Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Định giá tài sản vô hình ở Vietnam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.49 KB, 11 trang )

Định giá tài sản vô hình ở Vietnam
Người viết: Webmaster
21/03/2008
"...đội ngũ nhân viên lành nghề, có kỹ thuật; ban lãnh đạo có chuyên
môn, tài năng chính là một tài sản vô cùng to lớn của công ty nhưng tại
sao tài sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một báo cáo nào
của công ty? Phải chăng là do không định lượng được? ...". Làm thế nào để định
giá đúng tài sản trí tuệ và phát huy hiệu quả của hoạt động này? Đó là câu hỏi
vừa được đưa ra trong chương trình hợp tác giữa Cục Sở hữu trí tuệ và Viện Sở
hữu trí tuệ Liên bang Thụy Sĩ. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình,
không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại có giá trị
lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức
cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước mắt và trong tương
lai.

Định giá ở Việt Nam
Theo ông Stephan Hundertmark, Viện Quản lý sở hữu trí tuệ Steinbeis (Đại học
Steinbeis - Đức), ở nhiều nước phát triển, tài sản vô hình không chỉ bao gồm tài
sản trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, mà
còn bao gồm cả vốn trí tuệ như nguồn nhân lực, các phương thức kinh doanh,
các mối quan hệ trong kinh doanh và uy tín trong sản xuất kinh doanh.
Giống như việc định giá tài sản hữu hình, việc định giá tài sản sở hữu trí tuệ dựa
trên các phương pháp chủ yếu như: so sánh, chi phí, thu nhập và thặng dư. Tuy
nhiên, việc định giá tài sản trí tuệ khó khăn và có nhiều khác biệt hơn so với tài
sản hữu hình.
Hiện tại, Việt Nam theo chuẩn mực kế toán, tài sản trí tuệ chỉ dừng lại ở các loại
hình như: bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy tính.
Gần đây, việc xác định giá trị doanh nghiệp đã tính đến giá trị tài sản vô hình
thông qua việc tính toán lợi thế doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động này mới chỉ
dừng lại ở công thức cứng, đó là xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái
phiếu...


Vừa qua, trong Thông tư số 146/2007 ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành Nghị định số 109/2007 của Chính phủ về việc chuyển công ty 100%
vốn nhà nước sang công ty cổ phần đã bổ sung thêm việc xác định lợi thế doanh
nghiệp trên cơ sở về vị trí địa lý và giá trị thương hiệu.

Cần quy định cụ thể hơn
Theo ông Vũ An Khang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng giám đốc Công ty Định
giá và dịch vụ tài chính Việt Nam, từ nguyên tắc về việc ghi chép kế toán, chỉ có
những tài sản trí tuệ có chi phí phát sinh thì mới được xem xét để ghi nhận.
Ngoài ra, nếu không có căn cứ về phát sinh chi phí đều không được phép ghi
nhận vào sổ sách kế toán. Như vậy, còn rất nhiều tài sản trí tuệ khác thuộc
quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của doanh nghiệp nhưng không được ghi nhận.
Mặt khác, nguyên tắc chi phí phát sinh không thể phản ánh đúng giá trị thực của
quyền đó, có thể nhiều hơn hoặc ít hơn. Giá trị đó phải do thị trường quyết định,
ông Khang khẳng định.
Ví dụ, một công ty đã thăm dò, điều tra được một mỏ quặng. Nếu theo nguyên
tắc kế toán thì quyền khai thác trên được ghi nhận là con số rất nhỏ, trong khi rất
nhiều khách hàng sẵn sàng trả một khoản tiền lớn hơn nhiều để có được quyền
khai thác nó.
Cùng quan điểm này, theo ông Trần Ngọc Sơn - Giám đốc Công ty Định giá và
Thương hiệu Favi, ai cũng nhìn thấy chính đội ngũ nhân viên lành nghề, có kỹ
thuật; ban lãnh đạo có chuyên môn, tài năng chính là một tài sản vô cùng to lớn
của công ty nhưng tại sao tài sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một
báo cáo nào của công ty? Phải chăng là do không định lượng được?
Về quan điểm kế toán, công ty phải có quyền kiểm soát đối với tất cả tài sản của
mình, trong khi đó, đội ngũ nhân viên và ban lãnh đạo thì công ty chỉ có thể kiểm
soát được trong phạm vi hợp đồng lao động.
Để định giá đúng và chính xác tài sản này, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng,
Nhà nước cần có những quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn về tài sản vô hình
nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng, phân loại và ghi nhận tài sản vô hình.

