Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.94 KB, 76 trang )


CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY

Professor Michael Blakeney
Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London




TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Giáo sư Michael Blakeney
Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London








Provided and translated by
the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)


Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp








Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

2

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp


Bài 4. Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý

Nhãn hiệu

1. Giới thiệu


Lịch sử

Việc sử dụng nhãn hiệu trên thị trường là một hình thức đặc biệt quan trọng trong giao
thương ở các xã hội trước khi có chữ viết và xã hội mà một số ngôn ngữ đã được sử
dụng. Nhãn hiệu tạo ra một cách thức truyền tin thuận tiện và súc tích về hàng hóa mà
nhãn hiệu được gắn lên. Những hình thức ban đầu của nhãn hiệu hiện đại là việc sử dụ
ng
các nhãn mác trên công-ten-nơ, các công cụ, viên gạch và các vật dụng tương tự ở thời
kỳ Ai-cập và Lưỡng Hà cổ đại. Dường như mục đích ban đầu của những dấu hiệu này là
để chỉ quyền sở hữu, nhưng chúng cũng liên quan đến phương pháp nhận biết nhà sản
xuất các vật dụng được gắn nhãn mác.


Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu tại nước Anh vào thế k
ỷ 18 đã chứng kiến sự phát
triển của nhãn hiệu hiện đại. Nhu cầu phát triển này phát sinh do kết quả của những thay
đổi to lớn trong quá trình sản xuất và phân phối thời kỳ đó. Việc mất đi quan hệ cá nhân
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, thông qua sự phát triển của nền sản xuất ở quy mô
lớn trong các nhà máy được đặt tách ra khỏi các thị trường mà hàng hóa được bán đã
dẫn đế
n sự cần thiết phải có sự cải cách về nhãn hiệu cho biểu tượng của sự tín nhiệm và
danh tiếng của nhà sản xuất. Nhiều nhãn hiệu nổi tiếng xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20. Ví dụ, nhãn hiệu "Sunlight” của W.H. Lever, có lẽ là nhãn hiệu đầu tiên
sử dụng các kỹ thuật tiếp thị hiện đại liên quan đến sản phẩm tiêu dùng, được xây dựng
vào giữ
a thế kỷ thứ 19. Các nhãn hiệu nổi tiếng khác cũng xuất hiện trong thời kỳ này là
"Singer" (1851), "Vaseline" (1878), "Coca Cola" (1886), "Kodak" (1888), và
"Kellogg's" (1915).

Việc sử dụng nhãn hiệu trong quá trình tiếp thị hàng hóa không chỉ quan trọng đối với
nền kinh tế công nghiệp nội địa, mà còn có ý nghĩa to lớn trong thương mại quốc tế. Rõ
ràng là nhu cầu và hoạt động của các thương nhân quốc tế là động lực để áp dụng các
chế độ pháp lý, cả trong nội
địa và quốc tế, để điều chỉnh nhãn hiệu. Các nhu cầu của
thương mại quốc tế dẫn tới sự hình thành, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, các hiệp ước và
công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ khác nhau.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

3



Chức năng của nhãn hiệu

(a) Chỉ dẫn nguồn gốc

Luật nhãn hiệu được xây dựng từ những hành vi giả mạo gây thiệt hại cho người khác,
đó là hành vi theo thông luật nhằm ngăn chặn việc đánh cắp uy tín thương mại của
người khác. Nhãn hiệu được coi là biểu tượng tinh túy của uy tín thương mại. Thiệt hại
do xâm phạm độc quyền đối với nhãn hiệu gây ra là việc tách hàng hóa ra kh
ỏi người
sở hữu nhãn hiệu. Do vậy, nguyên tắc ban đầu của luật nhãn hiệu là nhãn hiệu phải thể
hiện nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ. Việc xâm phạm nhãn hiệu xảy ra khi một
người thể hiện sai về nguồn gốc thương mại của hàng hóa. Sự mập mờ về chức năng
nguồn gốc của nhãn hiệu xuất hiện cùng với sự phát triể
n của tiếp thị toàn cầu thông
qua việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Ở nhiều nước, toà án được lập ra để thúc
đẩy hoạt động chuyển quyền sử dụng, với điều kiện chủ sở hữu nhãn hiệu thực hiện
quyền kiểm soát đối với chất lượng của hàng hóa được bán bởi bên được chuyển
nhượng quyền (bên nhận li-xăng). Mộ
t tác động quan trọng đối với các nước đang phát
triển, liên quan tới nguyên tắc kiểm soát chất lượng này, là hợp đồng chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu sẽ bị ràng buộc bởi công nghệ phù hợp nhằm đảm bảo việc duy trì chất
lượng.

(b) Quảng cáo hoặc tiếp thị

Một chức năng đặc biệt quan trọng của nhãn hiệu là việc sử dụng chúng để
quảng cáo và
tiếp thị sản phẩm. Cách thức mà nhãn hiệu thúc đẩy quá trình này là dựa vào khả năng
phân biệt và nhận dạng hàng hóa và dịch vụ. Điều này là đặc biệt quan trọng ở các thị
trường nơi mà sự gia tăng của các hàng hóa cùng loại cho phép người tiêu dùng nhận

dạng hàng hóa của một thương gia cụ thể. Do vậy, ở thị trường nông sản, nơi các sản
phẩm có xu hướng cùng loại đ
ã đạt được một số thành công trong việc tiếp thị chuối
"Chiquita" và cam "Jaffa". Cuba đã đạt được thành công với nhãn hiệu "Bacardi" cho
rượu rum và "Havana" cho xì-gà.

Nhãn hiệu là một cách thức cô đọng để chỉ sản phẩm. Do chi phí quảng cáo, đặc biệt là
qua phương tiện truyền thông điện tử, việc sử dụng nhãn hiệu sẽ làm giảm lượng thông
tin cần truyền đạt. Sự thành công của quảng cáo làm tăng sức mạnh th
ị trường của chủ
sở hữu nhãn hiệu đối với hàng hóa mang nhãn hiệu. Sức mạnh thị trường của chủ sở hữu
nhãn hiệu càng lớn thì càng dễ dàng xâm nhập vào các thị trường nước ngoài. Sự tăng
trưởng thương mại quốc tế là một trong số các hệ quả của sự phát triển các hoạt động
quảng cáo quốc tế. Chức năng phân biệt và quảng bá củ
a nhãn hiệu không phải không
bị chỉ trích. Người ta cho rằng trong thị trường của các sản phẩm cùng loại, người tiêu

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

4
dùng thường bị thuyết phục là các sản phẩm tương tự trên thực tế lại không giống nhau.
Do đó, sự lựa chọn của người tiêu dùng nhìn bề ngoài có vẻ được mở rộng trong khi sự
lựa chọn thực tế thì vẫn giữ nguyên. Mặt khác, sự phát triển của nhãn hiệu được quảng
cáo lại là một động lực cho người quảng cáo nhằm đảm bảo việc mua bán lặp lạ
i để thu
hồi chi phí quảng cáo, thông qua việc chào bán hàng hóa có chất lượng cao.

(c) Bảo đảm chất lượng

Do người tiêu dùng có thể sử dụng nhãn hiệu để nhận biết loại hàng hóa sẽ thỏa mãn

nhu cầu của họ, nên đã tạo ra động lực cho các nhà sản xuất và phân phối nhằm đáp
ứng nguyện vọng chính đáng của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Do đó, việc
sử
dụng nhãn hiệu có khuynh hướng khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất
lượng ổn định cho hàng hóa và dịch vụ được chào bán dưới nhãn hiệu của họ. Điều
này được nhấn mạnh bởi yêu cầu của pháp luật đối với việc kiểm soát chất lượng trong
các hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu.

Giá trị cố hữu trong việc giành được sự trung thành của ng
ười tiêu dùng đối với một
nhãn hiệu cụ thể thông qua việc duy trì chất lượng ổn định của sản phẩm, được xem
như là “danh tiếng” đi kèm với nhãn hiệu. Người tiêu dùng sử dụng thông tin về nguồn
gốc cũng như chất lượng có thể tin được của sản phẩm để củng cố quyết tâm mua hàng
của mình. Ở những nơi chỉ có một nhãn hiệu tồn tạ
i, người tiêu dùng sử dụng thông tin
này để quyết định có mua hàng hay không. Lợi ích của điều này đối với người tiêu
dùng, như đã dẫn, là họ có thể tránh được những sai lầm khi quyết định mua hàng.

Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 1 Ở mức độ nào việc bảo hộ nhãn hiệu có thể được xem như một hình thức
bảo vệ người tiêu dùng với chi phí thấp?

A. Nhãn hiệu là một hình th
ức "tốc ký", mà người tiêu dùng có thể dựa vào
để lựa chọn đúng sản phẩm. Việc người tiêu dùng sử dụng nhãn hiệu sẽ
làm giảm chi phí thông tin liên quan đến việc đánh giá chất lượng sản
phẩm và cho phép người tiêu dùng tiết kiệm các nguồn lực mà lẽ ra phải
chi phí cho việc thu thập thông tin về sản phẩm. Trong hệ thống pháp
luật mà không có các quy định về bảo vệ người tiêu dùng hoặc quy định

về tiêu chu
ẩn sản phẩm, hàng hóa ví dụ, thực phẩm hay dược phẩm, thì
nhãn hiệu có một chức năng quan trọng không đơn thuần là chỉ báo về
chất lượng mà còn chỉ báo về tính an toàn và sự phù hợp với mục đích sử
dụng.


Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

5
Luật nhãn hiệu đưa ra biện pháp để chủ sở hữu quyền chống lại những kẻ
làm giả nhãn hiệu của họ, thì cũng đồng thời đưa ra biện pháp chống lại sự
lừa dối người tiêu dùng. Đối với các nước đang phát triển không có sẵn
nguồn ngân sách, sự hấp dẫn đặc biệt của biện pháp này là hình thức bảo
vệ người tiêu dùng này tự trang trải kinh phí. Các ý t
ưởng tiếp thị được
triển khai nhằm chống lại việc lừa dối người tiêu dùng. Chủ sở hữu nhãn
hiệu sẽ là người cảnh giác nhất trong việc giám sát hoạt động lừa dối và áp
dụng các hoạt động thực thi chống lại người có hành vi xâm phạm. Điều
này là đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm trong lĩnh vực y tế và
dược phẩm.


Định nghĩa

(a) Nhãn hiệu

Điều 15(1) Hiệp định TRIPS định nghĩa nhãn hiệu như sau:
Bất kỳ dấu hiệu, hoặc sự kết hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ của người này với người khác, đều có khả năng tạo thành

nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ ngữ liên quan đến tên riêng, ký
tự, số, các yếu tố
hình họa và sự kết hợp các màu sắc cũng như sự kết hợp bất
kỳ các dấu hiệu nêu trên, phải được đăng ký nhãn hiệu. Trong trường hợp bản
thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương
ứng, các quốc gia Thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký dựa trên
sự phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các quốc gia Thành viên có thể
yêu c
ầu, như một điều kiện để đăng ký, các dấu hiệu để đăng ký phải là hữu
hình.
Điều 15.4 của Hiệp định TRIPS quy định rằng: “bản chất của hàng hoá hoặc dịch vụ
mang nhãn hiệu không ảnh hưởng tới khả năng được đăng ký của nhãn hiệu đó”. Quy
định này, trực tiếp trích dẫn Điều 7 của Công ước Paris, nhằm bảo vệ các quyề
n đối
với nhãn hiệu cho dù việc bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ liên quan đến nhãn
hiệu được đăng ký bị cấm hoặc là đối tượng độc quyền hoặc nhượng quyền.

(b) Nhãn hiệu dịch vụ

Phù hợp với pháp luật nhãn hiệu hiện đại, Hiệp định TRIPS và Điều 16 Hiệp ước Luật
nhãn hiệu (TLT) quy định rằng nhãn hiệu được đăng ký cho cả hàng hóa và dịch vụ.
Công ước Paris quy định cho các bên ký kết “cam kết bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ”,
nhưng nghĩa vụ này không mang tính bắt buộc. Ngày nay, hầu hết các nước áp dụng
hệ thống Phân loại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ theo Thỏa ước Nice, trong đó quy
định việc đăng ký nhãn hiệu cho 38 nhóm hàng hóa và 8 nhóm dịch vụ.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

6


Nhãn hiệu dịch vụ chủ yếu thực hiện chức năng chỉ nguồn gốc và phân biệt dịch vụ
tương tự như nhãn hiệu đối với hàng hóa. Đôi khi, việc bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ
được quy định bởi phần sửa đổi ngay trong luật nhãn hiệu hiện hành, đơn giản quy
định áp dụng đối với nhãn hiệu dịch vụ, với những sử
a đổi thích hợp từ các quy định
về bảo hộ nhãn hiệu. Do vậy, nhãn hiệu dịch vụ có thể được đăng ký, gia hạn và hủy
bỏ với cách thức tương tự như nhãn hiệu hàng hóa; hơn nữa, chúng được chuyển
nhượng và chuyển quyền sử dụng theo cùng điều kiện. Do đó, các quy tắc được định
ra cho nhãn hiệu hàng hóa, về nguyên tắc, được áp dụng theo cách tương tự như
đối
với nhãn hiệu dịch vụ.

(c) Nhãn hiệu tập thể

Nhãn hiệu tập thể có thể được sở hữu bởi một hiệp hội mà các thành viên của hiệp hội
đó có thể sử dụng nhãn hiệu này nếu họ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu được quy định
tại quy chế liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu tập thể. Như vậy, chứ
c năng của
nhãn hiệu tập thể là thông tin cho công chúng biết về những đặc điểm đặc trưng của
sản phẩm sử dụng nhãn hiệu tập thể. Một doanh nghiệp được quyền sử dụng nhãn
hiệu tập thể bên cạnh đó thì có thể sử dụng nhãn hiệu riêng của mình.

Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể thường phải có trong đơn yêu cầu đăng ký nhãn
hiệu tập thể và những sửa đổi liên quan đến quy chế phải được thông báo cho Cơ
quan Nhãn hiệu. Tại một số quốc gia (như Cộng hoà Liên bang Đức, Phần Lan, Na
Uy, Thuỵ Điển và Thuỵ Sĩ), việc đăng ký nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ nếu nhãn hiệu
đó được sử dụng trái với các quy định của quy chế hoặc theo cách thức lừa đối công
chúng.

Công ước Paris có các quy định v

ề nhãn hiệu tập thể nêu tại Điều 7bis. Điều này buộc
một nước Thành viên chấp nhận việc nộp đơn và bảo hộ, theo các điều kiện cụ thể do
nước đó quy định, nhãn hiệu tập thể của "các hiệp hội". Đây thường là các hiệp hội
các nhà sản xuất, chế tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thương gia khác về hàng hóa
được chế tạo hoặc s
ản xuất tại một nước, khu vực hoặc địa phương cụ thể hoặc hàng
hóa có các đặc tính chung khác. Nhãn hiệu tập thể của các quốc gia hoặc các cơ quan
nhà nước khác không chịu sự điều chỉnh của các quy định này.

Để được áp dụng Điều 7bis, hoạt động của các hiệp hội sở hữu các nhãn hiệu tập thể
phải không trái với pháp luật của nước s
ở tại. Hiệp hội không phải chứng minh rằng
họ tuân thủ pháp luật của nước sở tại, nhưng việc đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể
của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là trái với các quy định
của pháp luật.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

7

Việc từ chối đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể không căn cứ vào việc hiệp hội
không được thành lập ở nước nơi muốn có được sự bảo hộ, hoặc không được thành
lập phù hợp với pháp luật của nước đó. Điều 7bis bổ sung thêm các điều kiện là hiệp
hội thậm chí có thể không bị yêu cầu phải sở h
ữu cơ sở công nghiệp hoặc thương mại
ở bất kỳ nơi nào. Nói cách khác, một hiệp hội mà bản thân không sở hữu bất kỳ cơ sở
công nghiệp hay thương mại nào có thể là hiệp hội chỉ đơn thuần mà chỉ đơn giản
kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu tập thể bởi những người khác.

