Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

ĐỊA-PHƯƠNG-HỌC-word-chỉnh-sửa (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.11 KB, 39 trang )

ĐỀ TÀI: GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA LÀNG CHIẾU CẨM NÊ (ĐÀ NẴNG) TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một đất nước nhiệt đới khí hậu ôn hòa, con người chất phác,
thiên nhiên ưu đãi với nhiều loài động thực vật quý đa dạng về chủng loại, phong
phú về số lượng. Nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cư dân Việt
Nam có nhiều thời gian rảnh rỗi ngoài thời vụ chính. Vốn cần cù chịu thương chịu
khó và có đôi bàn tay tài hoa, ngay từ xa xưa người việt cổ đã biết tận dụng những
nguyên liệu sẵn có ấy để tạo ra nhiều sản phẩm thủ công có giá trị sử dụng cao,
mang đậm tính nghệ thuật phục vục cho đời sống hàng ngày.
Trong khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về sản phẩm
thủ công ngày càng cao, yêu cầu các sản phẩm đó giá cả phù hợp, bền, đẹp lại
không gây tác dụng phụ cho con người, thân thiện với môi trường. Vì vậy đã có rất
nhiều người chuyển sang làm nghề thủ công, họ truyền nghề cho nhau dần dần
hình thành các làng nghề. Làng nghề chính là một nét đặc trưng của nông thôn Việt
Nam. Khắp mọi miền trên tổ quốc đâu đâu cũng có làng nghề thủ công, mỗi làng
nghề lại sản xuất một sản phẩm thủ công truyền thống khác nhau, mang tính đơn
nhất. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là vật phẩm văn hóa hay vật
phẩm kinh tế thuần túy cho sinh hoạt bình thường hàng ngày mà nó chính là
những tác phẩm văn hóa nghệ thuật tiêu biểu cho nền văn hóa xã hội, cho mức phát
triển kinh tế, cho trình độ dân trí và đặc điểm nhân văn của dân tộc.
Điều đặc biệt nữa là các làng nghề không chỉ đơn thuần sản xuất ra những
sản phẩm hàng hóa nhưu một công trường sản xuất mà nó còn là một môi trường


văn hóa kinh tế xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tin
hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác được thể hiện qua bàn
tay, khối ốc của các nghệ nhân tài năng với những sản phẩm mang bản sắc riêng


của mình nhưng lại tiêu biểu cho cả dân tộc Việt Nam. Ta có thể kể ra đây những
làng nghề nổi tiếng như: Làng Mộc Kim Bồng (Quảng Nam); làng gốm Thanh Hà
(Quảng Nam); làng lụa Duy Trinh (Quảng Nam); làng đá mỹ nghệ Non Nước (Đà
Nẵng), …
Du khách đến với Đà Nẵng không chỉ biết đến các địa danh du lịch nổi tiếng
như: Khu du lịch Bà Nà, bảo tàng nghệ thuật Chămpa, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành
Sơn, chùa Linh Ứng, …mà còn biết đến một số làng nghề thủ công truyền thống
nổi tiếng như: làng nghề bánh khô mè Cẩm Lệ, làng nghề bánh tráng Túy Loan,
làng nghề nước mắm Nam Ô, … Đà Nẵng là thành phố không có nhiều làng nghề
như các tỉnh ở phía Bắc… Nhưng làng nghề ở đây mang một phong thái riêng, đặc
trưng riêng in đậm bản sắc văn hóa của người dân nơi đây.
Khi nói đến làng nghề truyền thống ở Đà Nẵng không thể không nói đến một
làng nghề nổi tiếng có lịch sử khá lâu đời trong quá khứ cũng như ở hiện tại: Làng
chiếu Cẩm Nê.
Cùng với quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, máy móc trang thiết
bị hiện đại dần thay thế cho lao động thủ công đã ảnh hưởng ít nhiều đến các làng
nghề truyền thống nói chung và Làng chiếu Cẩm Nê nói riêng. Hiện nay, với sự
cạnh tranh về mẫu mã, số lượng và chất lượng của các loại chiếu khác, chiếu cẩm
Nê dần mất đi chổ đứng trên thị trường. Do vậy, làng chiếu Cẩm Nê đứng trước
nguy cơ bị mai một về các giá trị văn hóa truyền thống.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi đã lựa chọn và xây dựng đề tài: “Gìn
giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng chiếu Cẩm Nê (Đà


nẵng) trong giai đoạn hiện nay ” nhằm tìm hiểu về làng chiếu Cẩm Nê, phản ánh
thực trạng sản xuất hàng thủ công cũng như sự suy giảm giá trị văn hóa của làng
nghề, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy làng nghề truyền thống.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ lâu, làng nghề truyền thống không những là nơi chứa đựng những nét tinh hoa
văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa, các phong tục tập quán lễ hội thấm đượm màu
văn hóa thuần Việt, với không gian văn hóa nông nghiệp, cây đa, giếng nước, sân
đình, những câu hát dân gian, cánh cò trắng, lũy tre xanh … mà còn là nơi sản xuất
ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo thể hiện sự tinh tế, tài hoa và khối
óc của những nghệ nhân.
Làng nghề truyền thống được nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu như “Cơ
sở văn hóa Việt Nam” Trần Quốc Vượng; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần
Ngọc Thêm. Đây là những công trình cần thiết cung cấp những kiến thức về văn
hóa, làng nghề truyền thống trên cả nước.
Các làng nghề truyền thống còn được đề cập nhiều trong các tập sách “Làng nghề
truyền thống Việt Nam” Phạm Côn Sơn, tác phẩm này đã đưa ra khái niệm và đặc
điểm của làng nghề truyền thống, những giá trị văn hóa, phong tục tập quán … qua
đó có cái nhìn tổng quát về làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Giai đoạn sau năm 2000 có các công trình:
“Giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống ở Việt Nam phục vụ du lịch”,
Phạm Xuân Hậu, Trịnh Văn Anh, số 35/2012, tạp chí khoa học Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, với nội dung nghiên cứu về các làng nghề truyền thống ở
Việt Nam, động lực và tiềm năng phát triển của làng nghề để từ đó phát triển làng
nghề phục vụ du lịch.


