Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Triết Lý Việt Trong Văn Hóa Ẩm Thực(phần 3)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.74 KB, 3 trang )

2.3.2. Ăn là một cách sống
Quan trọng hơn, cách ăn uống, y hệt như cách ăn nói biểu hiện chính cách sống.
Thứ nhất, nó biểu hiện qua hành vi. Chúng ta chỉ cần nhìn người ăn, cách ăn,
nơi ăn, thì đã có thể biết được người đó thuộc loại người nào, trí thức hay lao
công, thành thị hay thôn quê, bắc hay nam. Người lao động húp canh sùm sụp,
và cơm như gió, trong khi nhà nho ăn nhỏ nhẹ, uống nhâm nhi, “ăn chẳng cầu
no.” Người buôn bán ăn vội vã, vừa ăn vừa làm, trong khi những cụ già khề khà
với ly rượu nho nhỏ, suốt ngày chưa xong. Từ những thái độ ăn như vậy, ta thấy
chúng nói lên lối sống của mỗi người: người thợ lam lũ với cách thế ăn mộc
mạc, thẳng thừng; người có học, từ từ không vội vã. Chính vì nhận thấy sự
tương quan giữa lối ăn và cách sống, mà ta thấy trong ca dao tục ngữ không
thiếu những câu như “Ăn đã vậy, múa gậy làm sao,” hay “ăn bốc đái đứng.”
Nếu cách thế ăn uống phản ánh hành vi con người, thì ở xã hội nào chả thế. Có
chi đáng nói. Ở đâu mà giới thợ thuyền có thể chầm chậm thưởng thức sâm
banh như giới qúy tộc nhàn nhã hưởng thụ? Ở đâu mà giới nông dân có thể
hưởng bữa tiệc cả mấy tiếng đồng hồ của bọn trưởng gỉa học làm sang? Điểm
mà chúng tôi muốn nói, đó là cách sống Việt qua lối ăn uống không chỉ là những
phản ứng máy móc, tùy thuộc vào thời gian và công việc. Hơn thế nữa, miếng
ăn, cách ăn phản ánh lối sống, tức lối cư xử cũng như lối phán đoán giá trị của
họ. Thế nên đối với họ, không phải “người thế nào ăn thế nấy,” mà lối ăn đánh
giá trị lối cư xử, lối sống. Họ nói “Ăn đấu trả bồ” khi diễn tả lối sống sòng phẳng,
công bằng. Khi diễn tả sự tranh dành, hay sự ganh đua, trả thù, họ nói “ăn miếng
trả miếng,” hay “chồng ăn chả vợ ăn nem.” Tương tự, ăn uống nói lên tâm tình tri
ân: “ăn qủa nhớ kẻ trồng cây,” hay “uống nước nhớ nguồn.” Ăn uống cũng nói
lên niềm hy vọng:
“Ăn đong cho đáng ăn đong.
Lấy chồng cho đáng hình dong con người
Ăn đua cho đáng ăn đua
Lấy chồng cho đáng việc vua việc làng”
Sau nữa, người Việt đánh giá trị cách sống bằng chính cách ăn, hay dụng cụ để
ăn như bát, đũa, mâm, vân vân. Thế nên, cách ăn, dụng cụ ăn luôn đi đôi với


thân thế, cũng như với tầm quan trọng của bữa ăn. Người Việt xếp loại bữa ăn
theo tầm quan trọng: bữa cơm, bữa cỗ, bữa tiệc, đám. Ăn không tương xứng với
thân phận; dùng dụng cụ ăn không tương xứng với tầm quan trọng của bữa ăn
thường được ví von so sánh với mặt trái của xã hội:
Vợ chồng như đũa có đôi
Bây giờ chống thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho đều
Hay:
Vợ dại không hại bằng đũa vênh
2.3.3. Ăn là nghệ thuật sống
Khi nói ăn là một cách sống, là một lối sống, chúng tôi cũng phải nói thêm, đối
với người Việt, ăn là một nghệ thuật sống. Một lối sống có ý nghĩa là một lối
sống đầy nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ăn uống. Chúng ta không lạ gì nghệ
thuật uống chè của người Nhật, lối ăn cầu kỳ của người Trung Hoa, hay những
bữa tiệc đầy hình thức của giới ngoại giao. Chúng làm cuộc sống của họ thêm
thú vị, hay ít ra, không mấy nhàm chán. Tương tự, nơi người Việt, nghệ thuật ăn
làm cuộc sống của họ mặn mà hơn. Cách tiếp khách thân thiện nhất vẫn là một
bữa ăn thịnh soạn. Lối yêu thương chồng, con cái cụ thể nhất, vẫn là việc người
vợ, người mẹ “mặt mũi nhọ nhem, mồ hôi nhễ nhãi” sửa soạn những món ăn
người chồng và con cái ưa thích.
Vậy nên, ta có thể nói, nghệ thuật sống của người Việt không chỉ nói lên cách
sống thoải mái, khiến giác quan thích thú, mà còn hơn thế nữa, nó biểu tả những
cảm tình sâu đậm nhất. Qua ăn, ta có thể tìm được sự thỏa mãn tình cảm. Qua
ăn, ta có thể biểu lộ tình yêu, tình thương, hay sự quan tâm của ta với người
khác. Và như vậy, nghệ thuật ăn của ta có lẽ hơi khác với nghệ thuật ăn uống
của các dân tộc khác. Người mẹ cảm thấy hạnh phúc khi nhìn chồng con “nhồm
nhoàm” ăn không kịp thở. Người con vui sướng khi thấy bố mẹ thưởng thức món
qùa (bánh) cô (anh) ta làm biếu song thân. Nơi đây, ta thấy người Việt diễn tả
nghệ thuật sống qua chính nghệ thuật ăn uống. Nghệ thuật ăn của họ mục đích
không chỉ nhắm tăng khẩu vị, không chỉ để thỏa mãn dạ dày, mà còn để biểu lộ

tình cảm của họ. Như vậy, nó không hoàn toàn chỉ dừng lại nơi nghệ thuật
thưởng thức mỹ vị của mỗi cá nhân. Ta biết người Tầu rất để ý đến mùi vị, mầu
sắc, cách xếp món ăn. Nghệ thuật nấu nướng rất cầu kỳ, không chỉ làm ta “khoái
khẩu” mà còn “khoái nhãn,” “khoái vị,” và “thỏa mãn óc tưởng tượng.” Đối với
người Nhật, nghệ thuật ăn, uống phản ánh nghệ thuật sống của họ: rất tỉ mỉ, rất
điêu luyện, gần thiên nhiên (biển cả), gần thế giới cỏ cây. Nhưng nói chung, đối
với người Tầu hay người Nhật, nghệ thuật ăn mục đích chính vẫn là làm thỏa
mãn ngũ giác của chính người đương ăn. Nghệ thuật bếp núc của họ chưa hẳn
gắn bó với tình cảm con người, một cách mật thiết và một cách toàn diện, như
trong các món ăn Việt. Chính vì coi tình cảm là bản chất, mà đối với người Việt,
ăn không chỉ nói lên tình trạng thoải mái của con ngưòi:
Ăn được ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ mất tiền thêm no
Mà còn biểu tả sự hưởng lạc:
Ăn lấy đời, chơi lấy thời
Và nhất là biểu lộ tình thương:
Ăn rượu nếp chết vì say
Chẳng say vì tượu mà say vì người
Say vì cái miệng ai cười
Đôi mắt ai liếc chào mời nò nang.

×