Mục lục
1
1. Đặt vấn đề
1.1.
Các tranh chấp dân sự xảy ra trước năm 2015
Vụ án 1
Năm 2010, Công ty Cà phê M. (trụ sở tại Đắk Lắk) ký hợp đồng với Công ty T. (trụ sở tại
TP.HCM) để thiết kế một hệ thống chế biến cà phê cho Công ty M. Tổng giá trị hợp đồng là hơn 4 tỉ
đồng, thời hạn Công ty T. phải bàn giao hệ thống chế biến là hai năm kể từ khi ký hợp đồng. Một
năm sau, Công ty T. tạm ngưng công việc, yêu cầu Công ty M. ký thêm phụ lục hợp đồng theo
hướng tăng giá lên do hoàn cảnh thay đổi. Theo Công ty T., tại thời điểm hai bên ký hợp đồng, nhiều
bộ phận, thiết bị để chế tạo hệ thống chế biến cà phê không phải nhập ngoại do các công ty trong
nước sản xuất được. Thế nhưng sau khi có quy định mới của Nhà nước thì một số linh kiện không có
hàng trong nước nữa khiến Công ty T. phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá thành tăng gấp ba lần. Nếu
không điều chỉnh tăng giá hợp đồng thì Công ty T. sẽ bị lỗ nặng, không có vốn để tiếp tục. Công ty
M. không đồng ý, cho rằng Công ty T. đã “cố tình nại ra lý do để đơn phương chấm dứt hợp đồng”
nên khởi kiện yêu cầu TAND một quận tại TP.HCM buộc Công ty T. phải tiếp tục thực hiện công
việc theo đúng thời hạn đã cam kết. Nếu không tiếp tục thực hiện hợp đồng thì Công ty T. phải chịu
phạt hợp đồng như đã thỏa thuận (11% tổng giá trị hợp đồng).
Tại phiên xử sơ thẩm, đại diện Công ty T. cho biết họ không có ý bội ước nhưng do hoàn cảnh
thực tế thay đổi ngoài dự tính nên công ty sẽ bị lỗ nặng nếu cứ căng theo hợp đồng ký năm 2010. Do
đó đại diện Công ty T. đề nghị tòa cho phép hai bên được điều chỉnh hợp đồng với một giá thành
hợp lý hơn. Tuy nhiên, tòa đã không chấp nhận đề nghị trên, tuyên buộc Công ty T. phải tiếp tục
thực hiện hợp đồng theo đúng thời gian và mức giá trong hợp đồng, nếu không sẽ chịu phạt hợp
đồng. Theo tòa, dù hoàn cảnh thực tế thay đổi khiến giá thành sản xuất tăng cao nhưng pháp luật
không cho phép điều chỉnh lại trong tình huống này nên Công ty T. phải tôn trọng hợp đồng đã ký.
Công ty T. kháng cáo. Xử phúc thẩm sau đó, TAND TP.HCM cũng tuyên giữ nguyên bản án sơ
thẩm.1
Vụ án 2
Năm 1992, ông Thiết và bà Lới đăng ký mua một kiốt của ông Son và bà Thìn với giá 7.8 triệu
đồng và bên mua đã thanh toán được 4,8 triệu đồng (tức còn thiếu 3 triệu đồng) và nhận kiốt. Sau đó
các bên có tranh chấp và năm 2006 (14 năm sau), Tòa án xác định thỏa thuận mua bán trên “là hợp
pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện”2
1.2. Vấn đề cần nghiên cứu
Trên thực tế, việc thực hiện hợp đồng có rất nhiều rủi ro khác nhau như những tác động từ thiên
nhiên; thay đổi chính sách liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; sự ảnh hưởng của khoa
học, kỹ thuật, công nghệ,… và kể cả rủi ro liên quan đến con người. Vì những lý do này khó có thể
lường trước được mà khiến cho việc thực hiện hợp đồng khó khăn hơn rất nhiều, thậm chí trong một
số trường hợp không thể thực hiện được hợp đồng, do đó, làm mất đi sự cân bằng về quyền và lợi
ích giữa các bên tham gia hợp đồng. Theo pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các nước trên
1 Thanh Tùng (2015), “Hoàn cảnh thay đổi, được điều chỉnh hợp đồng”, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí
Minh, tham khảo trực tuyến tại: truy cập ngày 25/11/2016.
2 Đỗ Văn Đại, 2015, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, tham luận 4 tại Hội thảo “Chế định hợp
đồng trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)” tháng 3/2015.
2
thế giới, nếu việc không thực hiện hợp đồng là do hành vi trái pháp luật và có lỗi của bên vi phạm
hợp đồng, thì bên vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm dân sự về những việc mà mình đã gây ra. 3
Còn đối với những rủi ro nêu trên khiến cho một bên không hoàn thành nghĩa vụ, những quy định
trước khi có BLDS 2015 bắt các bên cũng phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp này, đến
khi BLDS 2015 ra đời, vấn đề loại trừ trách nhiệm vi phạm hợp đồng do “hoàn cảnh thay đổi” được
ghi nhận tại Điều 420 đã giúp bảo đảm lợi ích và chia sẻ rủi ro có thể xảy ra. Quy định này được tiếp
nhận từ pháp luật quốc tế và trong thực tiễn xét xử, giúp pháp luật nước ta gần hơn với pháp luật thế
giới trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu.
2. Khái niệm điều khoản sửa đổi hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi căn bản
2.1. Hardship – một ngoại lệ của nguyên tắc Pacta sunt servanda
Nguyên tắc Pacta sunt servanda được hiểu là khi các bên đã tự nguyện giao kết hợp đồng thì phải
thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó, hay có thể thấy mục đích của nguyên tắc này là để
bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng, ngăn chặn việc một bên muốn từ bỏ và đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Trên thực tế, như những trường hợp đã nêu trên có thể thấy rằng hoàn
cảnh đã thay đổi đáng kể khiến cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn, việc luôn phải tuân
thủ theo nguyên tắc Pacta sunt servanda là không phù hợp. Để mềm dẻo nguyên tắc Pacta sunt
servanda, cũng như bù đắp các lỗ hổng từ hợp đồng, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế đã đưa
vào hợp đồng của họ một điều khoản cho phép bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu bên kia đàm
phán lại hợp đồng. Điều khoản này được gọi là điều khoản đàm phán lại hợp đồng khi có sự thay đổi
do hoàn cảnh dẫn đến khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện hợp đồng, được gọi ngắn gọn là
“hardship”.4 Hardship - hiểu nôm na là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp đồng có
quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế, tới mức
gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng,
làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém. Theo đó, điều khoản hardship
quy định những cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án
điều chỉnh hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về
lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế.5 Tuy
nhiên, việc áp dụng những điều khoản này còn có nhiều hạn chế và chưa thể bao quát đực hết những
trường hợp nào xảy ra và cản trở việc thực hiện hợp đồng, đồng thời, trước những rủi ro đó, việc
thực hiện hợp đồng là có thể nhưng lại khó khăn và tốn kém, một bên trong hợp đồng sẽ phải chịu
những tổn thất mà trước đó họ không thê lường trước được. Nếu vẫn muốn thực hiện hợp đồng, đặc
biệt là hợp đồng dài hạn, thỏa thuận phải được thực hiện nhiều lần. Do đó, thực hiện hợp đồng này
chỉ mang tính gượng ép và bó buộc các bên một cách cứng nhắc, không còn trên cơ sở xác lập hợp
đồng ban đầu.6
Điều khoản hardship là căn cứ pháp lý để sửa đổi hợp đồng với điều kiện: khi có sự thay đổi
không thể lường trước được của hoàn cảnh; nằm ngoài sự kiểm soát của các bên; ảnh hưởng tới hợp
3 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
4 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
5 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
3
đồng với mức độ làm đảo lộn sự cân bằng trong hợp đồng. Do đó, các điều khoản này các vai trò là:
duy trì sự cân bằng về mặt kinh tế và đảm bảo sự tiếp tục thực hiện hợp đồng; phân chia rủi ro giữa
các bên; thiết lập một cơ chế điều chỉnh hợp đồng phù hợp với lợi ích của các bên.7 Harship và sự
kiện bất khả kháng thường dễ gây nhầm lẫn, do vậy cần có cái nhìn bao quát về hai vấn đề này.