Tuy nhiên, cũng có thể cho phép doanh nghiệp tự xác định giá trị tài sản vô hình
để được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Đồng thời, để thể hiện chính xác giá
trị của tài sản này, hàng năm các doanh nghiệp cần được các tổ chức định giá
xác định lại giá trị của các tài sản vô hình này.
Ngoài ra, cũng cần xây dựng một chính sách phù hợp, nhất quán giữa định giá
tài sản trí tuệ và chế độ kế toán kiểm toán để phản ánh đầy đủ và chính xác giá
trị tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng.

(theo TBKTVN)
Cập nhật ( 22/03/2008
“…đội ngũ nhân viên lành nghề, có kỹ thuật; ban lãnh đạo có chuyên môn,
tài năng chính là một tài sản vô cùng to lớn của công ty nhưng tại sao tài
sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một báo cáo nào của công
ty? Phải chăng là do không định lượng được? …”. Làm thế nào để định giá
đúng tài sản trí tuệ và phát huy hiệu quả của hoạt động này? Đó là câu hỏi
vừa được đưa ra trong chương trình hợp tác giữa Cục Sở hữu trí tuệ và
Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Thụy Sĩ. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô
hình, không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhưng
lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả
kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước
mắt và trong tương lai.
Định giá ở Việt Nam
Theo ông Stephan Hundertmark, Viện Quản lý sở hữu trí tuệ Steinbeis (Đại học
Steinbeis - Đức), ở nhiều nước phát triển, tài sản vô hình không chỉ bao gồm tài
sản trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, mà
còn bao gồm cả vốn trí tuệ như nguồn nhân lực, các phương thức kinh doanh,
các mối quan hệ trong kinh doanh và uy tín trong sản xuất kinh doanh.
Giống như việc định giá tài sản hữu hình, việc định giá tài sản sở hữu trí tuệ dựa
trên các phương pháp chủ yếu như: so sánh, chi phí, thu nhập và thặng dư. Tuy
nhiên, việc định giá tài sản trí tuệ khó khăn và có nhiều khác biệt hơn so với tài

sản hữu hình.
Hiện tại, Việt Nam theo chuẩn mực kế toán, tài sản trí tuệ chỉ dừng lại ở các loại
hình như: bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy tính.
Gần đây, việc xác định giá trị doanh nghiệp đã tính đến giá trị tài sản vô hình
thông qua việc tính toán lợi thế doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động này mới chỉ
dừng lại ở công thức cứng, đó là xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái
phiếu…
Vừa qua, trong Thông tư số 146/2007 ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thi hành Nghị định số 109/2007 của Chính phủ về việc chuyển công ty 100%
vốn nhà nước sang công ty cổ phần đã bổ sung thêm việc xác định lợi thế doanh
nghiệp trên cơ sở về vị trí địa lý và giá trị thương hiệu.
Cần quy định cụ thể hơn
Theo ông Vũ An Khang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng giám đốc Công ty Định
giá và dịch vụ tài chính Việt Nam, từ nguyên tắc về việc ghi chép kế toán, chỉ có
những tài sản trí tuệ có chi phí phát sinh thì mới được xem xét để ghi nhận.
Ngoài ra, nếu không có căn cứ về phát sinh chi phí đều không được phép ghi
nhận vào sổ sách kế toán. Như vậy, còn rất nhiều tài sản trí tuệ khác thuộc
quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của doanh nghiệp nhưng không được ghi nhận.
Mặt khác, nguyên tắc chi phí phát sinh không thể phản ánh đúng giá trị thực của
quyền đó, có thể nhiều hơn hoặc ít hơn. Giá trị đó phải do thị trường quyết định,
ông Khang khẳng định.
Ví dụ, một công ty đã thăm dò, điều tra được một mỏ quặng. Nếu theo nguyên
tắc kế toán thì quyền khai thác trên được ghi nhận là con số rất nhỏ, trong khi rất
nhiều khách hàng sẵn sàng trả một khoản tiền lớn hơn nhiều để có được quyền
khai thác nó.
Cùng quan điểm này, theo ông Trần Ngọc Sơn - Giám đốc Công ty Định giá và
Thương hiệu Favi, ai cũng nhìn thấy chính đội ngũ nhân viên lành nghề, có kỹ
thuật; ban lãnh đạo có chuyên môn, tài năng chính là một tài sản vô cùng to lớn
của công ty nhưng tại sao tài sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một
báo cáo nào của công ty? Phải chăng là do không định lượng được?