“Giải pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề ở Đà Nẵng và các vùng lân cận”, Lê
Uyên Thảo, Nguyễn Diệu Hằng, Nguyễn Quốc Việt, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị
Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 8 Đại học Đà Nẵng năm 2012, trường Đại
học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng. Bài báo cáo này đã nêu ra tiềm năng phát triển
du lịch của một số làng nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như: Làng đá non
nước (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), làng chài Thọ Quang (quận Sơn
Trà), Làng nước mắm Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu) … từ đó
đưa ra một số giải pháp để thu hút khách du lịch và phát triển các làng nghề truyền

thống.
“Những làng nghề truyền thống danh tiếng ở Đà Nẵng” Tâm Anh (2017), báo Dân
Trí nội dung giới thiệu khái quát với cái nhìn tổng quan về các làng nghề truyền
thống của Đà Nẵng, gìn gữ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của làng
nghề.
Tuy các bài viết, công trình trên không trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống
về làng nghề truyền thống chiếu Cẩm Nê, nhưng với những khái quát, ý tưởng đề
cập đến làng nghề ở nhiều góc độ, tham chiếu khác nhau…, cũng là những nguồn
tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài nghiên cứu này.
3.
3.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiện cứu của đề tài là:
- Làng chiếu Cẩm Nê
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá giá trị văn hóa truyền thống của làng chiếu Cẩm
Nê trong giai đoạn hiện nay để tìm hiểu thực trạng phát triển và đưa ra các giải

3.2.

pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển làng chiếu Cẩm Nê.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến gìn giữ
và phát huy làng chiếu Cẩm Nê.


- Thời gian nghiên cứu: trong giai đoạn hiện nay.
- Không gian nghiên cứu: làng chiếu Cẩm Nê, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng.

4.
4.1.1.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của làng
chiếu Cẩm Nê từ xưa đến nay, để có thể thấy được giá trị văn hóa của dân tộc
nhằm phục dựng lại giá trị văn hóa truyền thống của làng chiếu Cẩm Nê trong giai
đoạn hiện nay. Từ việc nghiên cứu sẽ giúp ta thấy được giá trị tầm quan trọng của
làng chiếu Cẩm Nê đối với đời sống văn hóa của người dân nơi đây và sự phát
triển văn hóa của đất nước. Tìm hiệu thực trạng phát triển của làng chiếu Cẩm Nê
từ đó đưa ra một số đề xuất và giải pháp để khôi phục, bảo tồn và phát huy làng
nghề truyền thống Cẩm Nê, tiếp tục duy trì và phát huy nét đẹp làng nghề truyền
thống của quê hương, đất nước.

4.1.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Quá trình hình thành và phát triển của làng chiếu Cẩm Nê.
- Làm sáng tỏ thực trạng của làng chiếu Cẩm Nê hiện nay.
- Đề ra các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng chiếu
Cẩm Nê trong giai đoạn hiện nay

5. Nguồn tài liệu và phương
5.1.1. Nguồn tài liệu

pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những nguồn tài liệu chủ yếu sau:



- Thành quả các công trình nghiên cứu của các bậc tiền bối, học giả đi trước về
làng nghề truyền thống của đất nước như Nghiên cứu phát triển làng nghề tỉnh
Quảng Ngãi của Hồ Kỳ Minh, Nghiên cứu phát triển du lịch làng nghề truyền
thống tại thành phố Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp của Lê Thị Thanh Yến, Làng nghề
truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở Ninh Bình của Sinh
viên Trần Thị Kim Cúc (Đại học Du Lịch)...
- Các bài báo trên phương tiện truyền thông, các trang báo mạng như: Báo Dân Trí
Làng chiếu Cẩm Nê đang dần mai một của Bích Liên, Báo Đà Nẵng Mai một làng
chiếu Cẩm Nê của Trọng Huy...
- Tư liệu điền dã thực tế tại làng chiếu Cẩm Nê và những vùng lân cận.
5.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp luận:
Cơ sở phương pháp luận của đề tài nghiên cứu khoa học là lí luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và lịch sử.
Phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp thu thập thông tin tài liệu: đây là phương pháp quan trọng và xuyên
suốt trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Những thông tin, các nguồn tài liệu, văn
liệu cho phép chúng ta hiểu biết những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực này. Trên
cơ sở những tài liệu phong phú đó, việc tổng hợp sẽ giúp chúng ta có nguồn tài liệu
toàn diện, khái quát về vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt hiện nay công nghệ thông tin
phát triển mạnh, việc khai thác các nguồn tài liệu qua mạng internet sẽ là nguồn tài
liệu quý hỗ trợ cho việc tổng hợp vấn đề nghiên cứu.


+ Phương pháp nghiên cứu thực địa: trong quá trình nghiên cứu thực địa, chúng tôi
đã tiến hành khảo sát các hộ dân ở làng chiếu Cẩm Nê, trên cơ sở đó đưa ra những

phân tích, đánh giá cụ thể.
+ Phương pháp phân tích thống kê: Nghiên cứu thực trạng làng chiếu Cẩm Nê ở
thành phố Đà Nẵng qua các số liệu ở nhiều lĩnh vực: doanh thu, số hộ làm chiếu,..
các số liệu đều mang tính định lượng. Nghiên cứu, phân tích các số liệu này để có
những nhận định, đánh giá khoa học phù hợp với thực tế.
6.