Điềm giống nhau là cả hau đều là sự kiện khách quan, xảy ra sau khai các bên xác lập hợp đồng, ảnh
hưởng trực tiếp tới quá trình thực hiện hợp đồng. Khác nhau thể hiện ở chỗ, hardship có phạm vi áp
dụng rộng rãi hơn, thường được sử dụng để điều chỉnh các hợp đồng dài hạn, chúng có mục đích là
đàm phán, chỉnh sửa lại các điều khoản hợp đồng sao cho việc thực hiện hợp đồng có thể được tiếp
tục; trong khi đó, sự kiện bất khả khán lại khiến cho hợp đồng chấm dứt và để miễn trách nhiệm vi
phạm hợp đồng.
2.2. Nội dung cơ bản của điều khoản hardship
Nội dung cơ bản của hardship trong pháp luật của các nước trên thế giới thường có ba nội dung
cơ bản sau:
2.2.1. Quy định khái niệm của hardship clause và dấu hiệu nhận biết
“Hardship clause” – Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi được xác lập khi có các
sự kiện khách quan làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc chi phí thực
hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống,… và thỏa mãn bốn điều
kiện: các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; bên bị bất
lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; các sự kiện nằm ngoài
sự kiểm soát của bên bị bất lợi; rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất sợi gánh chịu. 8 Do
đó, có thể thấy, điều khoản này dựa trên hai yếu tố cơ bản, là sự xuất hiện sự kiện khách quan ngoài
ý chí và ngoài sự dự liệu của các bên, sau khi xác lập hợp đồng, mà hậu quả của nó là làm thau đổi
cơ bản sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng (điển hình như cách tiếp cận của PICC).9
Trên thực tế, để nhận biết giữa hardship và các sự kiện loại trừ (không được coi là hoàn cảnh thay
đổi) thông qua các trường hợp như: rủi ro của đối tượng trong hợp đồng, sự biến đổi liên quan đến
chính trị, giá của một mặt hàng được sử dụng để thực hiện hợp đồng tăng, hay là sự mất giá của
6 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân
sự năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />7 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
8 ThS Lê Đinh Bảo Tâm, Một số vấn đề về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong quy định của bộ
luật dân sự 2015 dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế, Website: Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh, Cập nhật: 20/09/2017. />fbclid=IwAR0QawmJtxO_xj1yObwp5eFFUd8wWLrHSAGYeCkanIHfdjNMRfW4ifEjUuU
9 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
4
ngoại tệ trong quy định đồng tiền thanh toán hợp đồng,…Trong ấn bản PICC 1994 có đưa ra diễn
giải “sự thay đổi đến 50% hoặc hơn về giá hay giá trị của nghĩa vụ thì sẽ được coi là một sự thay đổi
cơ bản”. Tuy nhiên, đến bản PICC 2004 và PICC 2010, phần diễn giải đã không còn giữ lại con số
50%, mà được chỉnh sửa lại “một sự thay đổi có được coi là cơ bản hay không trong một vụ việc
phải được xác định tùy vào hoàn cảnh”.10
2.2.2. Nghĩa vụ thương thảo lại hợp đồng và các thủ tục pháp lý cần thiết của việc thương thảo lại
hợp đồng
Hoàn cảnh thay đổi dẫn đến việc hợp đồng khó có thể thực hiện hoặc không thực hiện được, để
xử lý, các bên tham gia cần đàm phán lại cách thức và thủ tục thực hiện hợp đồng để sửa đổi lại nội
dung cho phù hợp với thực tế và đảm bảo được lợi ích giữa các bên tham gia hợp đồng. Điều này
được quy định trong nội dung của một số điều khoản trong PICC và PECL như sau:
Điều 6.2.1 PICC quy định “Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình ngay cả khi việc thực
hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, trừ các quy định liên quan dưới đây về hardship”. Quy định này
của người soạn thảo khá khắt khe, có thể thấy rằng hardship là một ngoại lệ của nguyên tắc Pacta
sunt servanda và sử dụng được hardship là còn hạn chế.11
PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng quy định về sự thay đổi hoàn cảnh, như quy định tại
Điều 6:111, khoản 3: “Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong khoảng thời gian hợp lý, toà án
có thể: (a) chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện do toà án xác định; hoặc (b) sửa
đổi hợp đồng nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo
một cách thức công bằng và bình đẳng. Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc bên
từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi
thường thiệt hại mà bên kia phải gánh chịu”. Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc
bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi
thường thiệt hại mà bên kia phải gánh chịu”.12
Do đó có thể thấy Các nguyên tắc pháp luật hợp đồng Châu Âu cũng có quy định gần giống với
Bộ nguyên tắc Unidroint, tuy nhiên cách xử lý rộng hơn, dễ dàng áp dụng hơn trong thực tế. Tòa án
thường áp dụng PICC và PECL để giải quyết các vụ việc liên quan đến hoàn cảnh thay đổi, bằng
cách hoặc là cho phép chấm dứt hợp đồng, hoặc bắt buộc các bên phải đàm phán lại hợp đồng dựa
trên nguyên tắc thiện chí, trung thực.
3. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp luật các
nước và trong tập quán thương mại quốc tế
10 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />11 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
12 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
5
Khái niệm hardship xuất hiện trong thực tiễn thương mại vào những năm 1960 và được trình bày
lần đầu tiên trong các nghiên cứu của Marcel Fontaine, in trong quyển “Pháp luật hợp đồng quốc
tế”, xuất bản năm 1989. Nội dung của điều khoản hardship cũng được thể hiện trong các hợp đồng
thương mại quốc tế, dưới nhiều dạng điều khoản khác nhau. Theo Marcel Fontain, từ những năm
1975, nhóm nghiên cứu của ông tập hợp được hơn 120 điều khoản hardship từ thực tiễn thương mại.