Đặc biệt, các quy định này đảm bảo rằng nhãn hiệ

u tập thể được chấp nhận đăng ký
và bảo hộ ở các nước khác ngoài nước mà hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể được
thành lập. Điều này có nghĩa là việc hiệp hội đó không được thành lập phù hợp với
luật pháp của nước muốn nhận được sự bảo hộ thì không có lý do gì để từ chối việc
bảo hộ này. Mặt khác, Công ước th
ừa nhận quyền của mỗi quốc gia thành viên trong
việc áp dụng các điều kiện bảo hộ của riêng mình và từ chối bảo hộ nếu nhãn hiệu trái
với lợi ích công cộng.

(d) Nhãn hiệu chứng nhận

Nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể được sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn xác định.
Sự khác biệt cơ bản giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứ
ng nhận là nhãn hiệu tập
thể chỉ có thể được sử dụng bởi các doanh nghiệp cụ thể, ví dụ, các thành viên của
hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử
dụng bởi bất kỳ ai tuân thủ đúng những tiêu chuẩn xác định.

Một điều kiện quan trọng đối với việc đăng ký nhãn hiệu chứng nh
ận là chủ thể nộp
đơn đăng ký phải có “thẩm quyền chứng nhận” các sản phẩm có liên quan. Vì vậy,
chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận phải là người đại diện cho các sản phẩm mang nhãn
hiệu chứng nhận.

Định nghĩa “nhãn hiệu chứng nhận” không giống nhau ở tất cả các quốc gia. Tại Hoa
Kỳ, không phải bất kỳ ai tuân thủ tiêu chuẩn đã xác định đề
u có thể sử dụng nhãn
hiệu chứng nhận, mà chỉ các doanh nghiệp đã được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận
cho phép mới được sử dụng nhãn hiệu đó. Như vậy, tại Hoa Kỳ sự khác biệt giữa
nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể nhỏ hơn so với các nước khác, nó chỉ liên

quan tới mục đích của hai loại nhãn hiệu: nhãn hiệu chứng nh
ận chỉ ra một số tiêu
chuẩn của sản phẩm hoặc dịch vụ, còn nhãn hiệu tập thể chỉ ra tư cách thành viên của
người sử dụng nó trong một tổ chức cụ thể.



Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

8
Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 2 Sự khác biệt chủ yếu giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận là
gì?

A. Nhãn hiệu chứng nhận chỉ ra nguồn gốc cụ thể, nguyên liệu và cách thức
sản xuất, chất lượng, v.v.. của hàng hóa hoặc dịch vụ; nhãn hiệu chứng
nhận phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một hiệp hội cụ thể.
Bất k
ỳ ai cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ với những đặc tính được chỉ
định đều có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, trong khi đó phải là
thành viên của một hiệp hội cụ thể mới được sử dụng nhãn hiệu tập thể.

Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận không được kinh doanh hàng hóa
hoặc dịch vụ, nhưng sự hạn chế này không áp dụng đố
i với nhãn hiệu tập
thể.

2. Đăng ký nhãn hiệu



Đơn đăng ký

Đơn đăng ký nhãn hiệu phải được nộp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ở hầu
hết các nước đều là cơ quan có thẩm quyền xử lý đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền
sáng chế. Cơ quan đó thường được gọi là “Cơ quan Sở hữu công nghiệp” hay “Cơ
quan Sáng chế và Nhãn hiệu” hay “Cơ quan Nhãn hiệu”.

Thông thường, các nước quy định mẫu đơn, việ
c sử dụng mẫu đơn này là bắt buộc tại
một số nước. Phải điền đầy đủ tên và địa chỉ người nộp đơn vào mẫu đơn này. Người
nước ngoài vừa phải nêu rõ địa chỉ nhận thư tại nước sở tại vừa phải sử dụng một
người có thẩm quyền đại diện để ký đơn với tư cách ngườ
i nộp đơn. Thông thường,
các thủ tục về hình thức khác cũng được yêu cầu, như việc chứng thực bởi công
chứng hoặc hợp pháp hóa.

Dấu hiệu yêu cầu đăng ký phải được thể hiện trong đơn hay trong phần phụ lục của
đơn. Nếu dấu hiệu dự định cần được đăng ký có màu sắc thì màu sắc phải được yêu
cầu bảo hộ và bản m
ẫu có màu hoặc bản mô tả về màu các màu phải được nộp.

Nếu đăng ký dấu hiệu ba chiều, cần phải nêu rõ là yêu cầu bảo hộ dấu hiệu ở dạng ba
chiều của nó.


Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

9
Người nộp đơn cũng phải liệt kê danh mục hàng hoá sử dụng nhãn hiệu đăng ký.

Thông thường, luật nhãn hiệu quy định phân loại hàng hoá nhằm phục vụ cho việc
đăng ký. Tại một số nước, mỗi nhóm hàng hoá cần làm một đơn riêng. Trong khi các
nước khác, chỉ cần một đơn cũng có thể đăng ký cho nhiều nhóm. Hầu hết các nước
đều phân loại các nhóm hàng hoá và dịch vụ để đăng ký theo Thoả ước Nice v
ề phân
loại quốc tế hàng hoá và dịch vụ nhằm đăng ký nhãn hiệu.

Cuối cùng, người nộp đơn phải nộp một hoặc nhiều loại lệ phí cho việc đăng ký nhãn
hiệu. Một quốc gia có thể quy định một loại lệ phí duy nhất, loại lệ phí gộp tất cả
hoặc các loại lệ phí cho nhiều đơn (lệ phí nộp đơn, lệ phí phân loại, lệ phí thẩm
định,
lệ phí đăng ký,v.v.)


Thẩm định

Thông thường, các nước chỉ chấp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu nếu đơn đó đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu về hình thức. Ngoài ra, hầu hết các nước đều quy định việc thẩm
định nội dung đơn vì lợi ích của công chúng và các đối thủ cạnh tranh.

Nhãn hiệu có thể được thẩm định theo các căn cứ tuyệt đối và khách quan để từ chối,
đó là xem xét chúng có tính phân bi
ệt, có gian lận hay trái với đạo đức,v.v. hay
không.

Pháp luật nhiều quốc gia cũng quy định việc thẩm định theo các căn cứ tương đối, đó
là, việc xem các quyền được yêu cầu bảo hộ có tương tự hoặc trùng lặp với các quyền
trước đó đã được nộp đơn đăng ký hoặc cấp cho các hàng hoá trùng hoặc tương tự
hay không. Việc thẩm định đó có thể được tiế
n hành một cách đương nhiên và/hoặc

dựa trên cơ sở thủ tục phản đối.

Nói chung, có thể nhận thấy ba cách tiếp cận điển hình ở quy mô quốc tế:

(a) Hệ thống pháp luật của Anh quy định việc thẩm định của Cơ quan dựa
trên các căn cứ tuyệt đối và tương đối, đồng thời cũng dựa trên thủ tục
phản đối. Hệ
thống này cũng được áp dụng tại châu Âu, như tại Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha và các nước Bắc Âu.
(b) Việc thẩm định chỉ dựa trên các căn cứ tuyệt đối. Pháp luật không quy
định về thủ tục phản đối mà để ngỏ cho chủ sở hữu các quyền có trước
tiến hành thủ tục kiện đòi huỷ bỏ hiệu lực đăng ký hoặc khởi kiện hành
vi xâm ph
ạm do việc đăng ký hoặc sử dụng một dấu hiệu có sau. Hệ
thống này được áp dụng theo luật Nhãn hiệu cũ của Pháp và Thuỵ Sĩ -

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

10
song cả hai quốc gia này đều quy định về thủ tục phản đối trong luật
mới của họ.

Hệ thống của Đức quy định việc thẩm định của Cơ quan đăng ký dựa trên các căn cứ
tuyệt đối và cũng áp dụng việc phản đối theo thủ tục hành chính, theo đó, chủ sở hữu
các quyền có trước có thể phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu xâm ph
ạm quyền bằng một
thủ tục đơn giản và không quá tốn kém. Hệ thống này là sự thoả hiệp giữa các hệ
thống cực đoan hơn nêu trên và theo xu hướng hiện đại được phản ánh trong Hệ thống
Nhãn hiệu cộng đồng của châu Âu.