Đóng góp của công trình
Lịch sử phát triển nền văn hóa cũng như lịch sử phát triển kinh tế của nước
ta luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam. Bởi những
sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm sinh hoạt bình thường
hàng ngày, mà nó chính là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng của nền văn hóa
dân tộc, thể hiện mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn của
dân tộc. Đồng thời, các làng nghề truyền thống không chỉ đơn thuần sản xuất ra
những sản phẩm hàng hóa bình thường. Làng nghề là cả một môi trường văn hóa kinh tế - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh hoa
nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, với những sản phẩm có bản
sắc riêng của mình, nhưng lại tiêu biểu và độc đáo của cả dân tộc Việt Nam. Đề tài
đi sâu vào nghiên cứu hiên trạng của làng chiếu Cẩm Nê, một làng nghề truyền
thống của đất nước đang đi xuống trong giai đoạn hiện nay để hiểu rõ hơn vai trò,
vị trí của làng chiếu Cẩm Nê đối với đời sống của con người nơi đây. Thông qua
việc nghiên cứu chúng ta sẽ giúp người dân có cái nhìn khác làng chiếu truyền
thống Cẩm Nê chính từ vị trí của làng nghề, nguồn gốc, sự phát triển, sản phẩm
của làng chiếu Cẩm Nê, những giá trị mà làng chiếu Cẩm Nê mang lại từ đó cùng
nhau góp phần vào khôi phục, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa của làng
chiếu truyền thống Cẩm Nê cho các thế hệ sau.Ngoài ra, việc nghiên cứu giúp


chúng tôi hệ thống hóa các kiến thức mà chúng tôi đã tìm hiểu nghiên cứu, bổ
sung thêm vốn hiểu biết của mình và từ những thực trạng phát triển có thể đưa ra
nhận định, đánh giá của mình.

Đề tài còn cung cấp một hệ thống tư liệu hoàn chỉnh về giá trị văn hóa
truyền thống của làng chiếu Cẩm Nê giai đoạn hiện nay, nhằm góp phần nghiên
cứu một cách toàn diện hơn về làng nghề truyền thống ở nước ta. Mặt khác khi đề
tài hoàn thiện sẽ là một tài liệu tham khảo trong học tập và nghiên cứu cho những
ai quan tâm đến làng nghề truyền thống của đất nước.
7.

Bố cục của công trình
Chương 1: Khái quát về làng nghề truyền thống chiếu Cẩm Nê.
Chương 2: Thực trạng và tác động của sự suy giảm làng nghề truyền thống
chiếu Cẩm Nê.
Chương 3: Giải pháp gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
làng chiếu Cẩm Nê


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
CHIẾU CẨM NÊ
1.1.
1.1.1.

Khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề
Từ xa xưa do đặc thù sản xuất nền kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải có nhiều

lao động tham gia đã khiến cư dân Việt cố sông quần tụ lại với nhau thành từng
cụm cư dân đông đúc, dần hình thành nên làng xã. Trong từng làng xã đã có cư dân
sản xuất các mặt hàng thủ công, lâu dần lan truyền ra các làng xã tạo nên những
làng nghề và truyền nghề từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đề tài làng nghề truyền
thống là đề tải rất thú vị, đã có rất nhiều nhà văn hóa nghiên cứu về vấn đề này.
Theo tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”

thì làng nghề được định nghĩa như sau: “làng nghề là một đơn vị hành chính cổ
xưa mà cũng có ý nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức kỉ cương
tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề
mà cũng hàm ý là những người sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ
sở vững chắc của các làng nghề là vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa
giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương”.
Xét theo góc độ kinh tế trong cuốn “Bảo tồn và phát triển các làng nghề
truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa” tiến sĩ Dương Bá
Phượng cho rằng “làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ
công tách hẳn ra khỏi thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập”, thu nhập từ các
làng nghề đó chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị toàn làng.
Làng nghề theo cách phân loại theo thời gian gồm có làng nghề truyền thống
và làng nghề mới.


1.1.2.

Khái niệm làng nghề truyền thống
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về làng nghề truyền thống

nhưng ta có thể hiểu làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công
truyền thống.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì làng nghề là: “ làng nghề là làng ấy tuy
có trồng trọt theo hướng thủ công và chăn nuôi ( gà, lợn , trâu,..) làm một số nghề
phụ khác ( thêu , đan lát,...) song đã nỗi trội một số nghề cổ truyền tinh xảo, với
một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có ông trù, ông
phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất
định “ Sinh ư nghệ, tứ ư nghệ ”, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, sống chủ yếu bằng
nghề đó và và sản xuất ra hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ,
đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với thị trường là vùng rộng

xung quanh với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng ra các nước rồi rồi
xuất khẩu ra nước ngoài”
Làng nghề ở đây không nhất thiết là tất cả mọi người dân trong làng đều sản
xuất thủ công, người thợ thủ công cũng có thể là người nông dân làm thêm nghề
phụ trong lúc nhàn rỗi. Tuy nhiên do yêu cầu về mặt chuyên môn hóa cao đã tạo ra
người thợ thủ công chuyên nghiệp chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống
ngay tại làng của mình. Nghiên cứu một làng thủ công truyền thống là phải nghiên
cứu nhiều mặt tính hệ thống toàn diện của làng nghề thủ công truyền thống đó.
Trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân của làng, sản phẩm thủ công thủ pháp kỉ
thuật sản xuất và nghệ thuật.
Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi
quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính lâu đời
được truyền đi truyền lại qua các thế hệ, có sự liên kết trong sản xuất bán sản phẩm


theo kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là bán lẻ, họ có
tổ nghề. Các thành viên luôn có ý thức tuân theo những hương ước , chế độ gia tộc.
Làng nghề công truyền thống thường có đại đa số hoặc một bộ phận lớn dân
cư làm nghề cổ truyền. Theo hình thức cha truyền con nối các sản phẩm họ làm ra
thường độc đáo, ấn tượng, tinh xảo.
Ngày nay trong quá trình phát triển của kinh tế xã hội làng nghề đã thật sự
thành đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp, có vai trò rất lớn tác động tích cực đến
đời sống xã hội.
1.2.
1.2.1.

