Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.14 KB, 2 trang )
Thoát hiểm nhờ “tiếp thị” rủi ro
Bế tắc bên bờ phá sản, doanh nghiệp quyết định giải trình tất cả rủi ro, khó khăn của
mình tới khách hàng và đối tác…
Đó là nội dung hiếm thấy ở một hội nghị khách hàng, đã góp phần xoay chuyển số
phận của Công ty Cổ phần Bê tông và Xây dựng Thái Nguyên 4 năm về trước.
Nạn nhân của một phong trào
Năm 2001, chỉ hai năm sau chuyển đổi sang mô hình cổ phần, Công ty Bê tông và
Xây dựng Thái Nguyên được Hội đồng các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam đánh giá
là “một trong những mô hình cổ phần hóa thành công nhất tại Việt Nam”; Giám đốc Dương Đình Tập là 1 trong
10 doanh nhân trẻ nhận giải thưởng Sao Đỏ của năm.
Khi cổ phần hoá, Công ty chỉ có vốn 2,2 tỷ đồng, gần 100 lao động, doanh thu vẻn vẹn 8 tỷ đồng. Sau hai năm
cổ phần hoá, doanh thu đã lên tới 94 tỷ đồng, có gần 1.000 lao động và thị trường phát triển từ 2 tỉnh lên 20
tỉnh thành. Một sự phát triển nhanh chóng để có những ghi nhận trên.
Nhưng cũng rất nhanh chóng, chỉ hơn hai năm sau đó, công ty này dần rơi vào thế đường cùng…
Đó là những năm 2004 và 2005, khi cơn sốt “đại công trường” tại một số tỉnh phía Bắc đi qua, cuốn theo
những đổ vỡ và dồn bế tắc tới nhiều doanh nghiệp. Công ty Bê tông và Xây dựng Thái Nguyên, một đầu mối
đang dồn toàn sức trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, không phải là ngoại lệ.
“Có lẽ hồi đó doanh nghiệp mình trẻ, việc cổ phần hóa cũng có những tháo gỡ về cách thức quản lý và mình
làm những gì pháp luật không cấm, làm nhiệt tình lắm, làm khắp miền Nam, miền Bắc. Chỉ trong vòng 3 - 4
năm mà làm tới hàng nghìn tỷ đồng. Cũng vì công ăn việc làm, vì xu thế chung và cũng phải thừa nhận là có
cả sự bốc đồng”, Giám đốc Dương Đình Tập nhớ lại.
Đó cũng là thời điểm phong trào lập doanh nghiệp để chạy theo các dự án xây dựng cơ bản nở rộ. Và theo
ông Tập, nhiều trường hợp trong số đó trở thành nạn nhân của hoạt động đầu tư dàn trải.
“Ngân sách có 100 tỷ đồng, đáng lẽ anh chỉ làm được 50 công trình nhưng lại làm hẳn 100, thậm chí 200 công
trình. Thế nên mỗi công trình chỉ rải một ít vốn để rồi sau đó nợ đọng và dồn khó khăn cho các doanh nghiệp
thi công. Trong khi đó vốn của doanh nghiệp chủ yếu đi vay, phải trả lãi, chứ bản chất vốn thực rất hạn chế; có
những trường hợp chỉ lập mỗi văn phòng rồi lao vào làm. Doanh nghiệp vừa làm vừa đếm cua trong lỗ để rồi
không kịp trở tay”, ông Tập giải thích.
Những năm 2004 - 2005, lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản được siết chặt quản lý, nhiều dự án ùn tắc và nợ
đọng, nhiều doanh nghiệp thi công lao đao khi ngân hàng và khách hàng siết nợ. Như tại Công ty Bê tông và
Xây dựng Thái Nguyên, dư nợ thời điểm đó lên tới hơn 200 tỷ đồng nhưng không thể thu hồi để giải quyết