Lợi nhuận của FDI "trốn" ra ngoài
Tác giả: THUẬN HẢI (TỔNG HỢP TỪ THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN)
Bài đã được xuất bản.: 11/04/2010 06:00 GMT+7
• Recomend
• +5
Red
• In
• Email
• Thảo luận
TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)
• Nghĩ về những biệt thự bỏ hoang
• Đối thoại Mỹ - Trung: Không lựa chọn cũng là một lựa chọn
• Để giải quyết vấn đề nhập siêu
• Ấn phẩm khoa học và chỉ số kinh tế tri thức
•
•
•
Theo Tổng cục Thống kê, quí 1-2010, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt hơn 8 tỉ đô la Mỹ, tăng 29,3%, nhập khẩu khoảng 7,1 tỉ
đô la Mỹ. Vậy khu vực FDI đang xuất siêu. Phải chăng đây là một thành tích?
Quí 1-2010, kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI không kể dầu thô đạt gần 6,7 tỉ đô la Mỹ; tăng
40%, nhập khẩu tăng 53% so với cùng kỳ năm trước. Nhập tăng nhanh hơn xuất cho thấy,
các doanh nghiệp khu vực này đang hoạt động vẫn lo làm ăn và xuất khẩu lâu dài ở Việt
Nam.
Đi vào bản chất
Về cơ bản, sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại: Thứ nhất là sản phẩm
trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài theo
đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong nước.
Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghiệp FDI thực chất là một công xưởng với nguyên
vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được xuất khẩu để đi qua các
công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán.
Như vậy, về thực chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghiệp này hầu như không hạch
toán lợi nhuận. Phía Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà
ngược lại các doanh nghiệp FDI được hoàn thuế; thuế thu nhập doanh nghiệp cũng coi như
không có vì không có lợi nhuận .
Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghiệp FDI tuy có chút lãi
không đáng kể, nhưng đó là một quy trình gần như khép kín. Về
hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không được phép biết hoặc
tham gia gì vì vốn của chủ doanh nghiệp nước ngoài, như vậy
việc xuất khẩu được bao nhiêu cũng không đóng góp giá trị gia
tăng trong GDP.
Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong
nước, nhưng hầu hết các nguyên vật liệu chính
đều được nhập khẩu từ bên ngoài. Chẳng hạn
như bột ngọt gần như 100% nguyên vật liệu là
nhập khẩu, da cứng chiếm 83%; giày thể thao là
76%; sứ vệ sinh 74%; sơn hóa học 68,3%; bột
giặt 56%...
Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các
doanh nghiệp FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu.
Lỗ mà vẫn bung ra về quy mô; số lượng ?
Thống kê của Cục Thuế TPHCM về kết quả kinh doanh năm 2009 của doanh nghiệp FDI trên
địa bàn cho thấy, gần 60% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ. Năm 2008, tỷ lệ doanh nghiệp
FDI ở TPHCM thua lỗ cũng chiếm tới 61,3% và trước đó, năm 2007, năm hưng thịnh của kinh
tế Việt Nam, vẫn có gần 70% doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này lỗ. Kết quả trên đồng
nghĩa với TPHCM không thu được một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp từ những công ty
này.
Có thể nói, thua lỗ là xu hướng chung của doanh nghiệp FDI, không chỉ ở TPHCM, mà trên cả
nước. Nó được phản ánh qua tỷ lệ đóng góp cho ngân sách quốc gia của khối này, không kể
dầu thô, khá thấp. Trong các năm 2005-2008 chỉ dao động quanh 9-10% tổng thu ngân sách
của quốc gia. Riêng năm 2009, phần đóng góp của doanh nghiệp FDI giảm 11,2% so với kế
hoạch, trong khi khu vực tư nhân trong nước chỉ giảm 4,4%, còn doanh nghiệp nhà nước tăng
6,2%. Có thể thấy, mức đóng góp cho ngân sách của doanh nghiệp FDI đã không tăng tỷ lệ
thuận với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và quy mô về giá trị sản xuất công nghiệp.