Lịch sử hình thành và đặc điểm của chiếu Cẩm Nê
Lịch sử hình thành
Đà Nẵng từ lâu đã nổi tiếng xa gần với những làng nghề truyền thống vang


danh cả nước. Ai chẳng nghe qua bánh tráng Túy Loan giòn tan đậm vị, làng đá mỹ
nghệ Non Nước tinh xảo kì công hay chén nước mắm Nam Ô thơm ngon đậm đà…
Mỗi làng nghề đều có những bí quyết riêng, được lưu giữ và truyền lửa từ hàng thế
kỉ. Làng nghề truyền thống chiếu Cẩm Nê với lịch sử lâu đời, kết tinh những nét
văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Theo tư liệu và các nhà nghiên cứu văn hóa, nghề chiếu Cẩm Nê có nguồn
gốc từ vùng Hoằng Hóa (Thanh Hóa ngày nay) và được lưu truyền vào miền Nam
trong khoảng từ thế kỷ XV. Khi đó, vua Lê Thánh Tông đã đánh thắng quân Chiêm
Thành, sáp nhập thành Đồ Bàn vào Quảng Nam - Đà Nẵng. Ban đầu, trong làng
chỉ có khoảng bảy đến mười hộ gia đình biết dệt chiếu, sau khi được nhiều lái buôn
biết đến mua hàng chở đi bán ở các tỉnh thành thì nghề chiếu bắt đầu phát triển ra
cả làng và hầu như trai gái mới lớn lên đều biết cách dệt chiếu rồi dần dần trở
thành một làng nghề dệt chiếu nổi tiếng ở đất Đà Thành. Qua thời gian, làng đã trải
qua gần 6 thế kỷ, đối mặt với nhiều giai đoạn oanh liệt của lịch sử dân tộc rồi vấn


đề cạnh tranh thị trường gay gắt, sự sụt giảm của nhu cầu chiếu nhưng nghề chiếu
Cẩm Nê vẫn còn tồn tại, phát triển và được biết tiếng.
Theo thông tin từ những người dân trong làng kể lại, làng Cẩm Nê hình thành từ
năm 1471. Trong văn bia làng Cẩm Nê ghi rõ: “…Ngoài việc lấy nghề trồng trọt
làm trọng, tổ tiên ta còn truyền lại con cháu nghề dệt chiếu tài hoa mà sản phẩm
chiếu Cẩm Nê từng được sắc phong và làm rực rỡ hoàng cung Triều Nguyễn vẫn
mãi mãi còn đóng góp xứng đáng cho sự phát triển của quê hương ở hiện tại và
tương lai”. Ngày xưa, nghề nghiệp mưu sinh chính của cả làng là dệt chiếu rồi bán
cho các lái buôn.
1.2.2.

Đặc điểm chiếu Cẩm Nê
Vốn dĩ các làng nghề thường gắn liền với vùng nguyên liệu tại chỗ phục vụ


sản xuất, thế nhưng ở Cẩm Nê không có chỗ nào trồng cây đay và lác (cói) –
nguyên liệu phục vụ cho nghề dệt chiếu. Vì vậy hầu hết nguyên liệu đều được nhập
từ Duy Xuyên, Quảng Nam về với giá thành khá cao.
Từ lâu, chiếu Cẩm Nê nức tiếng gần xa bởi chất lượng tốt, nằm êm lưng, sợi
đan chặt và rất bền. Khách hàng ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Ngãi đều
biết tới chiếu Cẩm Nê.
Chiếu Cẩm Nê rất đa dạng về kích cỡ, trang trí, có cả loại chiếu trơn và
chiếu hoa. Chiếu trơn là loại chiếu để nguyên sợi màu trắng, không nhuộm màu, sử
dụng loại lác phơi khô vừa phải, khi khô còn ửng màu xanh để dệt. Loại chiếu trơn
lác dài không chắp, sợi nhỏ thường đắt tiền hơn loại dệt lác chắp, dệt hai sợi lác
ngắn tiếp nối nhau. Sau khi dệt xong, chiếu được đem đi phơi nắng để mặt chiếu
sáng bóng và tiện cho việc cắt bỏ những phần đầu thừa trên mặt lá chiếu.
Ở những vùng khác, sau khi dệt chiếu trắng xong người ta mới dùng khuôn
in hoa lên trên nền là tạo thành chiếu hoa. Tuy nhiên, chiếu hoa ở Cẩm Nê lại


không như vậy. Những người thợ kỳ công chọn sợi lác về, nấu phẩm lên và nhúng
sợi lác theo màu sắc tùy ý rồi đem phơi khô. Sau khi sợi khô mới dược dùng để dệt
nên chiếu hoa.
Làng chiếu Cẩm Nê (Đà Nẵng) nổi tiếng làm ra những sản phẩm kỳ công,
bền đẹp. Theo các bậc cao niên trong làng, chiếu hoa Cẩm Nê từng được hiện diện
ở nội triều các vua nhà Nguyễn, nhiều nghệ nhân trong làng từng được ban sắc
phong khen thưởng và được nhiều thương gia, quan lại ưa thích bởi sự độc đáo về
mẫu mã, màu sắc hoa văn, nằm mát vào mùa hè và ấm vào mùa đông. Cứ trung
bình một ngày cả làng dệt được năm chục đến sáu chục đôi chiếu. Tuy nhiên, cho
đến ngày nay chỉ còn vài hộ gia đình.