Một số điều khoản loại này đã được Henry Lesguillons khái quát lại và trình bày trong Hội thảo
quốc tế tổ chức ở Hà Nội năm 2004. Có nhiều nước trên thế giới từng công nhận và xây dựng khung
pháp lý và án lệ cho điều khoản hardship để điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay
đổi.13
3.1. Hardship clause trong thực tiến pháp lý của một số nước chịu ảnh hưởng của hệ thống Châu
Âu lục địa – Civil Law
Các quy định về điều khoản hardship trong hệ thống các nước Châu Âu lục địa là khác nhau, thể
hiện các mức độ chấp nhận không giống nhau, cụ thể như sau:
3.1.1. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Pháp:
Trước đây, Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 chỉ ghi nhận nguyên tắc pacta sunt servanda tại Điều
1134, mà không có quy định chung về việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Vì vậy, các
Tòa án tư pháp luôn tuân thủ triệt để nguyên tắc pacta sunt servanda, theo đó, một bên chỉ được
miễn trách nhiệm trong trường hợp bất khả kháng. 14 Tòa án vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc này cho
đến khi xuất hiện những vụ án liên quan đến hoàn cảnh thay đổi. Xem xét hai án lệ điển hình sau:
Vụ tranh chấp về hợp đồng cung cấp khí đốt giữa Công ty khí gas Bordeaux với Tòa Thị chính
thành phố, do Tham chính viện (Tòa Hành chính tối cao Pháp) xử ngày 30/3/1916, Tham chính viện
đã khẳng định rằng, khi hoàn cảnh thay đổi không lường trước được đối với một hợp đồng hành
chính, một bên có thể được bồi thường để xác lập lại sự cân bằng về tài chính trong hợp đồng và để
tránh việc cung cấp dịch vụ công cộng bị gián đoạn. Mặc dù các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng
một giá cung cấp khí đốt cố định trong một khoảng thời gian dài, nhưng do giá khí đốt tăng đột biến,
nếu tòa không sửa đổi các điều kiện (hoặc tăng giá) cung cấp khí đốt, chắc chắn công ty khí đốt sẽ đi
đến bờ vực phá sản và việc cung cấp khí đốt sẽ phải dừng lại. Do đó, Tham chính viện đã cho rằng,
các bên có thể thỏa thuận để thay đổi hợp đồng, nhưng nếu bên có quyền từ chối việc này thì công ty
khí đốt có quyền đòi một khoản tiền bù đắp tổn thất, gọi là tiền bồi thường cho khoản tổn thất không
thể dự đoán, do cơ quan hành chính được cung cấp khí đốt trả.15
Trong vụ án trên liên quan đến lĩnh vực luật công, tòa án đã chấp nhận điều chỉnh hợp đồng trong
lĩnh vực luật công. Tuy nhiên, điều khoản này lại bị tòa án tư pháp của Pháp hủy bỏ, điển hình là án
lệ Canal de Craponne. Năm 1567, các bên giao kết hợp đồng dịch vụ dẫn nước từ con kênh
13 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 – 51.
14 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
15 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Crappone vào khu vườn lân cận. Sau ba thế kỷ, giá dịch vụ dần trở nên bất hợp lý, thậm chí là
không đủ để bù đắp chi phí vận hành con kênh. Năm 1873, Tòa Phúc thẩm (Cour d’Appel) Aix cho
phép bên cung cấp dịch vụ (chủ của con kênh) được tăng giá dịch vụ để phù hợp với hoàn cảnh mới.
Tuy nhiên, năm 1876, Tòa Phá án hủy bỏ bản án trên vì cho rằng: “Điều 1134 của Bộ luật Dân sự
Pháp là một quy định chung và tuyệt đối, do đó, các Tòa án dù cho rằng quyết định của mình là hợp
lý cũng không được sử dụng yếu tố thời gian và hoàn cảnh để làm căn cứ thay đổi hợp đồng do các
bên xác lập”. Cách hiểu và áp dụng nguyên tắc pacta sunt servanda như trên trở thành quan điểm
thống trị gần như tuyệt đối trong thực tiễn tài phán tại Pháp suốt nhiều thế kỷ.16
Tòa án Pháp giải quyết các vụ việc luôn tuân thủ nguyên tắc pacta sunt sevanda có phần cứng
nhắc và kém linh hoạt. Trong thực tiễn thương mại ngày càng phát triển, nguyên tắc này cần được
mài giũa và thay đổi dần để điều khoản hardship được chấp nhận. Trong lịch sử, sau Đại chiến 1914
– 1918, do đồng tiền của Pháp bị mất giá, Quốc hội đã cho ban hành đạo luật Failliot ngày
21/01/1918 cho phép các thẩm phán được giải hiệu các hợp đồng xác lập trước 1914 mà việc thực
hiện là quá bất công đối với người có nghĩa vụ. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, một đạo luật do Quốc
hội ban hành ngày 22/4/1949 cũng cho phép tòa án giải hiệu các hợp đồng ký kết trước ngày
02/9/1939 mà việc thực hiện (giao hàng hay làm một công việc) trở nên quá nặng nhọc cho người có
nghĩa vụ, vì tình hình chiến tranh hay do sự thay đổi kinh tế không thể dự đoán được khi giao kết
hợp đồng.17 Tuy không được sử dụng rộng rãi trong các án lệ, nhưng hardship vẫn được các nhà làm
luật pháp thừa nhận trên thực tế khi xảy ra những biến động về chính trị.
Năm 2016, Bộ luật Dân sự Pháp trải qua một đợt sửa đổi quan trọng liên quan đến luật nghĩa vụ.
Việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi đã được ghi nhận tại Điều 1195 Bộ luật Dân sự
Pháp. Theo đó, nếu sau khi giao kết hợp đồng, hoàn cảnh thay đổi cơ bản đến mức làm cho chi phí
thực hiện nghĩa vụ đó tăng lên, mà bên bị bất lợi không thể gánh chịu rủi ro về sự kiện này, họ có
quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Trong quá trình đàm phán lại hợp đồng, bên bị bất
lợi vẫn phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu các bên không thỏa thuận được, các bên có quyền hủy bỏ hợp
đồng, hoặc cùng yêu cầu Tòa án sửa đổi hợp đồng. Nếu sau một thời hạn hợp lý mà hai bên không
thỏa thuận được, Tòa án, theo yêu cầu của một bên, có quyền sửa đổi hợp đồng hoặc chấm dứt hợp
đồng vào ngày và theo các điều kiện do Tòa án quyết định. 18 Như vậy, điều khoản sửa đổi hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản chính thức được chấp nhận ở pháp kể cả trong thực tiễn xét xử cũng
như hoạt động thương mại sau quá trình đấu tranh dài về mặt tư tưởng của các học giả Pháp.