3. Dấu hiệu có thể được đăng ký

Hầu hết pháp luật về nhãn hiệu đều quy định rằng đơn đăng ký nhãn hiệu có th
ể bị từ
chối đăng ký dựa trên cả căn cứ tuyệt đối và căn cứ tương đối. Các căn cứ tuyệt đối để
từ chối có thể bao gồm:
• Nhãn hiệu không phải là dấu hiệu có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa;
• Nhãn hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của người nộp
đơ
n với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác;
• Nhãn hiệu chỉ bao gồm các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn dùng để chỉ chủng loại, chất
lượng, số lượng, mục đích dự kiến, giá trị, nguồn gốc địa lý, thời gian sản xuất
hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, hoặc các đặc tính riêng khác của hàng hòa
hoặc dịch vụ trong thương mại;
• Nhãn hiệ
u trái với chính sách công cộng hoặc các nguyên tắc đạo đức được
chấp nhận;
• Nhãn hiệu có tính lừa dối;
• Đăng ký trái với pháp luật; đăng ký liên quan đến một biểu tượng đặc biệt để
bảo hộ; hoặc
• Đơn được làm với mục đích không trung thực.

Các căn cứ tương đối để từ chối đăng ký gồm cả việc xung đột với các nhãn hi
ệu trước
đó. Do đó, việc đăng ký có thể bị từ chối vì:
• Nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu trước đó và hàng hóa hoặc dịch vụ sử dụng
nhãn hiệu tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ
trước đó;
• Nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu trước đó và được đăng ký cho hàng hóa hoặc
dịch v

ụ tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu trước đó được bảo
hộ và có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng;
• Nhãn hiệu tương tự hoặc giống với các nhãn hiệu trước đó và được đăng ký cho
hàng hóa và dịch vụ cùng loại với hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu được

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

11
bảo hộ và sự tồn tại của nhãn hiệu có thể gây ra sự nhầm lẫn đối với công
chúng; và
• Nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu trước đã nổi tiếng, hoặc có uy tín
trong một phạm vi nhất định, kể cả khi nhãn hiệu của người nộp đơn dự định sử
dụng cho hàng hóa/dịch vụ không tương tự với hàng hóa/dịch vụ đã
được đăng
ký trước và khi việc sử dụng nhãn hiệu của người nộp đơn có thể lợi dụng một
cách không lành mạnh hoặc gây bất lợi cho đặc tính phân biệt của nhãn hiệu có
trước đó.
Ở một số hệ thống pháp luật, đơn đăng ký nhãn hiệu xung đột với nhãn hiệu có trước
đó sẽ được chấp nhận nếu đã và đang có “người sử dụng
đồng thời trung thực” một
nhãn hiệu có sau mà không có sự phản đối của chủ sở hữu nhãn hiệu có trước đó để
đăng ký . Cũng có quy định yêu cầu có sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu có trước
đó đối với việc đăng ký nhãn hiệu có sau.

Các căn cứ tuyệt đối và tương đối để từ chối được xem xét dưới đây.


Các dấu hiệu có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa

Theo Điều 15.1 và Điều 2.1 của Hiệp ước Luật Nhãn hiệu (TLT), các quốc gia Thành

viên có thể yêu cầu, như một điều kiện đăng ký, các dấu hiệu phải có thể thấy được
một cách hữu hình. Có hai lý do giải thích yêu cầu này. Thứ nhất, thương nhân phải có
khả năng tìm hiểu một cách chắc chắ
n và chính xác về những gì đối thủ cạnh tranh
của mình đã đăng ký. Thứ hai, yêu cầu này có phép cơ quan nhãn hiệu xác định một
cách chắc chắn rằng nhãn hiệu bao gồm những gì để có thể thực hiện quá trình thẩm
định và công bố đơn đăng ký.

Như vậy, các dạng dấu hiệu có thể được đăng ký là:
- Từ ngữ
: Nhóm này bao gồm tên công ty, họ, tên riêng, và từ ngữ bất kỳ
nào khác hoặc tập hợp các từ ngữ, dù được sáng tạo ra hay không và các khẩu
hiệu.
- Ký tự và con số
: Một hoặc nhiều ký tự, một hoặc nhiều số hoặc sự kết hợp
bất kỳ của các ký tự và số.
- Hình họa: Nhóm này bao gồm các hình họa tưởng tượng, các hình vẽ, biểu
tượng và cả sự thể hiện hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì .
- Sự kết hợp bất kỳ các dấu hiệu nêu trên, bao gồm cả lôgô và nhãn sản
phẩm.
- Nhãn hiệu màu: Nhóm này bao gồm các từ ngữ, hình họa và sự kết hợp bất
kỳ các dấu hiệu đó bằng màu sắc, cũng như việc kết hợp màu sắc và bản thân màu
sắc. Một số nhãn hiệu đăng ký sử dụng chuẩn màu PANTONE như một nguồn
tham khảo cho nhãn hiệu màu. Việc mô tả các màu sắc bằng từ ngữ là được phép.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

12
- Dấu hiệu ba chiều: Loại điển hình của các dấu hiệu ba chiều hình dáng của
hàng hóa hoặc bao bì của chúng. Một số nước cho phép đăng ký nhãn hiệu ba

chiều, yêu cầu người nộp đơn nộp cả sự thể hiện hai chiều của dấu hiệu ba chiều
(bản vẽ, ảnh hoặc sự thể hiện bất kỳ có thể in được) hoặc một bản mô tả
(hoặc cả
hai). Cần ghi nhận rằng một số nước loại trừ việc đăng ký dấu hiệu ba chiều là
hình dáng tự nhiên của hàng hóa hoặc chức năng của hàng hóa mà theo đó hình
dáng của hàng hóa tạo ra giá trị quan trọng của hàng hóa.
- Dấu hiệu có thể nghe thấy được: với điều kiện các dấu hiệu này được đăng
ký hoặc là thông qua các nốt nhạc hoặc thông qua bản mô tả (ví dụ
,: tiếng khóc
của động vật). Một số nước cho phép đăng ký nhãn hiệu âm thanh. Khi âm thanh
được thu âm và băng catxet được nộp cho Cơ quan nhãn hiệu để đăng ký.
- Nhãn hiệu có thể ngửi được (Nhãn hiệu mùi): có các tiêu chuẩn được chấp
nhận về mùi thơm, ví dụ, Tiêu chuẩn Zwaardemaker (1985) và Tiêu chuẩn
Linnaeus (1756), tuy nhiên, bản mô tả bằng từ ngữ thông thường cũng được phép
(ví dụ, “mùi của cỏ mới cắt” dùng cho bóng ten-nít).
- Các dấu hi
ệu (vô hình) khác: Ví dụ về các dấu hiệu này là các dấu hiệu
được cảm nhận bằng xúc giác.

Cần ghi nhận rằng, như sẽ được bàn luận dưới đây, để mỗi loại dấu hiệu này có thể
được đăng ký, chúng phải thực hiện được chức năng của nhãn hiệu trong việc phân
biệt nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ.

Ví dụ, các dấu hiệu dưới đây đ
ã bị Cơ quan Nhãn hiệu Anh từ chối vì không phải là
các mô tả đồ họa chính xác đầy đủ về nhãn hiệu:
• “kẹo ngọt gắn trên que”
• “thẻ tuần hoàn nén mô tả đồ thị nhịp tim nổi trên cả hai mặt, trong đó một mặt
chứa đựng một số từ ngữ và cụm từ mô tả bên trong đồ thị nhịp tim”.
• “máy hút bụi có thiết bị che phủ bên trong mộ

t cái vỏ bằng nhựa”.

Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 3 (a) Việc bố trí ba lưỡi dao cạo trên một bàn cạo, theo hình tam giác đều,
có thể được đăng ký như một nhãn hiệu hình khối không?

A. Thứ nhất, việc bố trí lưỡi dao cạo có thể được thể hiện bằng đồ họa
dưới dạng hai chiều. Việc bố trí lưỡi dao cạo phải có khả năng được
ngườ
i tiêu dùng phân biệt là sản phẩm của một doanh nghiệp cá biệt .
Việc đăng ký sẽ phải thỏa mãn điều kiện là dấu hiệu không phát sinh
từ chính trạng thái tự nhiên của dao cạo, hoặc liên quan đến chức năng
của dao cạo, hoặc hình khối đó mang lại giá trị quan trọng cho dao

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

13
cạo. Tòa án khi được yêu cầu xem xét tình huống thực tế trong vụ kiện
giữa Philips và Remington đã quyết định rằng việc bố trí đầu lưỡi dao
cạo không có tính phân biệt hoặc bị loại trừ đăng ký, vì nó liên quan
đến chức năng của hàng hóa.