Hình : Chiếu Cẩm Nê – một loại chiếu bền và đẹp
1.3. Điều kiện tự nhiên
1.3.1. Vị trí địa lý

Làng Cẩm Nê nằm giữa một vùng đồng bằng do phù sa dòng sông Cẩm Lệ
bồi tạo nên. Làng chiếu Cẩm Nê cách trung tâm thành Phố Đà Nẵng 14km về phía


Tây Nam, làng chiếu Cẩm Nê thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng.
1.3.2. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ cao và ít biến động.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,6ºC, cao nhất là tháng 6 (29,2ºC), thấp
nhất là tháng 2 (21,2ºC). Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500m có nhiệt
độ trung bình từ 17ºC đến 20ºC. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm là 83,4%.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.355mm, cao nhất là tháng 10 với 266mm,
thấp nhất là tháng 2 với 7mm. Có sự đan xen giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam,
với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ
tháng 1 đến tháng 7 và mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12, thỉnh thoảng có
những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.
1.3.3. Địa hình
Địa hình huyện Hoà Vang có độ nghiêng từ tây sang đông, các dòng sông theo
đó đổ về sông Cẩm Lệ, sông Cu Đê rồi ra sông Hàn và vũng Thùng. Hoà Vang có 3
con sông lớn: sông Thuỷ Tú bắt nguồn từ Cu Đê, chạy ngang qua làng Trường
Định, sông dài 40 km; sông Cẩm Lệ bắt nguồn từ nguồn Lỗ Đông, chạy qua Tuý
Loan, nhập vào nhành sông Yên đổ vào thôn An Trạch, Thạch Bồ, sông dài 12 km;
sông Đào đoạn nối liền sông Thu Bồn với sông Cẩm Lệ, dài 12 km . Toàn huyện
Hoà Vang ngày trước có 13 ngọn núi lớn nhỏ . Phía bắc có núi Hải Vân, Cu Đê,
Xuân Dương; phía tây bắc có núi Phò Nam, núi Giáo Lao; phía tây có núi Tượng
Võng, Phú Túc, núi Đồng Xanh, núi Trung Man; phía đông có núi Ngũ Hành Sơn,
núi Sơn Chà (trước 1888); hai ngọn núi cao nhất nhì huyện là Bà Nà núi Chúa cao
1.478 mét và núi Trung Man (núi Man) cao 1.408 mét. Huyện có 25 km bờ biển
thuận lợi cho đánh bắt hải sản biển.



1.3.4. Thổ nhưỡng
Huyện Hòa Vang là huyện nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng, diện tích đất tự
nhiên là 73.488 ha (chiếm 74,8% diện tích của thành phố Đà Nẵng), Trong đó Đất
nông nghiệp 65.316 ha, đất phi nông nghiệp 7.271 ha và đất chưa sử dụng 901,7
ha. Toàn huyện có 11 xã với 119 thôn, trong đó có 3 xã đồng bằng, 4 xã trung du, 4
xã miền núi . Một số loại hình đất chủ yếu :đất phù sa , đất ba dan, đất feralit.
1.4. Điều kiện kinh tế - xã hội
Có rất nhiều những nhân tố ảnh hưởng tới làng nghề bao gồm nhóm nhân tố
về xã hội, nhóm nhân tố kinh tế. Làng nghề chịu tác động tổng hòa của các nhóm
nhân tố này.
1.4.1. Nhóm nhân tố kinh tế
Những nhân tố chính trong nhóm nhân tố này bao gồm:
Cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải
Một điều hiển nhiên là cơ sở hạ tầng yếu kém thì quy mô làng nghề chậm
mở rộng. Giao thông thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hóa dễ dàng,
nhanh chóng. Nguồn nguyên liệu chiếu không có sẵn, phải thu gom từ nhiều vùng
lân cận. Do vùng trồng cói bị thu hẹp nên muốn mua nguyên liệu bà con phải vào
tận Duy Xuyên (Quảng Nam) và các tỉnh phía Nam, phí vận chuyển rất cao.
Đường vào làng chiếu Cẩm Nê đã được xây dựng thành đường bê tông thuận lợi
cho cư dân trong vùng di chuyển, trao đổi buôn bán cũng như các du khách trong
và ngoài nước đến tham quan. Tuy nhiên, do bây giờ sản phẩm làm ra quá ít, việc
thu mua chiếu không còn được duy trì.
Vốn cho sản xuất


Vốn một yếu tố đóng vai trò quan trọng, tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất, kinh doanh của các cơ sở trong làng nghề. Những năm trước đây, nguồn vốn
người dân ở làng chiếu Cẩm Nê chủ yếu cho làng nghề là tự có và vay mượn của
nhau với số lượng nhỏ không đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển sản xuất kinh

doanh. Những năm gần đây cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho
sản xuất ngày càng cấp bách hơn, lượng lớn hơn trong khi vốn tự có nhỏ, vay
mượn của anh em bạn bè cũng trở nên khó khăn hơn và không mang tính thể chế.
Do vậy nhà nước đã có những chính sách vốn phù hợp cho nông thôn. Nhiều hình
thức tín dụng đã hình thành nhằm cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh.
Yếu tố nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu luôn gắn liền với sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Chất
lượng của nguyên liệu có tốt thí sản phẩm mới có chất lượng cao. Nguyên liệu
chính để làm chiếu là từ cây cói (lác) và cây đay. Những loại cây này chủ yếu được
mua ở Hội An, Duy Xuyên (Quảng Nam). Sợi cói sau khi mua về phải vót nhỏ, giũ
cói cho sạch những cây nhỏ và mào bám, mang phơi khô nhiều nắng cho sợi cói
(lác) vàng ươm thì mới giữ không bị mốc. Sợi cói sau khi phơi khô được nhuộm
thành nhiều màu, sau đó cột thành từng bó màu riêng (vàng, đỏ, xanh, tím..). Sợi
cói được cột dút thẳng rồi đem ra phơi lần nữa cho khô. Đay mua về cũng vót
thành từng sợi nhỏ, sau đó chắp lại sao cho chắc không bị bung ra thì khi dệt chiếu
mới chắc, dày khít. Tuy vậy giá cả của nguyên vật liệu phải hợp lý bảo đảm cho
sản phẩm và kinh doanh có lãi thì mới được chấp nhận. Hơn nữa, lúc cả làng còn
làm chiếu, sản phẩm làm ra được thu mua rồi đem đi tiêu thụ ở nhiều nơi. Còn bây
giờ, do sản phẩm làm ra quá ít, việc thu mua chiếu không còn được duy trì. Điều
này khiến cho khả năng cạnh tranh với các loại chiếu khác trên thị trường dần bị
giảm sút. Hiện nay ra chợ rất khó tìm mua được chiếu Cẩm Nê vì số lượng làm ra