3.1.2.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Đức
16 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
17 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
18 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
7
Trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, pháp luật Đức cũng rất khắt khe về việc sửa đổi hợp
đồng do hoàn cảnh thay đổi, họ chỉ ghi nhận quy định về không thể thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên,
sau khi kết thúc chiến tranh thì tình hình siêu lạm phát xảy ra, trị giá đồng tiền giảm mạnh vào từng
thời điểm trong ngày, đồng tiền mất giá khiến cho nhiều hợp đồng không thể thực hiện được. Do đó,
tòa án Đức muốn giải thoát cho các bên trong hợp đồng nhưng lại vấp phải sự phản đối quyết liệt
khi cho rằng đã không tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda. Sau đó, Giáo sư Oertmann phát triển
học thuyết mới về căn cứ của hợp đồng. Theo học thuyết này, mong đợi của một bên trong việc thực
hiện hợp đồng phải trùng khớp với mong đợi của bên kia hoặc bên kia phải được thông báo rõ ràng
về mong đợi này. Nếu sau khi hợp đồng được giao kết mà hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì căn cứ của
hợp đồng không còn nữa, và Tòa án có quyền giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ thực hiện hợp đồng
hoặc sửa đổi hợp đồng nhằm tái lập sự cân bằng. Học thuyết này của Giáo sư Oertmann nhanh
chóng được các Tòa án Đức đón nhận và áp dụng trong thời gian dài.19
Bên cạnh đó, có một án lệ tiêu biểu cho điều khoản này. Trong một phán quyết của trọng tài
Berlin, trọng tài đã công nhận hoàn cảnh hardship cho một công ty nước Cộng hòa dân chủ Đức khi
thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy móc từ công ty Đông Âu. Khi nước Đức thống nhất, thị trường
Tây Đức mở của cho các doanh nghiệp Đông Đức, và do vậy, máy móc của công ty Đông Đức nhập
khẩu gần như mất hoàn toàn giá trị. Tòa lập luận rằng sự kiện đã nêu trên thực sự dẫn đến một thau
đổi cân bằng hợp đồng ban đầu.20
Tại Bộ luật dân sự Đức sửa đổi năm 2002, Điều 313 quy định rằng khi hoàn cảnh thay đổi
nghiêm trọng tới mức làm mất đi căn cứ của nó thì bên bị ảnh hưởng bất lợi được yêu cầu bên kia
điều chỉnh hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng. 21 Đây là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp
liên quan trọng việc khó khăn hoặc không thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng, nhờ đó, các vụ
án được giải quyết nhanh chóng và linh hoạt hơn.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Italia
Báo cáo so sánh luật được Nhà xuất bản Société de législation comparée công bố năm 2010 cho
thấy nhiều quốc gia đã có quy định về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Nước đi tiên
phong là Italia. BLDS Italia năm 1942 đã có quy định buộc các bên đàm phán lại hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi.22 Các Điều 1467 đến Điều 1469 của BLDS Italia 1991 quy định về các điều khoản
3.1.3.
19 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
20 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />21 Ngô Quốc Chiến, 2014, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự 2015,
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (294), tr 29-33.
22 Ngô Quốc Chiến, 2014, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự 2015,
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (294), tr 29-33.
8
này.23 Theo đó, nội dung cơ bản là cam kết hợp đồng có thể hủy bỏ khi xảy ra các sự kiện bất thường
mà không thể biết trước được vào lúc ký kết và trước khi thực hiện hợp đồng, điều đó làm cho việc
thực hiện hợp đồng của một bên trở nên khó khăn và khó có thể tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ. Để
tránh việc hủy bỏ hợp đồng, các bên cần cam kết điều chỉnh lại để phù hợp với những thay đổi đó,
thế nhưng, các quy định này lại không mang tính bắt buộc.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật của một số nước khác
Tại Bồ Đào Nha: điều chỉnh hợp đồng được quy định tại BLDS Bồ Đào Nha dựa trên các luật
như: Điều 252 về sai xót trong việc xác định ý chí, từ Điều 437 đến Điều 439 để giải quyết, sửa đổi,
bổ sung khi có hoàn cảnh thay đổi. Gần giống như Bồ Đào Nha là Hà Lan quy định tại Điều 258
BLDS Hà Lan về việc can thiệp, sửa đổi các điều khoản của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi của
thẩm phán. Các nước như Hy Lạp và Đan Mạch cũng có những quy định tương tự như vậy. Châu Á
có Nhật Bản cũng thừa nhận việc loại trừ trách nhiệm vi phạm cho bên vi phạm và cho phép bên vi
phạm có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng khi có “Hoàn cảnh thay đổi”, thể hiện trong việc ghi
nhận các điều khoản hardship trong BLDS, ngoài ra, Điều 415 khi các bên cam kết phải có trách
nhiệm với bên kia do việc không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Các luật gia Nhật Bản cũng chấp
nhận học thuyết “Thay đổi hoàn cảnh” khi chi phí thực hiện hợp đồng thương mại hàng hóa hay giá
cả thị trường có sự thay đổi lớn. Học thuyết này cũng được tòa án Nhật Bản chấp nhận và áp dụng
từ sau thế chiến thứ hai, đến nhiều thập niên sau này, cụ thể là từ sau Sắc lệnh kiểm soát hóa được
ban hành“và sau đó trở thành nguyên tắc chung của hợp đồng.24
Một số nước khác tại Châu Phi như Ai Cập, Syrie, Algérie cũng có quy định về vấn đề này, nếu
các bên thỏa thuận trái với quy định này thì hợp đồng vô hiệu.25
3.2. Điều khoản hardship trong thực tiễn pháp lý ở một số nước theo hệ thống Thông luật –
Common Law
3.2.1. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Anh
Trước thế kỷ XIX, pháp luật Anh không công nhận điều khoản hợp đồng thay đổi, do đó, họ cũng
không khuyến khích viẹc chỉnh sửa hợp đồng trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả khi rất khó hoặc
không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi khi có án lệ Taylor v.
Caldwell, theo đó, hợp đồng chỉ bị hủy bỏ khi đối tượng không còn tồn tại 26. Sau đó, việc tiêu giải
hợp đồng còn được áp dụng khi mục đích không còn. Một trong những trường hợp hiếm có mà pháp
3.1.4.
23 Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật nước
ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 - 51.
24 ThS Lê Đinh Bảo Tâm, Một số vấn đề về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong quy định của
bộ luật dân sự 2015 dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế, Website: Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh, Cập nhật: 20/09/2017. Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
26 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
9
luật Anh áp dụng việc thay đổi hoàn cảnh dẫn đến chấm dứt hợp đồng chính là án lệ Krell v. Henry.
