cần có quy định về tỷ lệ cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại
căn cứ vào các chỉ số tài chính của ngân hàng TM để đảm bảo kiểm soát tăng
trưởng tín dụng và rủi ro tín dụng. Khống chế lãi suất cho vay liên ngân hàng tối
đa + 2% so với trần lãi suất huy động để không chạy đua về lãi suất huy động.
- Từng bước giảm lãi suất huy động và cho vay để các doanh nghiệp và người
dân ổn định sản xuất, ổn định cuộc sống từ đó giá thành sản phẩm sản xuất ra sẽ
ổn định và từng bước giảm được giá.
- Việc tăng giá một số mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, điện, than cần phải tính
toán và xem xét lại vì giá những mặt hàng này tăng sẽ dẫn đến việc tăng giá
hàng loạt các mặt hàng thiết yếu khác dẫn đến lạm phát sẽ tăng cao, đời sống
của người lao động gặp nhiều khó khăn, tạo ra một vòng luẩn quẩn đối với nền
kinh tế mà chúng ta phải đối phó từ 2008 tới nay.
- Nhà nước có thể giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0%, giảm các chi phí
sản suất kinh doanh tại các đơn vị như xăng, dầu, than, điện và các đơn vị phân
phối trung gian để tiết giảm chi phí từ đó có thể giảm giá thành11
Xu hướng lạm phát 2017
Trong tương lai gần có thể nhận định rằng, chưa có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho
việc lạm phát cao quay trở lại.
Xét từ góc độ vĩ mô, ở trong nước mức lãi suất huy động và cho vay được dự
báo sẽ rất khó giảm, vì tiền gửi tiết kiệm sẽ không thể tăng trưởng liên tục ở
mức 15%/năm, trong khi GDP danh nghĩa chỉ tăng trưởng 7%/năm, còn
các ngân hàng thương mại (NHTM) yếu kém vẫn phải tăng huy động vốn để xử
lý nợ xấu thông qua nhiều cách khác nhau, kể cả đảo nợ. Nói cách khác, tình
trạng nợ nần ở cả khu vực công lẫn khu vực tư sẽ khiến lãi suất duy trì ở mức
cao và tiếp tục cản trở đầu tư và tiêu dùng.
Xét trên góc độ phân tích kỹ thuật, do lạm phát có tính ỳ rất cao nên nhiều khả
năng xu hướng lạm phát thấp trong năm 2016 (không tính điều chỉnh giá bằng
biện pháp hành chính) sẽ tiếp tục trong năm 2017, nhất là trong bối cảnh kinh tế
chưa có nhiều đột biến theo hướng thuận lợi.
Bởi vậy, nếu trong năm 2016 không có các cuộc điều chỉnh giá bằng biện pháp
hành chính, lạm phát so với cùng kỳ năm trước được dự báo sẽ giảm dần từ mức
5% trong tháng 1-2/2017 xuống còn 1% vào tháng 12/2017 (Hình 2). Lạm phát
11 Nguyễn Như Tưởng- Giải pháp kìm chế lạm phát và ổn định kinh tế -
/>
phap-kim-che-lam-phat-va-on-dinh-kinh-te-nam-2011-2188424.html- đăng năm 2011 đăng ngày 23/2/2011
23
trung bình trong năm 2017, theo định nghĩa là trung bình số học của lạm phát
cùng kỳ các tháng trong năm, được dự báo sẽ vào khoảng 2,6%.
Về tổng thể, có thể nhận định rằng, bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới hiện
nay không có nhiều thuận lợi cho triển vọng đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7%
trong năm 2017. Khi tăng trưởng kinh tế gặp nhiều thách thức, lạm phát cao sẽ
chưa thể xảy ra. Mục tiêu mà Quốc hội đề ra là lạm phát trung bình 4%, do vậy,
hoàn toàn có thể đạt được trong năm 2017, nếu mức điều chỉnh giá dịch vụ y tế
trong năm 2017 chỉ bằng 1/2 so với năm 201612 .
Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia, chúng ta thấy rõ đc vai trò
và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết
nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ hết sức quan
trọng. Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt
và sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế
hiện nay. Bằng sự nổ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy
những thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ
đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước giầu mạnh, ổn
định và phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế.
Lạm phát là chỉ số tổng hợp phản ánh các biến động quan trọng của nền kinh tế:
tiêu dùng, đầu tư, cung cầu hàng hóa, biểu hiện tác động của các chính sách tài
chính, tiền tệ. Mức độ cao hay thấp của lạm phát đều biểu thị khía cạnh đó của
tình trạng kinh tế. Vì vậy việc nhìn nhận rõ nguyên nhân, bản chất của thực
trạng nền kinh tế chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp hữu hiệu để phòng
chống. Có như vậy nền kinh tế mới phát triển ổn định và bền vững. ở nước ta, về
cơ bản đã ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kì mới, ổn định và phát triển. Tuy
nhiên, cần chỉ ra rằng, dù đã làm được nhiều việc và đã thu được thành tích đáng
khâm phục và khích lệ, song chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm trong tương
lai. Lạm phát đã được kiềm chế, nền kinh tế đã có sự tăng trưởng rõ rệt, nhưng
chủ yếu vẫn dựa vào sự trợ giúp của nước ngoài. Chúng ta mong đợi và tin
tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế của đất nước sẽ đi đến thắng lợi.
12
NGUYỄN ĐỨC ĐỘ-Xu hướng lạm phát năm 2017 đăng 6/1/2017- chí tài chính kỳ 1+2 năm 2017-đăng ngày 26/1/2017
24
Tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo-2014- Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin -nhà xuất bản chính trị quốc gia-trang 203 đến 214.
2. Nguyên nhân gây ra lạm phát, nhóm tác giả Đại học kinh tế quốc dân, https://
voer.eduv.vn/m/nguyen-nhan-gay-ra-lam-phat/f7cf91f7
3. Hà Thu - 5 trường hợp lạm phát tồi tệ nhất lịch sử -vnexpress-đăng ngày 7/3/2011
4. Dân kinh tế - />5. Khái niệm và phân loại lạm phát - nhóm tác giả Đại học kinh tế quốc dân.
/>6. Nguyễn Tri Khiêm - Nguyên nhân xảy ra lạm phát />7. MÈO TƯNG TẨY-CÁC GIAI ĐOẠN LẠM PHÁT Ở Việt Nam />8. Cùng các chuyên gia phân tích nguyên nhân về lạm phát hiện nay- TẠP CHÍ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 210 – THÁNG 4/2008 />9. Nhật Minh-Lạm phát cả năm vượt 18%- ngày
23/12/2011
10. Huỳnh Thế Du -Đâu là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Namvinacorp- inacorp.vn/news/dau-la-nguyen-nhan-chinh-dan-den-lam-phat-o-vietnam/ct-452603- đăng ngày 6/5/2011
11. Nguyễn Như Tưởng- Giải pháp kìm chế lạm phát và ổn định kinh tế đăng năm 2011 đăng ngày 23/2/2011
12. NGUYỄN ĐỨC ĐỘ - Xu hướng lạm phát năm 2017 đăng 6/1/2017 />