SAQ 3 (b) Lý do bác bỏ việc đăng ký nước hoa như một nhãn hiệu có thể là gì?

A. Luật nhãn hiệu xác định sự phân biệt giữa nhãn hiệu và sản phẩ
m
mang nhãn hiệu đó. Do đó, nếu nước hoa là sản phẩm thì sự phân biệt
này sẽ mất đi.


SAQ 3 (c) Bạn có nghĩ rằng bản mô tả dưới đây được đăng ký như một nhãn hiệu
màu: “một bình thủy tinh màu xanh có các đặc tính quang học là nếu
thành bình dày 3mm, thì ở ngoài trời bình sẽ có bước sóng mạnh nhất
từ 472 đến 474 nanômét, độ tinh khiết 44-48% và độ sáng quang học
32%”?

A. Biết rằng ảnh ph
ổ kế sẽ cần phải yêu cầu chuyển các đặc tính quang
học này thành “màu xanh cô ban”, nếu rất có thể việc đăng ký theo
quan điểm là nhãn hiệu màu không được bộc lộ đầy đủ cho người đọc
bản đăng ký. Tương tự, nhãn hiệu nước hoa mà được mô tả bằng việc
liên hệ đến việc mô tả sắc phổ khí là không được bộc lộ một cách đầy
đủ cho việc đăng ký.



Tính phân biệt

Tiêu chí đối với đăng ký được đề cập trong Điều 15.1 Hiệp định TRIPs và Công ước
Paris là tiêu chí về tính phân biệt. Ví dụ, Điều 6quinquies, s.B.2 Công ước Paris cho
phép từ chối đăng ký nhãn hiệu mà ‘không hề có bất cứ đặc điểm phân biệt nào’. Việc
kiểm tra liệu một nhãn hiệu có tính phân biệt hay không bị giới hạn phụ thuộc vào sự
nhận biết của người tiêu dùng hoặc ít nh
ất là những người mà dấu hiệu hướng tới. Một
dấu hiệu được coi là có tính phân biệt đối với hàng hóa mang dấu hiệu đó nếu nó được
nhận biết bởi những người mà nó hướng đến như một loại hàng hóa xác định từ một
nguồn thương mại cụ thể hoặc có khả năng được nhận biết như vậy.

Các ví dụ về việ
c thiếu tính phân biệt của một nhãn hiệu bao gồm: dấu hiệu quá đơn

giản (hình một ngôi sao, một vương miện hoặc một chữ cái đơn lẻ) hoặc quá phức tạp
(tạo ra ấn tượng là một sự tô điểm hoặc trang trí cho hàng hóa liên quan, hoặc đơn

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

14
thuần là một khẩu hiệu bao gồm một lời khuyến nghị mua hoặc sử dụng hàng hóa đó),
hoặc khi dấu hiệu được xem xét đã trở thành phổ thông.

Dấu hiệu có tính phân biệt sẵn có

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều phân biệt dấu hiệu có tính phân biệt sẵn có và các dấu
hiệu có thể trở nên phân biệt thông qua việc sử dụng. Sự khác biệt này được chỉ ra
trong Đ
iều 15.1 Hiệp định TRIPs, theo đó quy định rằng ‘trường hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các quốc gia
thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt có
được thông qua việc sử dụng’.

Nhãn hiệu nhìn chung được hiểu là có tính phân biệt sẵn có nếu sự kết hợp nhãn hiệu
đó với sản phẩm sử d
ụng nhãn hiệu đó là ngẫu hứng có tính chất tưởng tượng. Ví dụ
điển hình về nhãn hiệu có tính phân biệt sẵn có là các từ tự đặt như KODAK, LEGO
hoặc XEROX. Cũng như các từ ngữ có mối quan hệ ngẫu hứng với sản phẩm mà
chúng mô tả có thể có tính phân biệt, như APPLE cho máy tính hoặc CAMEL cho
thuốc lá. Tên công ty có thể được xem là có tính phân biệt nếu được đưa ra dưới dạng
ký tự hoặc sự bố
trí có tính phân biệt.

Theo quy tắc chung, một nhãn hiệu sẽ được coi là thiếu tính phân biệt nếu nó mô tả về

sản phẩm hoặc chất lượng của sản phẩm. Nhãn hiệu mô tả kiểu này có khả năng trở
nên có tính phân biệt khi ý nghĩa thứ hai bắt nguồn từ một công ty riêng biệt đã được
người tiêu dùng nhận biết mà trở nên quan trọng hơn là tính chất mô tả của dấu hiệu
đó. Ví dụ, trong v
ụ kiện ở Anh giữa Reddaway và Banham (1896), nhãn hiệu CAMEL
HAIR BELTING đã được người tiêu dùng có liên quan giải nghĩa là sản phẩm dây đai
bắt nguồn từ nguyên đơn.

Dưới đây là những nhãn hiệu đã bị bác bỏ ở Anh:

COFFEE HOUSE AROMA cho cà phê;
EASY FLOSSING cho “tăm xỉa răng tơ sồi”;
MINI CLAW cho dụng cụ làm vườn;
MINILITE cho bánh xe ô tô trọng tải nhẹ;
TREAT cho các loại nước sốt và xi rô tráng miệng;
WEB LINK cho một thiết bị phầ
n mềm máy tính;
XPRESSLINK cho một thiết bị viễn thông.

Dưới đây là những nhãn hiệu đã bị bác bỏ tại OHIM:
1005 PURE GOODNESS cho mỹ phẩm;

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

15
COMPLETE cho xà phòng và mỹ phẩm;
ENVIRO-CHEM cho các dụng cụ đo lường và lắp đặt liên quan đến ô nhiễm, kiểm
soát và giảm ô nhiễm;
GLOBAL CHILLER cho các thiết bị làm lạnh;
GREENFILTER cho máy lọc;

LANDSCAPE cho đồ dùng nội thất, văn phòng, nhà bếp và các dịch vụ lắp đặt;
NATURAL BEAUTY cho xà phòng và nước hoa;
PETIT BEBE cho quần áo, giầy dép và mũ;
SO SOFT cho sữa, bơ và bơ thực vật;
SUPREME cho ảnh chụp;
ULTRA MOIST cho mỹ phẩm và xà phòng;
WWW.PRIMEBROKER.COM cho công cụ phần mềm cung cấp thông tin về c
ổ phiếu
và chứng khoán.

Dưới đây là những đơn đăng ký không bị từ chối:

Ở Anh:

ABERCROMBIE cho quần áo (vì có ít hơn 100 lần xuất hiện tên này trong danh bạ
điện thoại của thành phố lớn bất kỳ).
MISTER LONG cho kem, với điều kiện kem không dài một cách bất bình thường.

Tại OHIM:

CHEMFINDER cho phần mềm dùng trong tra cứu thuốc;
IMAGESTREAM cho phần mềm máy tính;
LASTING PERFORMANCE cho xà phòng rửa;
MAXIMA cho dụng cụ y tế và phẫ
u thuật;
NETMEETING cho các chương trình máy tính để giao tiếp qua các mạng máy tính;
RENOWN cho hành lý;
SMART OS cho phần mềm máy tính.

Câu hỏi tự đánh giá


Câu 4 (a) Bạn hình dung cơ quan nhãn hiệu sẽ quyết định thế nào về các đơn đăng
ký sau:
(i) THE WORLD’S FINEST cho thuốc lá;
(ii) CH25 cho nước hoa;
(iii) RAYMOND cho các dịch vụ làm tóc;
(iv) MAGNIFIQUE cho các trò chơi máy tính;

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

16
(v) HOLLY cho các dịch vụ kiến trúc cảnh quan;
(vi) SAKATA cho mực in và thuốc màu;
(vii) Một thiết bị có phần mô tả đồ họa một công-te-nơ chở dầu;
(viii) PORTFOLIO cho sách và vật mang dữ liệu từ tính;
(ix) LEND LEASE cho việc cung cấp các dịch vụ kiến trúc, xây dựng,
nhà cửa, cảnh quan làm vườn, xây dựng khách sạn và thiết kế
công nghiệp.