Nội dung là bị đơn thuê một căn hộ tại Pall Mall trong vòng 2 ngày. Mục đích khi ký kết hợp đồng
là nhìn thấy lễ diễu hành đăng quang của Edward VII, mặc dù mục đích này không được nêu ra
trong hợp đồng. Sau khi hợp đồng được ký kết, lễ đăng quang bị hoãn do nhà vua bị bệnh nên hợp
đồng không thể thực hiện được. Tòa đã tuyên cho phép bên thuê được từ chối thực hợp đồng mà
không phải bồi thường. Nhưng thực chất phán quyết này không dựa trên điều khoản sửa đổi hợp
đồng do hoàn cảnh thay đổi mà lại căn cứ vào điều khoản không thể thực hiện hợp đồng do mục
đích của hợp đồng không còn tồn tại.27
Có thể thấy học thuyết tiêu giải hợp đồng đã được đưa vào thực tiễn xét xử và trở nên linh hoạt
hơn, tuy nhiên tòa án Anh lại rất ít khi áp dụng. Khi được đưa vào áp dụng thì tòa án chỉ có quyền
tuyên bố hủy bỏ hợp đồng chứ không được điều chỉnh lại hợp đồng giống như quy định của đa số
các nước Civil Law.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Mỹ
Thực tiễn xét xử cũng như các án lệ của Mỹ đã có phán quyết không nhất quán về vấn đề hoàn
cảnh thay đổi. Xem xét hai án lệ điển hình của Mỹ như sau:
Trong vụ Transatlanic Corp. v United States (1966): Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (A) thuê Công ty
xuyên Đại tây dương (B) chở tàu chiến qua kênh đào Suez, Ai Cập. Nhưng do kênh đào này bị đóng
cửa, nên B phải đi đường vòng quanh Châu Phi, làm tăng chi phí rất lớn. B đòi A phải thanh toán chi
phí tăng lên ngoài dự kiến. Mặc dù tòa nhận xét: “nghĩa vụ không thể thực hiện được” không cần
phải hiểu theo nghĩa tuyệt đối mà chỉ dựa trên các lý do kinh tế là đủ, nhưng tòa lại kết luận rằng, rủi
ro này có thể phải do một bên dự liệu và phải tự gánh chịu. Trái lại, các án lệ Mineral Park land Co.
v. Howard (1916) và án lệ Waegemann v. Montgomary Ward & Co., Inc. (1983) cũng như Điều 2 –
609 UCC lại thừa nhận và cho áp dụng điều khoản đàm phán lại hợp đồng do thay đổi hoàn cảnh.
Theo đó, “nếu chi phí để thực hiện nghĩa vụ trong thực tế đã thay đổi đáng kể, lớn hơn gấp 10 lần
chi phí đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng, thì bên phải thực hiện nghĩa vụ có thể yêu cầu
tòa án tuyên bố chấm dứt quan hệ hợp đồng vì lý do không thể thực hiện được” hoặc cho phép điều
chỉnh hợp đồng. Trong vụ Waegemann kiện Montgomary Ward & Co., Inc., bị đơn thuê nhà của
nguyên đơn, thời hạn 10 năm, với số tiền là 16.703 USD/năm gồm cả tiền thuế bất động sản, đáo
hạn sau mỗi 5 năm. Sau 5 năm lần thứ nhất, nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng vì chính phủ
Bang California quyết định giảm thuế bất động sản dẫn đến giảm giá trị bất động sản. Điều này dẫn
đến tiền thuê nhà (được tính theo bảng giá lũy tiến) cũng giảm xuống còn 15.854,49 USD/năm, nên
bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải tính lại tiền thuê theo giá này. Nguyên đơn đã kiện bị đơn ra tòa yêu
cầu tòa án cho chấm dứt hợp đồng vì cho rằng, hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được là do bất
khả kháng. Nhưng cả tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm đều bác yêu cầu của bên nguyên đơn vì cho rằng,
đây là hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, không phải là bất khả kháng, và buộc các bên phải tiếp tục hợp
đồng theo giá mà bị đơn đề xuất. Tòa sơ thẩm đã lập luận rằng: “các bên đã giao kết hợp đồng thì
phải thực hiện cam kết đó dựa trên niềm tin chắc chắn là hợp đồng sẽ được thực hiện, nhưng qui tắc
3.2.2.
27 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
10
này sẽ phải bị giới hạn trong một số trường hợp gọi là extreme hardship (hoàn cảnh khó khăn tột
cùng).” 28
Tùy vào từng trường hợp, từng chi tiết cụ thể của vụ án mà tòa án có các cách giải quyết khác
nhau để linh hoạt hơn trong thực tiễn xét xử, giúp cân bằng lợi ích giữa các bên.
3.3. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng
thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng
Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi được quy định tại Điều 6.2.1 đến Điều 6.2.3 của Bộ
nguyên tắc Unidroit 2010 về hợp đồng thương mại quốc tế, với nội dung cụ thể là: Điều 6.2.1 chỉ rõ
nếu hoàn cảnh thay đổi, thì các bên trong hợp đồng vẫn phải tuân theo nguyên tắc pacta sunt
servanda mà không được tạm dừng hay chấm dứt hợp đồng; Điều 6.2.2 đã đưa ra định nghĩa
hardship và Điều 6.2.3 quy định hệ quả của hardship và quy trình xử lý khi hợp đồng xuất hiện
hardship.
Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng (PECL phiên bản 1999 – 2002) có đưa ra tên gọi “Sự thay
đổi hoàn cảnh” (change of circumstances) tại Điều 6:111. Tuy với tên gọi khác so với PICC, nhưng
vấn đề này được quy định đồng nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi áp dụng và cách thức giải
quyết vấn đề. Tuy nhiên, có thể thấy PECL có phần đầy đủ hơn khi quy định trách nhiệm các bên
phải điều chỉnh hợp đồng trước, và chỉ khi các bên không điều chỉnh thì toàn án mới cho chấm dứt
hoặc sửa đổi hợp đồng theo một cách công bằng.29
4. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo pháp luật Việt Nam
4.1. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trước khi có BLDS 2015
Quy định trong pháp luật Việt Nam trước năm 1975
Thời kỳ này, pháp luật Việt Nam công nhận nguyên tắc “các hợp ước phải được thi hành dưới sự
thành ý” (dựa vào khoản 3, Điều 673, Bộ luật dân sự Bắc Kỳ). Có thể thấy rằng luật thực định đồng
ý điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, tòa án can thiệp khi một bên phải nhận quá nhiều sự
bất công bởi hợp đồng gây nên. Tuy nhiên, án lệ lại không chấp nhận vấn đề này, cụ thể, trong bản
án ngày 27/12/1946, Tòa Thượng thẩm Sài Gòn đã không chấp nhận sự thay đổi hiệu lực hợp đồng
chỉ vì bên có nghĩa vụ lâm vào hoàn cảnh khó khăn do xuất hiện sự kiện không lường trước được:
“mặc dù nhà thầu phải thi hành khế ước thầu khoán trong những điều kiện tốn kém hơn vì giá vật
liệu do tình trạng chiến tranh đã tăng hơn 300%, các thẩm phán cũng không thể thay đổi khế ước.”
