Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

phương pháp nuôi cấy VR nhuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.57 KB, 3 trang )

Phát triển phương pháp nuôi cấy
Trước kia nếu muốn nuôi cấy virus thì người ta phải nuôi cấy trên cơ thể động
vật. Như vậy rất khó quan sát được các hiệu ứng đặc thù của virus ở mức độ tế
bào. Vào những năm 30 của thế kỷ 20 các nhà virus học đã phát hiện thấy trứng
gà mang phôi (đã thụ tinh hay chưa thụ tinh) có thể được dùng để nuôi cấy virus
herpes, virus đậu mùa và virus cúm. Mặc dù phôi gà có kết cấu giản đơn hơn
nhiều so với cơ thể thỏ hay chuột thí nghiệm nhưng phôi gà vẫn là một cơ thể
phức tạp. Sử dụng phôi gà không giải quyết được triệt để những vấn đề gặp
trong hiệu ứng tế bào học do virus gây ra. Mặt khác, vi khuẩn cũng phát triển tốt
trên phôi gà, trên các phôi nhiễm vi khuẩn rất khó đánh giá chính xác được các
hiệu ứng do virus. Vì vậy ngành virus học đã phát triển chậm chạp khi chưa cải
tiến được phương pháp nuôi cấy virus.
Có hai phát hiện mới đã làm triển khai được phương pháp nuôi cấy tế bào giúp
cho các nhà virus học và các nhà khoa học khác. Một là, việc phát hiện và sử
dụng chất kháng sinh để ngăn ngừa sự cảm nhiễm vi khuẩn. Hai là, các nhà sinh
học phát hiện thấy các enzyme thủy phân protein (proteolytic), nhất là trypsin,
có thể làm tách riêng các tế bào ra khỏi các mô xung quanh mà không làm tổn
hại đến các tế bào này. Rửa các tế bào và đếm số lượng chúng, pha loãng rồi
chuyển vào các bình, các ống nghiệm hay hộp Petri bằng nhựa (plastic). Các tế
bào trong dịch huyền phù sẽ hấp phụ trên bề mặt lớp thành nhựa, cúng sinh sôi
nẩy nở và lan ra thành một tầng tế bào gọi là tầng tế bào đơn (monolayer). Tầng
tế bào đơn này có thể truyền thế hệ (subcultured). Nuôi cấy truyền thế hệ
(subculturing) là đem các tế bào nuôi cấy được đi nuôi cấy trong các môi trường
nuôi cấy mới. Một lượng lớn các tế bào truyền thế hệ (subcultures) được tạo
thành từ một mẫu tổ chức đơn sẽ là mẫu tế bào nuôi cấy đồng nhất cần thiết cho
hàng loạt các nghiên cứu hiệu ứng của virus.
Thuật ngữ nuôi cấy mô (tissue culture) đã được sử dụng rộng rãi nhưng nuôi cấy
tế bào (cell culture) cần sử dụng chính xác hơn. Hiện nay, phần lớn các tế bào
nuôi cấy đều là tầng tế bào đơn sinh trưởng ra từ các tế bào phân tán đã được xử
lý nhờ enzyme. Nhờ sử dụng nhiều loại hình nuôi cấy tế bào vận dụng chất
kháng sinh để ức chế cam nhiễm mà Virus học đã bước vào thời đại vàng


(Golden Age). Từ thập kỷ 50 đến thập kỷ 60 của thế kỷ 20 đã có trên 400 virus
được phân lập và giám định (characterized) Mặc dù các virus mới đã được phát
hiện nhưng trọng tâm hiện nay là cân giám định kỹ hơn các đặc tính của virus,
xác định các bước cảm nhiễm (infection) và nhân lên (replication) của virus.
Các thí nghiệm vệt tan (plaque) dùng trong nghiên cứu phage (phages) có thểt
dùng cho cả các virus đồng vật. Chẳng hạn, nuôi cấy tầng tế bào đơn các tế bào
người, sau đó cấy virus, nếu virus làm tan tế bào thì rất nhiều vòng xâm nhiễm
sẽ sản sinh vệt tan.