rất ít, chủ yếu được sản xuất để phục vụ các lễ hội, nếu phục vụ nhu cầu sử dụng
thì khách hàng phải đặt trước.
1.4.2. Nhóm nhân tố xã hội
Nguồn dân cư và lao động
Nghề chiếu không kén công lao động, ai cần cù, chịu khó kiên nhẫn là học
được nghề. Việc phát triển làng nghề truyền thống là hướng chủ yếu để tạo việc
làm cho nông thôn. Nghệ nhân Phan Tấn, người từng được Hiệp hội làng nghề Việt

Nam tặng bằng khen vào năm 2010 cho biết: “Cả làng trước đây có hơn 400 hộ
dệt, làm nghề chiếu. Ăn, ngủ, sinh hoạt cả làng đều rền vang trong tiếng khung dệt
rộn ràng. Sống được, giàu lên, con cái đủ ăn, học hành nên nổi cũng bởi có nghề
dệt chiếu”. Nhưng nghề truyền thống dệt chiếu Cẩm Nê đang có nguy cơ bị xóa sổ
do không có người kế cận. Từ chỗ có gần 500 hộ gia đình chuyên dệt chiếu, nay
chỉ còn lại vài ba hộ.
Chính sách của nhà nước
Chính sách nhà nước ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại phát triển của làng nghề.
Trong một thời gian dài trước đây (mà chúng ta thường gọi trước đổi mới), chúng
ta phủ nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy hoạt động sản
xuất kinh doanh trong làng nghề đều là hợp tác, tập thể với chế độ ăn chia quân
bình cho các lao động khỏe, yếu già trẻ, làm nhiều, ít, tích cực hay không tích cực
đều ngang nhau. Trên thực tế chính sách này không kích thích được sự phát triển
kinh tế nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng. Nhận thấy những hạn chế trong
đường lối chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc
đổi mới mà quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong sự đổi mới
này Đảng và Nhà nước đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế (như
kinh tế hộ, kinh tế tư nhân….). Chính sách kinh tế mới đã phù hợp với mong muốn


của nhân dân và thời kỳ mới nên đã thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Các
làng nghề có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển. Cũng như nhiều làng
nghề tuyền thông khác trong cả nước, trước sự mai một của làng chiếu Cẩm Nê
chính quyền địa phương đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ người dân về ngồn
vốn, tìm đầu ra cho sản phẩm,.. Và cũng từng có ý tưởng về kế hoạch phát triển du
lịch tại làng chiếu Cẩm Nê, các ngành chức năng cùng chính quyền huyện Hòa
Vang sẽ trực tiếp làm cầu nối giữa doanh nghiệp du lịch với làng nghề, không để
xảy ra tình trạng manh mún, mai một nhằm đảm bảo quyền lợi của những người
dân thực sự tâm huyết với nghề làm chiếu ở Cẩm Nê.
Nhân tố truyền thống

Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại, phát triển do sự kế tục của đời con,
đời cháu, nghề được bậc tiền bối truyền lại cho lớp hậu sinh bằng miệng. Tuy
nhiên, đa số những người làm có tay nghề đã già, lớp thanh niên trong làng phần
lớn không còn mặn mà với nghề “cha truyền con nối” nên hầu hết họ đều muốn
thoát ly khỏi quê hương và tìm một nghề khác thức thời hơn.
Phong tục tập quán
Nhiều vùng, nhiều địa phương có phong tục tập quán riêng của mình. Trong
những ngày tết, họ làm ra sản phẩm của chính họ, những sản phẩm này được nhiều
người biết đến và tiêu dùng Những người có khả năng kinh doanh đã sản xuất ra để
bán và hình thành ra làng nghề. Từ khoảng tháng 11 trở đi, vào dịp cận tết thì nhu
cầu của người tiêu dùng nâng lên là thời điểm người dân bắt đầu cho vụ chiếu
xuân, cảnh quang lúc này đẹp vô cùng, hàng ngàn thảm chiếu được dệt với đầy đủ
sắc màu phơi trên các thảm cỏ, thảm tranh sẽ rất hấp dẫn ánh nhìn mọi người, do
đó lựa chọn thời điểm đến đây vào lúc này là phù hợp nhất.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA SỰ MAI MỘT
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG CHIẾU CẨM NÊ
2.1. Thực trạng của làng nghề truyền thống chiếu Cẩm Nê


2.1.1. Thực trạng vê tình hình phát triển
Tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, làng chiếu Cẩm Nê
vẫn mang trong mình bao giá trị cổ truyền đặc sắc của dân tộc. Khung cảnh làng
quê yêu bình cùng nghệ thuật làm chiếu điêu luyện khiến nơi đây từng là một nơi
phát triển và thu hút nhiều khách du lịch.
Cẩm Nê đã cung cấp cho khắp nơi trong Nam, ngoài Bắc những tấm chiếu
hoa đủ cỡ với những hoa văn trang trí đẹp. Chiếu hoa Cẩm Nê đã từng hiện diện ở
nội triều các vua nhà Nguyễn, và được nhiều thương gia, quan lại ưa thích bởi sự
độc đáo về mẫu mã, màu sắc hoa văn, những nghệ nhân Cẩm Nê này cũng từng