Các doanh nghiệp FDI thường “gửi giá” vào vật tư, máy móc nhập khẩu, làm tăng chi phí
trung gian dẫn đến lỗ. Việc này làm ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ trong nước. Các chuyên
gia kinh tế cho rằng, tỷ lệ thua lỗ cao bất thường của doanh nghiệp FDI không hẳn tại khó
(Ảnh minh họa nguồn: thehindu.com)
khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà còn do nhiều công ty thực hiện chính sách
chuyển giá (transfer pricing) ra nước ngoài, nhằm trốn thuế ở Việt Nam.
Năm 2007, trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh
xác nhận có hiện tượng chuyển giá, nhưng ông cũng thừa nhận là “Chính phủ đã cố gắng
kiểm soát nhưng không kiểm soát được. Vì người ta chuyển giá từ bên ngoài, qua thiết bị,
máy móc, giá nguyên liệu... và hợp thức từ công ty mẹ chuyển sang”.
Trên thực tế, vấn đề này đã được nhiều doanh nghiệp trong nước nghi ngờ từ cách nay hơn
15 năm, khi họ nhận thấy những dự án của nước ngoài có chi phí đầu tư ban đầu cao bất
thường. Chẳng hạn như, cùng với số vốn đầu tư ban đầu như nhau, nhưng Công ty Pomina
xây dựng được một nhà máy thép thiết bị, công nghệ của Ý, công suất lớn gấp đôi hai công ty
FDI khác ở Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Cũng vậy, suất đầu tư của nhà máy dầu thực
vật Bình An chưa tới một nửa những công ty liên doanh khác và có thể kể ra hàng loạt ví dụ
khác trong các ngành bao bì, nhựa, sản xuất điện...
Về hiệu quả đầu tư và chất lượng tăng trưởng
Về hiệu quả đầu tư và chất lượng tăng trưởng: Một nghiên cứu của GS. Nguyễn Quang Thái
và Bùi Trinh cho thấy trong 10 năm (1999-2009), ICOR của khu vực nhà nước, tư nhân và
FDI lần lượt là: 7,76; 3,54; và 7,91. Nhìn ra thế giới, ICOR trung bình của nhóm tăng trưởng
cao chỉ có 3,6. Khối FDI có chỉ số ICOR cao nhất và điều đó chứng tỏ hiệu quả của họ là thấp
nhất.Còn về khía cạnh chuyển giao công nghệ, giai đoạn 2004-2009, hệ số TFP của các khu
vực kinh tế nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp FDI lần lượt là: 8,6; 3,1 và -17,6.
Ảnh nguồn: lhsvn.com.vn
Theo nghiên cứu trên, hệ số TFP của khối nhà nước cao nhất cho thấy mặc dù vốn đầu tư khu vực này chưa hiệu quả
tương xứng nhưng sự chuyển giao công nghệ là có thật. Trong khi ở khối FDI thì chỉ số này lại âm (-17,6). Nghiên cứu
cho rằng: “Như thế nghĩa là ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, sự tăng trưởng chủ yếu nhờ vào các yếu tố khác, ví dụ
lao động rẻ, chứ không phải do công nghệ. Trên thực tế, khảo sát ở nhiều doanh nghiệp FDI cho thấy máy móc, công
nghệ được đối tác nhập vào Việt Nam đều cũ kỹ hoặc đã khấu hao hết”.
Có thể đã có không ít các doanh nghiệp FDI đã tận dụng yếu tố lao động rẻ trong các ngành
công nghiệp gia công với công nghệ không cao, thậm chí với máy móc không phải thật hiện
đại, để làm hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp này không chỉ thu lãi trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam, mà còn làm cho các công ty ở chính quốc lãi thêm khi tính cao giá công thiết kế,
bản quyền, hậu cần hay tư vấn...