30
Quy định trong pháp luật Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2015
28 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
29 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
30 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
11
Pháp luật Việt Nam giai đoạn này chưa công nhận điều khoản điều chỉnh hợp đồng thay đổi, tuy
nhiên tại các văn bản chuyên ngành và nghị định của chính phủ cũng đã được đề cập tới. Do đó, việc
sử dụng hardship trong thực tế còn eo hẹp và hạn chế.
- Về hợp đồng bảo hiểm: Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000
“ Điều 20.Thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm.
1. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đếngiảm các rủi ro được bảo
hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanhnghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời
gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên muabảo
hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phảithông báo ngay bằng
văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng
bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh
nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông
báo ngay bằng vănbản cho bên mua bảo hiểm.”
Vì vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cho phép điều chỉnh phí bảo hiểm khi xuất hiện những
rủi ro từ những biến cố không lường trước trong thực tế.
-
Về xây dựng cơ bản và đấu thầu: các bên có thể thỏa thuận lại về giá bán trong hợp đồng khi có
những thay đổi về chính sách tiền lương và chính sách giá của các mặt hàng do nhà nước kiểm soát
giá. Được thể hiện thông qua Điều 57 của Luật Đấu thầu 2005, cụ thể:
“ Điều 57. Điều chỉnh hợp đồng:
1. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn giá, hình thức hợp
đồng theo thời gian và được thực hiện theo quy định sau đây:
a) Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp
đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời điểm các chính sách này có hiệu lực;
b) Trường hợp có khối lượng, số lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực hiện hợp đồng
nhưng trong phạm vi của hồ sơ mời thầu và không do lỗi của nhà thầu gây ra thì việc tính giá trị
tăng hoặc giảm phải căn cứ vào đơn giá của hợp đồng;
c) Trường hợp giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị nêu trong hợp đồng do Nhà nước kiểm soát có biến
động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thì phải báo cáo người có thẩm quyền
xem xét, quyết định.
2. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng theo hợp đồng đã ký
và phải được người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Giá hợp đồng sau điều chỉnh không được
12
vượt dự toán, tổng dự toán hoặc giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được duyệt, trừ trường hợp
được người có thẩm quyền cho phép.
3. Trường hợp có phát sinh hợp lý những công việc ngoài phạm vi hồ sơ mời thầu thì chủ đầu tư
thoả thuận với nhà thầu đã ký hợp đồng để tính toán bổ sung các công việc phát sinh và báo cáo
người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trường hợp thoả thuận không thành thì nội dung công
việc phát sinh đó hình thành một gói thầu mới và tiến hành lựa chọn nhà thầu theo quy định của
Luật này.”
˗
Về hợp đồng mua hóa giá nhà của nhà nước: chính phủ cho phép điều chỉnh phương thức thanh toán
tiền mua nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước bằng vàng sang thanh toàn tiền, khi giá vàng tăng đột
biến. Theo khoản 2 Điều 9 Nghị định 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ: “Thời hạn thanh
toán không quá 10 năm. Mức trả lần đầu khi ký kết hợp đồng không dưới 20% tổng số tiền
phải trả, số tiền còn lại qui ra vàng 98% để làm căn cứ thanh toán các lần sau và mỗi năm
tiếp theo phải trả không dưới 8% tổng số tiền phải trả. Nếu trả hết một lần ngay khi ký kết
hợp đồng thì được giảm 10%, nếu trả trong thời hạn 1 năm thì dược giảm 2% giá bán.”
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 23/2006/NQ-CP, cho phép các cá nhân chưa trả xong tiền
mua nhà, thì được trả bằng tiền đồng Việt Nam phần còn lại, được quy định tại Mục 3 như
sau: “Từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực, người mua nhà áp dụng phương thức trả dần
trong 10 năm thì số tiền còn lại được thanh toán trong mỗi năm tiếp theo bằng tiền đồng
Việt Nam (không quy đổi ra vàng) cộng với tiền lãi tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn
của dân cư tại Ngân hàng Thương mại vào thời điểm thanh toán. Trường hợp đến ngày Nghị
quyết này có hiệu lực mà người mua chưa trả hết tiền thì phần còn nợ đã quy ra vàng, nay
được thanh toán bằng tiền cộng với tiền lãi theo quy định trên.”31
Luật chuyên ngành và các nghị định của chính phủ đã quy định vấn đề điều chỉnh hợp đồng. Từ
mua bán, giao dịch có bảo đảm cho tới bảo hiểm, chủ quyền lập quy trong quan hệ tư giữa các bên
cần có một vị trí xứng đáng hơn trong pháp luật. Chỉ khi các bên vì tiết kiệm thời gian và chi phí mà
không tự lập quy để quản lý rủi ro, các quy tắc mặc định của luật hợp đồng mới can thiệp nhằm xác
định quyền tài sản và nghĩa vụ của các bên.32 Tuy nhiên, BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 lại
chưa có điều khoản nào quy định về vấn đề này.
Thực tiễn xét xử ở Việt Nam trong giai đoạn này, một số vu việc thì vẫn cứng nhắc áp dụng đúng
pháp luật, có nghĩa là phải thực hiện đúng hợp đồng trong bất cứ trường hợp nào, còn một số vụ án
khác, các cơ quan giải quyết tranh chấp ưu tiên hướng điều chỉnh hợp đồng. Vụ án thứ 2 trong phần
1.1 nêu trên, Tòa án xác định thỏa thuận mua bán trên “là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện”. Từ nhận định đó, Tòa tối cao đã đi đến kết luận rằng “số tiền còn thiếu, bên mua là ông
Thiết, bà Lới phải thanh toán cho bên bán là ông Son, bà Thìn theo thời giá (kiốt phải được định
giá để ông Thiết, bà Lới thanh toán theo giá mới phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng)”.33 Ở
31 Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
32 Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam,
Nghiên cứu lập pháp, số 5 tháng 5/2003 (38-46), tr. 39.
33 Ngô Quốc Chiến, 2014, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật Dân sự 2015,
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (294), tr 29-33.
13
đây, Tòa án tối cao theo hướng cần phải định giá lại kiốt có tranh chấp và bên mua phải thanh toán
phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng. Ví dụ, nếu giá trị tài sản có tranh chấp được định giá lại
với giá là 78 triệu đồng thì bên mua phải trả cho bên bán là 3/7,8 x 78=30 triệu đồng.34
4.2.
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong BLDS 2015
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản được quy định tại Điều 420 của BLDS 2015,
cụ thể:
“1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn
cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao
kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù
hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu
bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn
hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi
cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ
gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
5. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
4.2.1. Về việc nhận diện “hoàn cảnh thay đổi cơ bản”
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 420 quy định: “Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể
lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;” và Điểm c: “Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu
như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung
hoàn toàn khác”. Điều này cũng được ghi nhận trong BLDS của một số nước như Pháp, Đức. Bộ
Nguyên tắc UNIDROIT năm 1994 cho rằng: “nếu việc thực hiện nghĩa vụ có thể quy đổi ra tiền, chi
34 Đỗ Văn Đại, 2015, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, tham luận 4 tại Hội thảo “Chế định hợp
đồng trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)” tháng 3/2015.