được các triều đại vua sắc phong, ban thưởng cứ trung bình một ngày cả làng dệt
được năm chục đến sáu chục đôi chiếu.
Theo các nghệ nhân ở đây, muốn dệt được một chiếc chiếu đạt chuẩn phải
công phu lắm. Ai đó nói rằng, thợ dệt đồng thời là một họa sĩ trang trí trên mặt
chiếu, không phải bằng bút lông mà bằng đôi tay điều khiển cái khổ và mũi thoi
của mình. Không chỉ dệt đơn thuần mà còn cả một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
để kết hợp như thế nào giữa hoa văn và màu sắc, tạo ra một chiếc chiếu bền, đẹp,
mang đậm nét Việt. Có lẽ chính vì sự kỳ công của người thợ làm chiếu mà không
chỉ người dân trong vùng mà những du khách từ nơi xa đến cũng muốn có cho
mình một tấm chiếu hoa Cẩm Nê.
Từ lâu, chiếu Cẩm Nê nức tiếng gần xa bởi chất lượng tốt, nằm êm lưng, sợi
đan chặt và rất bền. Khách hàng ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Ngãi đều
biết tới chiếu Cẩm Nê và trải qua bao thăng trầm, biến cố, bị cạnh tranh với nhiều
loại chiếu khác, chiếu hoa Cẩm Nê vẫn là sản phẩm được người dân ưa chuộng.
Tuy nhiên, đó chỉ là quá khứ, giờ đây, khi nhắc đến dệt chiếu, người trong
cuộc không khỏi xót xa, bởi qua nhiều năm thị trường sản xuất đã ra nhiều loại


chiếu nilon giá cả rẻ, bán nhiều ở các chợ dẫn tới việc khách đến đặt dệt chiếu dần
ít đi, giá nguyên liệu làm chiếu cũng tăng hơn lúc trước, vì vậy mà nhiều gia đình
không đủ vốn để duy trì sản xuất nên hầu như người dân trong làng đa số đã
chuyển qua nghề khác, hơn nữa do vùng trồng cói bị thu hẹp nên muốn mua
nguyên liệu bà con phải vào tận Long An và các tỉnh phía Nam, phí vận chuyển rất
cao. Lúc cả làng còn làm chiếu, sản phẩm làm ra được thu mua rồi đem đi tiêu thụ
ở nhiều nơi. Còn bây giờ, do sản phẩm làm ra quá ít, việc thu mua chiếu không còn
được duy trì. Giờ ra chợ rất khó tìm mua được chiếu Cẩm Nê vì số lượng làm ra rất
ít, chủ yếu được sản xuất để phục vụ các lễ hội, nếu phục vụ nhu cầu sử dụng thì
khách hàng phải đặt trước.Trước kia giá nguyên liệu mua rẻ hơn, một ký lót
khoảng chừng 1.500 đồng giờ đã lên 2.300 đồng/1kg, cây đay có giá 40.000
đồng/1kg, tiền thuê vót thêm 40.000 đồng.

Theo sự tìm hiểu từ: Bà Phan Thị Đào (76 tuổi) một trong ba hộ gia đình còn
làm chiếu chia sẻ : “Vì không có khách đặt chiếu cũng như tiền công ít nên bây giờ
người dân trong làng hầu như đều bỏ nghề, đi làm công nhân. Các con các cháu
của tôi cũng không có đứa nào nối nghiệp gia đình”. Hằng năm, cứ khoảng ngày 6
tháng giêng là đã bắt đầu giũ cói và có khách tới đặt dệt chiếu, nhưng năm nay đến
giờ vẫn im ắng.
Được biết, gia đình Bà Đào có truyền thống bảy đời làm chiếu, nhưng hiện
nay các con của bà lại không đi theo nghề mà đi làm ăn xa, vì muốn lưu giữ truyền
thống của gia đình bà Đào vẫn quyết định vay vốn ngân hàng để mua nguyên
liệu ,nhưng do ít khách đặt mua, giá nguyên liệu tăng nên gia đình bà buộc phải
bán hai mảnh vườn để có tiền trả ngân hàng và trang trải sinh hoạt.
Bà Đào cho biết “làm chiếu giờ chỉ có lấy công làm lãi, bữa nào có khách
đặt hàng bà thuê người về dệt, một đôi chiếu bán ra với giá 400.00 dồng/1 đôi trừ
tiền nguyên liệu thì bà chỉ đủ trả công cho người dệt là 80.000 đồng”.


Trong xã hội hiện đại thì với số tiền công đó thật sự quá ít để trang trải cho
cuộc sống gia đình, vì vậy mà nhiều thợ dệt trong làng đã phải bỏ nghề. Nếu như,
tình trạng này kéo dài thì làng chiếu Cẩm Nê khó có thể duy trì và đứng vững trên
thị trường.
2.1.2. Thực trạng về khâu tiêu thụ
Như đã nói ở trên, nhiều làng nghề truyền thống tại Đà Nẵng có lịch sử phát
triển hàng trăm năm. Trong thời hội nhập và phát triển, làng nghề được tiếp thêm
sức sống mới với sự đầu tư về cơ sở hạ tầng, công nghệ và mở rộng thị trường
xuất khẩu. Tại các làng nghề đã ra đời các công ty, sản xuất được mở rộng cùng
các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường... Tuy
nhiên, có một thực tế là các làng nghề truyền thống hiện đang phải đối mặt với
hàng loạt những khó khăn, thách thức như thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản xuất,
chưa có nguyên liệu ổn định, vấn đề ô nhiễm môi trường... Trong đó, khó khăn,
thách thức lớn nhất hiện nay là khâu tiêu thụ sản phẩm được xem là nổi tiếng ở Đà

Nẵng với bề dài lịch sử, tuy nhiên làng chiếu Cẩm Nê cũng không tránh khỏi
những khó khăn, thách thức. Về mặt chủ quan, thời đại công nghệ phát triển như
vũ bão, không chỉ riêng ở làng chiếu Cẩm Nê mà ở nhiều làng nghề truyền thống
khác đã xảy ra tình trạng sản phẩm công nghệ, máy móc đang lấn át, thay thế hàng
loạt các sản phẩm thủ công. Bên cạnh đó, tình trạng thương mại hóa sản phẩm,
chạy đua theo số lượng mà quên đi chất lượng, sản xuất hàng loạt chứ không chú
trọng cái "độc", cái hiếm, hàng thủ công muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên
thế mạnh của mình, tức là sản phẩm phải hàm chứa yếu tố văn hóa cao, mang đậm
bản sắc. hơn nữa các làng nghề không chỉ chú trọng số lượng mà chất lượng sản
phẩm phải được nâng cao, thể hiện dấu ấn sáng tạo và sự tài hoa của các nghệ nhân
làm chiếu.