Cuối cùng, lợi nhuận thực đã “chảy” ra nước ngoài, tức cũng làm cho GDP thực phần nào bị
“che khuất” và hơn thế nữa là làm cho GNI giảm bớt khi các doanh nghiệp FDI kê giá nguyên
liệu phụ tùng nhập khẩu cao hơn – thực chất là một hình thức chuyển giá.
Ngoài ra qua một số khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam cho thấy một số doanh nghiệp FDI
như “một góc trời riêng”, toàn bộ các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ và khâu hạch toán người
Việt nam không được biết và hầu như “không liên quan gì”. Như vậy việc tăng trưởng của các
doanh nghiệp loại này thường không có sự lan tỏa, kích thích gì đến nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam chủ yếu trong những ngành thâm
dụng nhiều lao động. Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam chủ yếu
vẫn là nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài về thực hiện công đoạn gia công. Một số
doanh nghiệp FDI không sử dụng nguồn nguyên liệu và vật tư có sẵn trong nước, họ chủ yếu
tận dụng đất đai và lao động giá rẻ ở Việt Nam trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, số lao động mà các FDI thu nhận cũng không chiếm tỷ phần đáng kể trong thị trường
lao động hiện nay, một thống kê cho thấy đây là thành phần kinh tế tạo việc làm thấp nhất sau
khu vực Tư nhân và Nhà nước.
Cần có cơ quan kiểm soát tốt hơn
Thông tư về chống chuyển giá được ban hành tháng 12/2005 và có hiệu lực từ 26/1/2006
nhằm kiểm soát việc chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Bộ Tài chính cũng đã có những
quy định hướng dẫn chống chuyển giá. Theo nhận xét của đại diện Công ty Kiểm toán KPMG,
hướng dẫn này cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thể ngăn
chặn thủ thuật chuyển giá này. Ngoài việc chưa có biện pháp xử phạt đủ sức răn đe, trình độ
chuyên môn của cán bộ kiểm tra chuyên ngành và thiếu cơ sở dữ liệu để hỗ trợ đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động chống thủ thuật chuyển giá.
Căn nguyên của việc chuyển giá, theo TS. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính
sách tài chính tiền tệ quốc gia, là do nhiều năm qua Việt Nam đã thu hút đầu tư theo kiểu gia
công, tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm trong nước thấp. Việt Nam đang trong quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế.
Vì vậy, đây là thời điểm thích hợp để nhìn nhận lại chiến lược thu hút đầu tư trong thời gian
qua. Nhà nước cần sớm đưa ra chiến lược tái cấu trúc lại luồng đầu tư hợp lý hơn trong bối
cảnh này, dựa trên cơ sở thu hút và chọn lọc những ngành mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn.
(Ảnh nguồn: tintuc.xalo.vn)
Để kiểm soát vấn đề “lỗ giả lãi thật” của các doanh nghiệp FDI, các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, kiểm
soát nhiều hơn. Theo bà Phạm Chi Lan, Việt Nam cần gấp rút xây dựng một hệ thống theo dõi giá cả thị trường thế giới,
ngành thuế cần kiểm tra những báo cáo tài chính, kiểm toán chặt chẽ hơn.
Những số liệu của các báo cáo cần được so sánh đối chiếu, căn cứ trên giá thực tế ở những
thị trường nhập khẩu, những quốc gia có đặt trụ sở của công ty mẹ. Xác minh những số liệu
này là không quá khó để các cơ quan kiểm tra có cơ sở bác bỏ những thông tin và báo cáo
sai sự thật của các doanh nghiệp FDI.
Tuy nhiên, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn “bó tay” trước tình hình báo cáo lỗ của các
doanh nghiệp FDI. Kiểm soát việc chuyển giá theo thông tư của Chính phủ nhằm kiểm soát
giá nhập và chi phí sản xuất đã không được thực hiện tốt. Các cơ quan nhà nước đưa ra các
văn bản, quy định, nhưng các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành lại làm không tới nơi tới
chốn...