Trả lời.
(i) Sự diễn đạt này có thể
được xem như một sự tự phóng đại quá
mức (“chỉ rít một hơi thuốc”) khi dùng cho thuốc lá, vì vậy, không
có ý nghĩa và có khả năng được đăng ký.
(ii) Hầu hết các cơ quan nhãn hiệu sẵn sàng đăng ký tổ hợp các từ và
các chữ cái, với điều kiện chúng không có nghĩa. Một ngoại lệ là
con số 4711 cho nước hoa, có liên hệ với địa chỉ ở Cologne nơi
sản xuất n
ước hoa Cologne có thương hiệu nổi tiếng trong một
thời gian dài.

(iii) Việc sử dụng tên riêng cho các tiệm uốn tóc là rất phổ biến và do
đó khiến cho dấu hiệu này không có tính phân biệt.
(iv) Mặc dù là một từ tiếng Pháp thông dụng mang nghĩa “nguy nga,
tráng lệ” nhưng có thể được đăng ký cho các trò chơi trên máy
tính nếu từ đó không được sử dụng một cách rộng rãi như một sự
mô tả chất lượ
ng trong ngành công nghiệp này.
(v) Holly vừa là tên riêng ở các nước nói tiếng Anh vừa là tên một
loại cây bụi nên có thể coi là thiếu khả năng phân biệt đối với các
dịch vụ cảnh quan.
(vi) SAKATA là một thành phố của Nhật Bản với hơn 100.000 dân, là
một trung tâm sản xuất đồng thời cũng là một tên họ khá thông
dụng của Nhật Bản, do đó có thể không đủ khả năng phân biệt đố
i
với mực và thuốc màu.
(vii) Vì các nhà cung cấp dầu khác có thể muốn sử dụng thiết bị này,
cũng như các phiên bản ba chiều của nó nên nhãn hiệu này có thể
không được đăng ký trừ khi công-te-nơ đó có điểm khác biệt
riêng.
(viii) Việc sử dụng nhãn hiệu này đối với sách có thể không mang tính
phân biệt, nhưng nó có thể được chấp nhận khi sử dụng cho máy
ảnh mang dữ liệu từ
tính.
(ix) Việc cung cấp các dịch vụ dịch vụ thiết kế kiến trúc, xây dựng,
cảnh quan làm vườn và thiết kế công nghiệp có thể không bị từ
chối vì dấu hiệu này chỉ ám chỉ các dịch vụ đó chứ không có mối

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

17

liên hệ trực tiếp và tức thì giữa các dịch vụ đó với việc cho thuê
mượn tài sản.

Câu 4 (b) Tại sao bạn lại nghĩ rằng những dấu hiệu từ ngữ: GAP (cho quần áo),
VIRGIN (cho hàng không), MARS (cho sôcôla), AMAZON (cho cửa
hàng sách trực tuyến) và MONT BLANC (cho các dụng cụ để viết) được
xem xét là các nhãn hiệu có khả năng phân biệt?

Trả lời. Vì những dấu hiệu này là có tính chất ngẫu hứng trong quan hệ v
ới
các sản phẩm sử dụng dấu hiệu đó.


Tính chất chung

Một hiện tượng nghịch lý trong luật nhãn hiệu đó là việc mất tính phân biệt khi một
nhãn hiệu trở nên gắn bó với loại sản phẩm sử dụng nó đến mức trở thành một sự mô
tả chung về sản phẩm đó. Ví dụ, các thuật ngữ chung “đồ nội thất” (chỉ đồ đạc nội thất
nói chung và cũng để chỉ bàn, ghế, v.v.) và “ghế” (để ch
ỉ ghế). Các nhãn hiệu như
FRIGIDAIRE, CELLOPHANE, ESCALATOR, GRAMOPHONE và LINOLEUM
được đăng ký như các nhãn hiệu có tính phân biệt, về cơ bản đã trở thành các thuật
ngữ chung vì chúng là sản phẩm duy nhất trong nhóm sản phẩm của mình và vì chủ sở
hữu các nhãn hiệu đó đã không nỗ lực để ngăn cản chúng trở thành các từ chung. Ví
dụ, khi một tờ báo hoặc tạp chí sử dụng một nhãn hiệu theo cách chung chung thì chủ
sở hữu nhãn hiệ
u cần yêu cầu phải đăng thông báo đính chính lại cách sử dụng đó. Ví
dụ, mô tả trong một quảng cáo về dao cạo râu điện là “dao cạo râu điện ROLLS
ROYCE” cần được chủ sở hữu nhãn hiệu ROLLS ROYCE đính chính lại rằng nhãn
hiệu này là tài sản của Hãng ôtô Rolls Royce và nó chỉ được sử dụng trên xe ôtô do

hãng sản xuất.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 5 Báo cáo dưới đây xuất hiện trên m
ột tờ báo. Hãy viết lại với sự dẫn
chiếu thỏa đáng tới quyền của các chủ sở hữu nhãn hiệu.

“Một nhóm thanh niên mặc đồ ray-ban và nike đã đột nhập vào
portacabin. Chúng cuỗm theo một loạt Rolexes và thoát khỏi hiện
trường trên những ván trượt bị một chiếc Mercedes đuổi theo rất sát.”

Trả lời. “Một nhóm thanh niên đeo kính râm hiệu RAY-BAN đã đột nhập vào
tòa nhà PORTACABIN. Chúng cuỗm theo m
ột loạt đồng hồ hiệu

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

18
ROLEX và thoát khỏi hiện trường trên những ván trượt bị một chiếc xe
ôtô hiệu MERCEDES đuổi theo rất sát.”



Nhãn hiệu bao gồm “các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn riêng được sử dụng trong
thương mại có thể được dùng để chỉ chủng loại, chất lượng, số lượng, mục đích
dự kiến, giá trị, nguồn gốc địa lý, thời gian sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp
dịch vụ hoặc các đặc điểm riêng khác của hàng hóa hoặc dịch vụ”;



Điều 6quinquies Công ướ
c Paris quy định, bằng cách diễn đạt như trên, về việc từ chối
đăng lý các dấu hiệu có tính chất mô tả hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc một số đặc tính
của hàng hóa/dịch vụ đó. Ý nghĩa của việc loại trừ này là nhằm giữ các dấu hiệu hoặc
chỉ dẫn mà những người kinh doanh thương mại trung thực có thể muốn sử dụng
không vì động cơ sai trái.

Ví dụ, ở Anh và OHIM đã từ chối đăng ký các nhãn hiệu theo nhiều căn cứ khác nhau
như:

Từ ngữ tán dương

Bị từ chối


100% PURE GOODNESS cho mỹ phẩm và dầu gội;
LASTING PERFORMANCE cho nước hoa, tinh dầu và mỹ phẩm;
OPTIMA cho máy dưỡng khí;
SUPREME cho các sản phẩm nhiếp ảnh;
TREAT cho các loại nước sốt và xi rô tráng miệng.

Không bị từ chối


MAXIMA cho thiết bị y tế và phẫu thuật.

Chỉ dẫn địa lý

Bị từ chối



ISLE OF SKYE cho rượu mạnh và rượu mùi, vì đó là hòn đảo Scôt-len nơi sản xuất
rượu whisky.


Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

19
Không bị từ chối

VAL D’ISERE cho quần áo lót phụ nữ, vì không nhận định rằng sản phẩm may mặc
này được sản xuất trong khu trượt tuyết đó.