Qua đó ta thấy rằng , các sản phẩm của làng nghề hiện nay đang bị tác động
khá lớn bởi công nghệ, máy móc hiện đại và nền kinh tế thị trường. Những vấn đề
này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến bàn tay điêu luyện, óc sáng tạo của những nghệ
nhân và đến một lúc nào đó, họ lại phải loay hoay đi tìm bản sắc và kỹ năng truyền
lại tự bao đời…
Về mặt khách quan, do diện tích đất chưa đảm bảo để phát triển cây trồng
làm chiếu, giá cả thì ngày càng tăng, nhiều ngành nghề mới ra đời làm thu hút
nguồn nhân lực của địa phương, từ đó sản phẩm làm ra ngày càng ít đi dẫn đến
khâu tiêu thụ không còn được đại trà như trước nữa.
2.1.3. Thực trạng về môi trường:
Hiện nay, nước ta có khoảng 2700 làng nghề, trong đó làng nghề thủ công,
mỹ nghệ chiếm gần 40% tổng số làng nghề. Tuy nhiên, các chất thải phát sinh tại
làng nghề hiện đã và đang gây ảnh hưởng làm suy thoái môi trường và tác động
trực tiếp tới sức khỏe người dân.
Ở các làng nghề mây tre đan, chiếu nguyên liệu sử dụng là mây, đay, tre,
lưu huỳnh, sơn bóng. Làng nghề mây tre đan gây ra nhiều bụi, khí SO2 và hơi
dung môi pha sơn. Chất thải rắn là sợi dăm, mây, tre khi vuốt sợi, cắt các đoạn thừa

và vỏ hộp sơn dầu bóng. Làng nghề chiếu thì ô nhiễm từ bụi khi dệt chiếu, gây ồn
khi dệt, hơi hóa chất khi nhuộm và in. Nước thải nhuộm và in hoa trên chiếu chứa
nhiều hóa chất, thuốc nhuộm. Đây là chất thải nguy hại và dễ đi vào nguồn nước
thải.
Vấn đề ô nhiễm môi trường các làng nghề đã gây tác động tiêu cực tới các
hoạt động phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và dẫn đến những xung đột
môi trường trong cộng đồng, tình trạng ô nhiễm tại làng nghề vẫn chưa được xử lý


có hiệu quả, nhiều làng nghề vẫn phải sống chung với ô nhiễm, chịu nhiều bệnh
tật, tuổi thọ giảm sút.
2.1.4. Thực trạng về chính sách gìn giữ làng nghề:
Các cấp chính quyền địa phương ít còn quan tâm đến sự tồn tại của làng
nghề, chỉ còn một số người dân yêu nghề muốn tiếp tục gìn giữ nghề truyền thống
của cha ông để lại.
Giờ đây con người ngày càng bận rộn hơn theo tiến trình công nghiệp hóa
nhưng không phải vì thế mà quên đi các sản phẩm truyền thống các làng nghề ,
bởi dù ở xã hội nào thì những làng nghề truyền thống vẫn có giá trị riêng, vẫn là
tinh hoa văn hóa của dân tộc cần phải giữ gìn cần các cấp chính quyền có những
chính sách bảo tồn để giữ gìn và phát huy tốt đẹp truyền thống của Việt Nam.

Bảng so sánh một số tiêu chí về làng truyền thống Cẩm nê trước đây và hiện
nay


Trước đây
Nguồn thu nhập
Khá cao, nghề làm chiếu
là nghề đem lại nguồn thu
nhập chính.

Năng suất
Một ngày từ 50 – 60 đôi
Nhu cầu thị hiếu của Vật dụng không thể thiếu
người tiêu dung
trong mỗi gia đình địa
phương và được nhiều địa
phương khác ưa chuộng.
Nhu cầu thị trường
Là mặc hàng phổ biến
trên thị trường.
Nguồn nhân lực

Hiện nay
Chỉ là để duy trì một nghề
truyền thống.
Thấp
Có nhiều sản phẩm khác
thay thế như chiếu nhựa,
nệm, …

Không còn xuất hiện trên
thị trường, mà phải đến
tận làng nghề đề tìm mua.
Dồi dào, là nghề chính Vẫn còn hai hội gia đình
của làng.
làm nghề quanh năm, một
vài hộ khác làm theo mùa

2.2. Tác động của sự suy giảm
Những làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay nói chung và làng Chiếu

Cẩm Nê nói riêng đang có nguy cơ bị mai một. Sự mai một đã gây ra nhiều ảnh
hưởng xấu đến kinh tế của người dân làng nghề, tác động không nhỏ đến mặt xã
hội, hơn hết nó còn để lại hậu quả xấu đối với giá trị văn hóa lịch sử, bản sắc dân
tộc Việt Nam.
2.2.1. Tác động đến kinh tế của người dân
Làng Chiếu Cẩm Nê đã có từ lâu đời, một thời gắn bó với đời sống của
người dân và là nguồn mưu sinh cho rất nhiều hộ dân ở đây. Tuy nhiên, trước cơn
lốc "đô thị hóa", "hiện đại hóa", "công nghiệp hóa",... dường như những sản phẩm
có nguồn gốc truyền thống không thể "trụ nổi" trước những sản phẩm được sản
xuất từ máy móc công nghiệp cao. Với xu thế công nghiệp hóa, mọi sản phẩm,
hàng hóa đều được sản xuất ra từ công nghệ hiện đại với nhiều mẫu mã đẹp, chất


×