Về quan điểm kế toán, công ty phải có quyền kiểm soát đối với tất cả tài sản của
mình, trong khi đó, đội ngũ nhân viên và ban lãnh đạo thì công ty chỉ có thể kiểm
soát được trong phạm vi hợp đồng lao động.

Để định giá đúng và chính xác tài sản này, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng,
Nhà nước cần có những quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn về tài sản vô hình
nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng, phân loại và ghi nhận tài sản vô hình.
Tuy nhiên, cũng có thể cho phép doanh nghiệp tự xác định giá trị tài sản vô hình
để được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Đồng thời, để thể hiện chính xác giá
trị của tài sản này, hàng năm các doanh nghiệp cần được các tổ chức định giá
xác định lại giá trị của các tài sản vô hình này.
Ngoài ra, cũng cần xây dựng một chính sách phù hợp, nhất quán giữa định giá
tài sản trí tuệ và chế độ kế toán kiểm toán để phản ánh đầy đủ và chính xác giá
trị tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng.
Định giá “tài sản vô hình”
ĐTCK
Gửi email
Bản in
10:38' AM -
Thứ ba,
01/07/2008
Định giá “tài sản vô hình”
Lâu nay, hai từ thương hiệu đã được nhắc đến không ít và người ta đề cập
nhiều đến giá trị thương hiệu. Nhưng dường như đó chỉ là giá trị cảm tính.
Đã đến lúc, giá trị lý tính và giá trị tính được bằng tiền của “thương hiệu”
phải được đặt ra khi mà hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cũng
như phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam đang trở nên phổ
biến.
Làm sao để tính giá thương hiệu?
Cách đây không lâu, tại Hội thảo “Hoàn thiện và đổi mới hình ảnh thương

hiệu giúp nâng cao giá trị doanh nghiệp” do ESC, DAS tổ chức, ông
Nguyễn Nam Trung, Chủ tịch ESC đã kể lại câu chuyện ông chủ Hãng
kem đánh răng Dạ Lan đã định bán khối tài sản hữu hình của doanh nghiệp
mình với giá 1 triệu USD. Câu hỏi của đối tác mua doanh nghiệp: “Vậy
còn giá trị tài sản vô hình được định giá bao nhiêu?” đã khiến ông chợt
nhận ra thiếu sót của mình trong việc định giá doanh nghiệp. Sự nhanh trí
của người bán doanh nghiệp đã mang lại cho ông thêm 5 triệu USD sau đó.
Tài sản vô hình được nhắc đến ở đây chính là thương hiệu.
Cách tính toán của ông chủ Hãng kem đánh răng Dạ Lan lúc đó như thế
nào để định giá thương hiệu Dạ Lan tương đương 5 triệu USD không được
nhắc đến, chỉ biết rằng, ông chủ này đã cầu viện các chuyên gia định giá
thương hiệu ở tận Singapore.
Năm cách tiếp cận để tính giá thương hiệu đã được Ths. Lâm Minh Chánh,

×