Dấu hiệu mô tả

Bị từ chối


BABY-DRY cho tã dùng một lần;
BROADBAND CODE MULTIPLE ACCESS cho các hệ thống viễn thông;
COFFEEMIX cho máy pha cà phê;
COMFORT PLUS cho thảm và các vật trải sàn;
COMPANYLINE cho các hoạt động bảo hiểm và tài chính;
COMPLETE cho xà phòng và mỹ phẩm;
DOUBLEMINT cho kẹo cao su, mỹ phẩm, thuốc đánh răng và các dược liệu bào chế;
ENAMELIZE cho thuốc đánh răng;
EUROLAMB cho thịt cừu;
FOODSAVER và FRESHSAVER cho máy đóng gói chân không;
FROOT LOOPS cho ngũ cốc;
GLOBAL CHILLER cho các thiết bị làm lạnh;

JIVE cho các loại băng tiếng và băng hình;
LANDSCAPE cho đồ đạc nội thất, v
ăn phòng và nhà bếp;
MINI CLAW cho dụng cụ làm vườn;
ONE TOUCH VIEW cho điện thoại;
PETIT BEBE cho quần áo và giầy dép trẻ em;
PORTFOLIO cho sách và các ấn phẩm in;
WWW.PRIMEBROKERS.COM cho công cụ phần mềm buôn bán cổ phiếu doanh
nghiệp.

Không bị từ chối


LIGHT GREEN và YELLOW cho kẹo cao su;
OILGEAR cho máy bơm nước và ôtô, động cơ ôtô;
SWEDISH FORMULA cho mỹ phẩm, xà phòng và dầu gội.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 6 (a) Bình luận về khả năng được đăng ký của các nhãn hiệu dưới đây:
(i) KETTLE CLEAN cho chất pha chế làm sạch cặn;

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

20
(ii) BUDGET cho dịch vụ cho thuê ôtô;
(iii) OVERNIGHT cho dịch vụ giao hàng;
(iv) QUIKSLIM cho đồ ăn kiêng;
(v) Hình vẽ một chùm nho cho dịch vụ giải khát.


Trả lời Mỗi nhãn hiệu nêu trên đều có thể được người kinh doanh sử dụng với
dụng ý tốt.

Khi xem xét một thuật ngữ có tính thông dụng trong thương mại hay không, Cơ quan
đăng ký sẽ dùng các danh bạ và từ điển để xác định việc sử dụ
ng nhãn hiệu có là thông
lệ trong thương mại hay không.

Tính phân biệt có được thông qua việc sử dụng

Khi xác định một nhãn hiệu có trở nên có tính phân biệt thông qua việc sử dụng hay
không, sẽ thực hiện một đánh giá tổng thể để xem xem liệu nhãn hiệu đó có dẫn đến
việc nhận diện được sản phẩm bắt nguồn từ một doanh nghiệp riêng biệt và do đó phân
biệt nó với sản ph
ẩm của các doanh nghiệp khác. Nhận thức về nhãn hiệu trong tâm trí
người tiêu dùng bình thường về hàng hóa hoặc dịch vụ đóng vai trò quyết định.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 7 Chứng cứ nào sẽ được dựa vào để xác định tính phân biệt của một nhãn
hiệu có được thông qua việc sử dụng?

Trả lời. Điểm xuất phát sẽ thường là các chứng cứ tài chính về doanh thu, chi phí
quảng cáo và xúc tiến hàng hóa ho
ặc dịch vụ cùng với các ví dụ về việc
nhãn hiệu được sử dụng trong thực tế như thế nào. Nguồn chứng cứ tốt
nhất là nhóm người tiêu dùng có liên quan. Các cuộc thăm dò thị trường
được tổ chức tốt cũng có thể có tính thuyết phục.



Nhãn hiệu trái với lợi ích công cộng hoặc các quy tắc đạo đức đã được chấp
nhận;

Căn cứ loại trừ này được thiết lập nhằm ngăn chặn việc đăng ký nhãn hiệu có thể xúc
phạm đến một bộ phận công chúng. Việc xúc phạm có thể phát sinh bởi các vấn đề về
chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng tôn giáo hoặc các vấn đề chung về sở thích và lễ
giáo.
Việc xúc phạm có thể bằng hình ảnh hoặc từ ngữ. Những nhãn hiệu khuyến khích hoặc
cổ động cho các hành vi tội phạm là ví dụ rõ ràng về loại nhãn hiệu có thể bị loại trừ
này.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

21



Nhãn hiệu gây nhầm lẫn

Căn cứ loại trừ tuyệt đối việc đăng ký này liên quan đến tính gây nhầm lẫn sẵn có của
chính bản thân nhãn hiệu hơn là sự tương tự gây nhầm lẫn của nó với một nhãn hiệu
khác. Ví dụ về nhãn hiệu có tính gây nhầm lẫn sẵn có là:

• ORLWOOLA cho quần áo không làm toàn bằng len;
• CHINA-THERM cho cốc nhựa cách nhiệt;
• FILLET-O-FISH cho đồ ăn chỉ có thành phần cá;
• ROYAL WORCESTER ám chỉ sự sai lệch về sự bảo trợ của hoàng gia
cho đồ sứ từ vùng Worcester Hoa Kỳ.



Nhãn hiệu trái pháp luật

Một số quốc gia cấm các nhãn hiệu bị cấm theo quy định của các luật không phải là
luật nhãn hiệu. Ví dụ về các nhãn hiệu bất hợp pháp là:

• Sử dụng dấu hiệu Chữ thập đỏ trái với quy định nêu tại phần 6 Luật
Công ước Genevơ 1957;
• Sử dụng từ ngữ hoặc các thành phần trái với pháp luật về phân biệt
ch
ủng tộc hoặc hằn thù chủng tộc;
• Sử dụng sai lệch các chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ như “Champagne”
hoặc “Cognac”.



Biểu tượng đã được bảo hộ một cách đặc biệt

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều loại trừ việc bảo hộ các biểu tượng đặc biệt nhất định
đã được bảo hộ. Chúng bao gồm:

• Quốc huy của các nước ký kết Công ước Paris;
• Biểu tượng của các tổ chức quốc tế nhất định;
• Các bi
ểu tượng Olympic.


Đơn đăng ký không trung thực


Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp


22
Nhiều luật nhãn hiệu quy định việc từ chối các đơn đăng ký không trung thực.
Trường hợp phổ biến nhất về hành vi không trung thực là đơn được làm bởi những
người không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu.

Ví dụ:

• Đăng ký trái phép nhãn hiệu nổi tiếng bởi các bên thứ ba;
• Đăng ký nhãn hiệu bởi bên nhận li-xăng hoặc nhà phân phối sản phẩm mang
nhãn hiệu;

Đăng ký nhãn hiệu bởi những người nộp đơn không thành công để chỉ định các
nhà phân phối sản phẩm mang nhãn hiệu đó;
• Đơn đăng ký có dụng ý xấu khi sử dụng nhãn hiệu;
• Người nộp đơn biết rằng người khác có ý định sử dụng và/hoặc đăng ký nhãn
hiệu, đặc biệt khi người nộp đơn có quan hệ với người này, ví dụ, người phân
phối, đại lý hoặ
c người lao động.

Việc kiểm nghiệm ý đồ không trung thực ở chỗ liệu người nộp đơn có thể được cho là
tuân thủ đúng các tiêu chuẩn về hành vi thương mại đã được thiết lập hay không.

Công ước Paris không cho phép việc bảo hộ nhãn hiệu gồm ‘một dấu hiệu hoặc chỉ
dẫn được sử dụng trong lĩnh vực thương mại có liên quan để chỉ chủ
ng loại, chất
lượng, số lượng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ, hoặc thời gian sản xuất hoặc đã trở
thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời hoặc trong các tập quán thương mại lành
mạnh và lâu đời tại các nước có yêu cầu bảo hộ’.



Các căn cứ tương đối để từ chối đăng ký

Đăng ký có thể bị từ chối theo Công ước Paris đối với các nhãn hiệu ‘khi chúng về bản
chất xâm phạm quyền có được của các bên thứ ba ở nước có yêu cầu bảo hộ’. Điều
này được chỉ ra rằng các quyền của bên thứ ba này có thể liên quan đến các nhãn hiệu
đã được bảo hộ ở nước có liên quan, hoặc các quyền SHTT và các quy
ền có liên quan
khác như ‘quyền đối với tên thương mại hoặc bản quyền hoặc …nếu một nhãn hiệu
xâm phạm quyền riêng tư của người khác’.