14
phí thực hiện nghĩa vụ hoặc giá trị của nghĩa vụ thay đổi từ 50% trở lên có thể được xem là thay đổi
cơ bản”. Tuy nhiên, nhận định trên không được các học giả ủng hộ, bởi vì họ cho rằng con số 50%
được đưa ra là quá thấp và có phần tùy tiện. Thực tiễn tài phán tại nhiều quốc gia cũng thể hiện rằng
sự thay đổi hoàn cảnh phải rất lớn mới được xem là hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Ví dụ, Tòa án Đức
thường yêu cầu phần chi phí tăng thêm phải bằng hoặc hơn 150% chi phí ban đầu mới được coi là
hoàn cảnh thay đổi cơ bản, trong khi Tòa án Nga thường yêu cầu mức tăng từ 100% trở lên so với
chi phí ban đầu.35 Điều kiện này cũng liên quan đến Điểm d Khoản 1 Điều 420 như sau: “Việc tiếp
tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng
cho một bên”. Luật không quy định mức độ thế nào được coi là nghiêm trọng, do đó, trao toàn
quyền cho các bên và cơ quan xét xử khi xem xét trường hợp này có được coi là thiệt hại nghiêm
trọng hay không. Thông qua các án lệ điển hình trên thế giới, dễ thấy sự thay đổi giá trị thị trường
nhỏ hơn 50% không được coi là thay đổi cơ bản, con số 70% mang tính chất tham khảo, tùy từng
trường hợp khác nhau mà các cách giải quyết sẽ khác nhau. Việc quy định chặt chẽ và rõ ràng về
vấn đề này sẽ có tác dụng ràng buộc các bên phải có ý thức nghiên cứu cẩn thận, kĩ càng hơn trước
khi quyết định kí kết hợp đồng, từ đó làm cho môi trường giao dịch ổn định hơn và giảm các tranh
chấp không đáng có.36
4.2.2. Về hậu quả pháp lý của việc áp dụng quy định tại Điều 420 BLDS 2015
4.2.2.1. Về quyền yêu cầu đàm phán lại của các bên
Khoản 2 Điều 420 quy định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh
hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.” Điều luật này
nói về nội dung của đàm phán, có thể được hiểu là đàm phán bao gồm đàm phán sửa đổi và đàm
phán chấm dứt hợp đồng. Khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi cơ bản thì bên có lợi ích bị
ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng, nhằm thay đổi nội dung hợp đồng đã
được ký kết để đảm bảo lợi ích của các bên. Tuy nhiên, việc đàm phán này phải được thực hiện
trong một thời hạn hợp lý kể từ thời điểm có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh thực hiện hợp đồng.
Trong một thời gian nhất định, nếu bên có lợi ích bị ảnh hưởng không thực hiện quyền yêu cầu này
của mình thì coi là họ không có nhu cầu thay đổi nội dung của hợp đồng. 37 Tòa án chỉ can thiệp khi
các bên không đạt được thỏa thuận, lúc này tòa án giải quyết bằng cách sửa đổi hoặc chấm dứt hợp
đồng. Điểm khác biệt với PECL ở đây là: Thứ nhất, tòa án “cho chấm dứt” hoặc “sửa đổi hợp đồng
nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh do hoàn cảnh thay đổi” cho các bên “theo cách thức
công bằng và bình đẳng”; thứ hai, PECL “đi xa hơn” bằng quy định, bên từ chối “phải bồi thường
những tổn thất xảy ra” trong trường hợp “từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thỏa thuận trái với
35 Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Bộ
tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />ItemID=2131&fbclid=IwAR0IL3GZFR63zstuOnRT3fdx5o-7mEQA3u7wrLdQIr59fgkDmn6_WDV6ULw
36 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />37 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ, 2017, Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
15
nguyên tắc thiện chí và trung thực”.38 Ngoài ra, các bên phải có nghĩa vụ để đưa ra căn cứ chứng
minh hoàn cảnh thay đổi, trong BLDS 2015 chưa đưa ra những quy định chi tiết về điều này. Tuy
nhiên, trong Bộ nguyên tắc Unidroint về hợp đồng thương mại quốc tế có đưa ra quy định, theo
Khoản 2 Điều 6.2.3 PICC: “Trong trường hợp hardship, bên bị bất lợi có quyền yêu cầu tiến hành
đàm phán lại hợp đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ”. Bình
luận chính thức của quy định này như sau: “Yêu cầu đàm phán lại hợp đồng phải được đưa ra sớm
nhất có thể ngay sau khi suy đoán là có hardship. Thời hạn yêu cầu đàm phán lại hợp đồng phụ
thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể… Bên bị bất lợi không mất quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng
vì lý do duy nhất là đã không đưa ra yêu cầu đó trong thời hạn sớm nhất có thể” 39 Như vậy, Điều
420 BLDS 2015 cần quy định bên đưa ra yêu cầu phải có căn cứ rõ ràng cho việc thay đổi hoàn
cảnh, trừ khi có sự thay đổi quá rõ ràng, nếu không, bên kia có quyền từ chối đàm phán.
4.2.2.2. Về việc yêu cầu tòa án giải quyết
Điều 420 chỉ nhắc đến chủ thể để giải quyết tranh chấp là Tòa án, mà quên mất thẩm quyền của
trọng tài. Cụ thể, theo Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010, “Trong trường hợp các bên
tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ
lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Với quy định này, Tòa án sẽ phải từ chối giải quyết khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài nên Tòa
án không thể áp dụng các quy định về điều chỉnh lại hợp đồng. Còn về phía Trọng tài, thỏa thuận
trọng tài trao cho Trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên cơ sở khoản 1 Điều 5 Luật trọng
tài thương mại năm 2010: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài”.40 Do vậy, khi các bên có thỏa thuận trọng tài (phổ biển trong kinh doanh thương mại) thì
không ai có thẩm quyền giải quyết vấn đề điều chỉnh lại hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi.
Án lệ áp dụng PICC tại Tòa án trọng tài quốc tế ICC (số 7365/FMS, số 8873, 9994, 12446… )
cũng như thực tiễn xét xử trọng tài của nhiều quốc gia (Hà Lan, Đức,…) cho thấy mặc dù luật chỉ
định cơ quan xét xử là “Court” (Tòa án), tuy nhiên thuật ngữ “Tòa án” ở đây được diễn giải là bao
gồm cả Tòa án Trọng tài (Arbitration Court) và vẫn cho phép Trọng tài có thẩm quyền xét xử trong
trường hợp hardship.41
38 Đàm Thị Diễm Hạnh – Lê Thị Kim Oanh, 2018, Một số bình luận về điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015:
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7(363), tr 19-23.
39 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />40 Đỗ Văn Đại, 2015, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, tham luận 4 tại Hội thảo “Chế định hợp
đồng trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)” tháng 3/2015.