Các loại hình nuôi cấy tế bào
Trong Virus học lâm sàng và Virus học thực nghiệm thường sử dụng rộng rãi 3
kiểu cơ bản nuôi cấy tế bào:
• Nuôi cấy tế bào nguyên đại (primery cell culture)
• Các chủng nguyên bào sợi nhị bội thể (diploid fibroblast strains)
• Các dòng tế bào liên tục (continous cell lines)

Vật nuôi cấy tế bào nguyên đại là lấy trực tiếp từ động vật, không qua truyền thế
hệ (not subcultured). Các động vật lấy mẫu càng non thì thời gian sống của tế
bào nuôi cấy càng kéo dài. Điển hình của các tế bào này là thể hỗn hợp của
nhiều loại hình tế bào như tế bào cơ bắp (muscle), tế bào thượng bì (epithelial).
Tuy vậy số lần phân cắt của các tế bào này thường không nhiều, nhưng cũng đủ
để hỗ trợ cho nhiều chủng virus sinh trưởng
Nếu việc nuôi cấy tế bào nguyên đại có thể truyền thế hệ một cách lặp lại thì một
típ (type) tế bào sẽ chiếm ưu thế và vật nuôi cấy các tế bào này được gọi là
chủng tế bào (cell strain). Trong chủng tế bào tất cả các tế bào loại hình gene
giống nhau. Chúng có thể truyền thế hệ nhiều lần, mỗi thế hệ giữa các tế bào khả
năng xuất hiện các khác biệt là rất nhỏ. Các khác biệt này có thể can thiệp vào
kết quả xác định hiệu ứng của virus.
Các chủng nguyên bào sợi nhị bội thể là các chủng tế bào thường dùng nhất.

Nguyên bào sợi (fibroblasts) là một loại tế bào chưa thành thục. Chúng có thể
sản sinh ra collagen và các sợi khác như là cơ chất của mô liên kết giống như
chân bì (dermis of the skin) Các chủng tế bào này là lấy từ mô của phôi, giữ tốc
độ phát triển nhanh và phân cắt liên tiếp của phôi. Chủng tế bào này hỗ trợ cho
sự phát triển của các loại virus và thường không mang các virus ô nhiễm như các
chủng tế bào thu được từ các động vật trưởng thành. Chính vì vậy mà các chủng
tế bào này thường được sử dụng để sản xuất các loại vaccin virus.
Típ thứ ba nuôi cấy tế bào được sử dụng rộng rãi là dòng tế bào liên tục. Một
dòng tế bào liên tục chứa các tế bào có thể sinh sản ra rất nhiều thế hệ. Dòng tế
bào liên tục nổi tiếng nhất là dòng tế bào HeLa. Dòng tế bào này sau khi được
phát hiện từ năm 1951 đã được nuôi cấy liên tục và được các nhà nghiên cứu
khắp thế giới sử dụng rộng rãi. Nguồn gốc của dòng tế bào HeLa là lấy từ một
phụ nữ bị ung thư tử cung và chữ HeLa là lấy từ các chữ đầu của tên người này.
Trên thực tế rất nhiều dòng tế bào liên tục thời kỳ đầu đều là dùng các tế bào ung
thư ác tính, vì chúng có năng lực sinh trưởng rất nhanh. Các dòng tế bào vĩnh
sinh (immortal cell lines) được nuôi cấy trong các phòng thí nghiệm không bị
lão hóa, phân chia nhanh chóng, nhu cầu dinh dưỡng thường đơn giản hơn các tế
bào thông thường. Ví dụ dòng tế bào HeLa có chứa 2 gen virus cần thiết cho
năng lực vĩnh sinh hóa (immortality) của chúng. Dòng tế bào vĩnh sinh này là dị


bội thể ( heteroploid ) –chứa số lượng khác nhau các nhiễm sắc thể, vì vậy mà có
tính đa dạng di truyền.
Việc nuôi cấy tế bào đã thay thế trên mức độ rất lớn các động vật thực nghiệm và
trứng chứa phôi khi nghiên cứu Virus học động vật. Tuy vậy trứng gà mang phôi
vẫn là hệ thống vật chủ tốt nhất đối với virus cúm A.

Ngoài ra chuột nhỏ loại Albino Swiss vẫn được dùng để nuôi cấy Arbovirrus
(Arthropod-borne viruses), có lúc cũng dùng những dòng tế bào động vật có vú
khác hoặc các dòng tế bào muỗi.

Hiệu ứng bệnh biến tế bào (The cytopathic effect)
Hiệu ứng thấy được của virus đối với tế bào cảm nhiễm được gọi là hiệu ứng
bệnh biến (cytopathic effect, CPE). Các tế bào trong nuôi cấy biểu hiện các loại
hiệu ứng chung, bao gồm sự biến đổi hình dạng tế bào và sự tách ra khỏi các tế
bào phụ cận hoặc vật dụng nuôi cấy.



×