Một nhãn hiệu sẽ xâm phạm các quyền có được của bên thứ ba nếu:

• Các nhãn hiệu và hàng hóa/dịch vụ sử dụng các nhãn hiệu đó giống nhau;
• Có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng vì sự giống nhau của nhãn hiệu
hoặc hàng hóa/d
ịch vụ; và

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

23
• Khi nhãn hiệu có trước đã có danh tiếng hoặc nổi tiếng trong nước và việc sử
dụng nhãn hiệu đăng ký sau có thể gây bất lợi hoặc thiệt hại cho đặc tính hoặc
danh tiếng của nhãn hiệu có trước.

Nhãn hiệu giống nhau cho hàng hóa hoặc dịch vụ giống nhau


Căn cứ tương đối đầu tiên để từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu là khi nhãn của người nộp
đơn giống với một nhãn hiệu có trước đã được đăng ký cho cùng loại hàng hóa hoặc

dịch vụ như nhãn của người nộp đơn. Nhãn hiệu có trước là nhãn hiệu có ngày nộp
đơn đăng ký sớm hơn hoặc có ngày ưu tiên sớm hơn có thể được yêu cầu theo Công
ước Paris.

Nhãn hiệ
u tương tự hoặc giống nhau cho hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự hoặc giống
nhau, nếu có khả năng gây nhầm lẫn

Đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ chối theo các căn cứ tương nếu có khả năng gây nhầm
lẫn trong một bộ phận công chúng liên quan tới:

• Một nhãn hiệu có trước tương tự được đăng ký cho hàng hóa hoặc dịch vụ
tương tự với hàng hóa/dịch vụ mà người nộp đơn yêu cầu; hoặc
• Một nhãn hiệu có trước tương tự được đăng ký cho cùng lo
ại hàng hóa hoặc
dịch vụ mà người nộp đơn yêu cầu.

Khi đánh giá khả năng gây nhầm lẫn, tòa án có xu hướng đánh giá ở cấp độ toàn cầu
về tính tương tự về cách thể hiện, sự phát âm hoặc ý nghĩa của các nhãn hiệu đang
được xem xét, lưu ý các thành tố đặc thù và quan trọng cũng như mức độ tương tự
giữa các hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan. Do đó, mức
độ ít giống nhau hơn về
nhãn hiệu có thể được bù lại bởi mức độ giống nhau nhiều hơn về hàng hóa hoặc dịch
vụ, hoặc ngược lại.

Chuẩn nhận thức có xu hướng được chấp nhận là mức độ nhận thức của người tiêu
dùng trung bình. Thực tế được tính đến là người tiêu dùng trung bình sẽ chỉ nhớ lại
một cách không đầy đủ về nhãn hiệ
u có trước. Mức độ quan tâm đó của của người tiêu
dùng đó có thể là rất khác nhau phụ thuộc vào chủng loại hàng hóa hoặc dịch vụ và

hoàn cảnh mà chúng được đưa ra thị trường. Do đó, hàng hóa giá rẻ bán ở siêu thị để
trên cùng giá với các hàng hóa tương tự sẽ thường ít được quan tâm hơn hàng hóa giá
cao bán ở phòng trưng bày.

Theo nguyên tắc chung, nhãn hiệu có trước càng có tính phân biệt thì càng có khả
năng bị gây nhầm lẫn. Để đánh giá, tòa án s
ẽ chú ý tới thị phần của nhãn hiệu, mức độ

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

24
sử dụng, khu vực địa lý có sản phẩm mang nhãn hiệu, chi phí cho quảng cáo và xúc
tiến thương mại, mức độ nhận biết về nhãn hiệu của công chúng có liên quan.

Ví dụ về hàng hóa hoặc dịch vụ bị cho là tương tự theo các quyết định của Cơ quan
đăng ký Anh và OHIM:

• Cà phê, chè và cacao được xem là tương tự với các chất thay thế cà phê do cách
sử dụng tương tự;
• Phân bón hữu cơ được xem là hàng hóa tương t
ự với các hóa chất sử dụng trong
nghề làm vườn và lâm nghiệp;
• Rượu vang tương tự với whisky và các dịch vụ quầy rượu;
• Dịch vụ của các thẩm mỹ viện tương tự với hoạt động kinh doanh hỗ trợ dùng
các chế phẩm làm đẹp.

Hàng hóa và dịch vụ được xem là không tương tự bao gồm:

• Túi, vali và ví làm bằng da với bật lửa hút thuốc và nhiên liệ
u dùng cho bật lửa;

• Túi thể thao, túi dùng để mua sắm, túi dùng trong nhà vệ sinh và các túi chìa
khóa với quần áo.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 8 Chủ sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký SOUTHERN CROSS cho máy
và dụng cụ vắt sữa có thể phản đối được việc đăng ký cùng nhãn hiệu đó
cho tủ lạnh, máy giặt và các đồ dùng gia đình không?

Trả lời. Vì nhãn hiệu là giống nhau nên câu trả lời sẽ phụ thu
ộc vào việc liệu
những loại hàng hóa đó có được xem là tương tự nhau theo người tiêu
dùng trung bình đánh giá không. Điều này sẽ bị tác động bởi các kênh
thương mại mà hàng hóa đó được bán ra. Ví dụ, trong trường hợp thực tế
ở Australia, tại các vùng nông thôn người ta thấy rằng máy vắt sữa được
bán trong cùng cửa hàng bán đồ dùng gia đình và do đó người tiêu dùng
có thể bị nhầm lẫn bởi việc sử dụng một nhãn hi
ệu giống nhau cho các
hàng hóa này.


Nhãn hiệu nổi tiếng

Có một cơ chế bảo hộ đặc biệt cho các nhãn hiệu được coi là “nổi tiếng”. Cơ chế này
được thiết lập theo Điều 6bis(1) Công ước Paris, theo đó cho phép các nước thành viên
của Liên minh Paris

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

25

.
..từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, cấm sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự
sao chép, bắt chước, biên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã
được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là nhãn
hiệu nổi tiếng tại nước đó của người được Công ước cho hưởng lợi thế sử dụ
ng
nhãn hiệu đó trên các loại hàng hóa giống hoặc tương tự.

Điều này cũng được áp dụng ‘khi thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của
một nhãn hiệu nổi tiếng hoặc là sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
đó’. Thời hạn 5 năm kể từ ngày đăng ký được cho phép theo Điều 6bis(2) để hủy bỏ
các đă
ng ký trái phép nhãn hiệu nổi tiếng nhưng với những nhãn hiệu ‘đăng ký hoặc
sử dụng với dụng ý xấu’ thì Điều 6bis(3) không quy định thời hạn để yêu cầu hủy bỏ
hoặc cấm một nhãn hiệu nổi tiếng trái phép. Điều 16.2 Hiệp định TRIPs quy định rằng
‘Điều 6bis Công ước Paris (1967) sẽ được áp dụng với những sửa đổ
i thích hợp đối
với các dịch vụ’ và Điều 16.3 quy định ‘Điều 6bis Công ước Paris (1967) sẽ được áp
dụng với những sửa đổi thích hợp cho hàng hóa hoặc dịch vụ không tương tự với hàng
hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng ký.

Lợi ích của cơ chế bảo hộ theo các điều khoản tương ứng của Công ước Paris là việc
bảo hộ này có thể được thực hiện thậm chí không cần phải đăng ký. Vấn đề bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng thường phát sinh trong các thị trường mới, thường ở các nước
trước đó đã đóng cửa với các thương gia nước ngoài hoặc do sự phát triển kinh tế
nhanh chóng đã trở nên hấp dẫn với các nhà cung ứng sản phẩm đã có thương hiệu.

Đi
ều 16.2 quy định rằng ‘[i]để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không cần phải
xem xét danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận dân chúng có liên quan....’Bằng

chứng về khảo sát thị trường thường được sử dụng để chứng minh danh tiếng của một
nhãn hiệu đối với công chúng.

Điều 16.2 cũng đề cập đến ‘danh tiếng...có được nhờ hoạt động quảng bá nhãn hiệu
đó’
để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không.

Phiên họpWIPO tháng 9/1999 của Hội đồng Công ước Paris và Đại hội đồng của
WIPO đã thông qua Bản kiến nghị chung sau đây của Ủy ban thường trực về sáng chế
(SCP) liên quan đến các quy định về việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng:

Xác định nhãn hiệu nổi tiếng

×