41 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />16
4.2.2.3. Về thẩm quyền sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng nếu một trong các bên yêu cầu
Khoản 3 Điều 420 quy định trong trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi
hợp đồng một cách hợp lý, một trong các bên có quyền yêu cầu tòa án: chấm dứt hợp đồng tại một
thời điểm xác định hoặc sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do
hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được quyết định sửa đổi hợp đồng nếu việc chấm dứt hợp
đồng gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi. 42 Quy định
này khá chặt chẽ, ngăn ngừa được việc Tòa án lạm dụng để can thiệp quá mức vào hợp đồng và sự
thỏa thuận giữa các bên. Bên cạnh đó, Tòa án không phải khi nào cũng có đủ kiến thức và trình độ
tính toán chi phí để thực hiện hợp đồng, vì trên thực tế có rất nhiều loại hợp đồng đa dạng và phức
tạp, do đó, việc điều chỉnh hợp đồng cũng chỉ dựa trên ý chí chủ quan của thẩm phán. Về vấn đề
này, có thể tham khảo bình luận về Điều 6:111 PECL, theo đó cơ quan xét xử có thể thay đổi một số
điều khoản của hợp đồng như: thay đổi thời hạn thực hiện nghĩa vụ, tăng hay giảm giá, số lượng,…
tuy nhiên không được khiến cho hợp đồng thay đổi hoàn toàn về mặt bản chất, hay nói cách khác,
không được sửa đổi hợp đồng đến mức áp đặt cho các bên một hợp đồng hoàn toàn mới về mặt bản
chất so với hợp đồng ban đầu.43
Tham khảo Bộ nguyên tắc Unidroint về hợp đồng thương mại quốc tế, tòa án có quyền chấm dứt
hay sửa đổi mà không cần ưu tiên các điều kiện áp dụng, tòa án sẽ cân nhắc xem giải pháp nào là
hợp lý nhất. Điều 6.2.3 nhấn mạnh: nếu cả hai phương án đều không hợp lý thì sẽ có tình huống là
tòa án không chấm dứt hay sửa đổi mà chọn một trong hai phương án sau: hoặc là yêu cầu các bên
bắt đầu lại quá trình đàm phán về việc sửa đổi lại hợp đồng, hoặc là thừa nhận những điều khoản
vốn có của hợp đồng.44 Như vậy, tòa án có chức năng giúp các bên đi đến giải pháp chung, từ đó tạo
ra lợi ích tốt nhất cho cả hai tham gia hợp đồng này.
Một vấn đề nữa được đặt ra là, nếu một bên đưa ra yêu cầu chấm dứt hợp đồng nhưng tòa án thấy
cần sửa đổi hợp đồng, theo nguyên tắc tự định đoạt của luạt dân sự, thì tòa án phải ra quyết định
chấm dứt hợp đồng theo ý kiến của người tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, điều này lại khôg đảm bảo
vai trò của tòa án là bảo vệ quyền công dân, thực hiện công bằng khi xét xử. Mà mục đích của Điều
420 là cân bằng lợi ích giữa các bên, do đó, yêu cầu của tòa án không còn ý nghĩa, chức năng của
tòa án không được khai thác triệt để.
4.2.2.4. Về nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp thỏa thuận khác. Quy định
này khá cứng nhắc và chưa phù hợp bởi vì: Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng,
42 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ, 2017, Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
43 TS Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự
năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật, Cập nhật:
14/08/2017. />44 Đàm Thị Diễm Hạnh – Lê Thị Kim Oanh, 2018, Một số bình luận về điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015:
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7(363), tr 19-23.
17
tòa án giải quyết vụ việc thì hợp đồng vẫn chưa được sửa đổi và những nội dung sửa đổi chưa có giá
trị pháp lý. Đồng thời, khi các bên không có thỏa thuận khác thì các bên vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ của mình trong hợp đồng, đó chính là việc tiếp tục thực hiện nội dung của hợp đồng khi đang
diễn ra quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, tòa án giải quyết vụ việc, là không phù hợp
với Điểm d Khoản 1 Điều 420 BLDS 2015. 45 Bộ nguyên tắc Unidroint về hợp đồng thương mại
quốc tế đã đưa ra các ngoại lệ cho vấn đề này. Cụ thể, tại Bình luận 4 Điều 6.2.3 Bộ nguyên tắc
Unidroint cho rằng, việc tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ chỉ được chấp nhận trong một số ngoại lệ.
Mặc dù quy định này cho thấy sự hạn chế của việc tạm dừng thực hiện nghĩa vụ, nhưng ít nhất vẫn
tạo ra hướng mở cho tòa án chứ không chỉ phụ thuộc vào các bên. Do đó, nên bổ sung ở đoạn cuối
Khoản 4 Điều 420 BLDS 2015 là “hoặc trường hợp đặc biệt do tòa án quy định”.46
Kết luận
Điều 420 BLDS 2015 là một điểm mới, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy của các nhà làm luật Việt
Nam. Thông qua nhiều năm nghiên cứu và tham kháo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, chế
định này đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu cơ bản về bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp
đồng. Tuy nhiên, Điều 420 vẫn còn có những bất cập, do đó, cần có những thay đổi thông qua thời
gian khi áp dụng vào thực tiễn xét xử, qua đó mới rút ra được những ưu, nhược điểm của vấn đề đó,
từ đó sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với thực tiễn hợp đồng tại Việt Nam.
45 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ, 2017, Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
46 Đàm Thị Diễm Hạnh – Lê Thị Kim Oanh, 2018, Một số bình luận về điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015:
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7(363), tr 19-23.
18
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Đàm Thị Diễm Hạnh – Lê Thị Kim Oanh, 2018, Một số bình luận về điều 420 Bộ luật dân sự
năm 2015: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 7(363), tr 19-23.
Đỗ Văn Đại, 2015, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, tham luận 4 tại Hội thảo “Chế
định hợp đồng trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)” tháng 3/2015.
Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp
luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 3/2009, 41 51.
Lê Minh Hùng, 2010, Hiệu sự hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sỹ
Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngô Quốc Chiến, 2014, Điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và việc sửa đổi Bộ luật
Dân sự 2015, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (294), tr 29-33.
Ngô Thu Trang – Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản,
Website: Bộ tư pháp, Cập nhật: 20/04/2017. />
19
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
Thanh Tùng (2015), “Hoàn cảnh thay đổi, được điều chỉnh hợp đồng”, Báo Pháp luật Thành
phố Hồ Chí Minh, tham khảo trực tuyến tại: truy cập ngày 25/11/2016.
ThS Lê Đinh Bảo Tâm, Một số vấn đề về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong quy
định của bộ luật dân sự 2015 dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế, Website: Trường đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh, Cập nhật: 20/09/2017.
Nguyễn Minh Hằng & THS Trần Thị Giang Thu, Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ
luật dân sự năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Website: Wiki Luật,
Cập nhật: 14/08/2017. />PGS.TS Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ, 2017, Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm
2015 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân.
Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng
Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, số 5 tháng 5/2003 (38-46), tr. 39.
Quốc hội (2000), Luật Kinh doanh bảo hiểm số
Quốc hội (2005), Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.
20