Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ DỰ ÁN “TĂNG CƯỜNG TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG VÀ KHUYẾN KHÍCH PHỤ NỮ RAGLAI LÀM CHỦ KINH TẾ TẠI TỈNH NINH THUẬN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 64 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐÁNH GIÁ CUỐI KỲ DỰ ÁN “TĂNG CƯỜNG TIẾP CẬN THỊ
TRƯỜNG VÀ KHUYẾN KHÍCH PHỤ NỮ RAGLAI LÀM CHỦ
KINH TẾ TẠI TỈNH NINH THUẬN”

Hà Nội, tháng 4 năm 2015
1


LỜI CẢM ƠN
Nhóm đánh giá xin chân thành cảm ơn các cán bộ tổ chức Oxfam, đặc biệt là ông Mai Thế
Long, cán bộ Chương trình Sinh kế, về sự hợp tác và các hỗ trợ về chuyên môn, tổ chức và
tạo điều kiện thuận lợi để nhóm hoàn thành cuộc đánh giá này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Ban điều hành dự án “Tăng
cường tiếp cận thị trường và khuyến khích phụ nữ Raglai làm chủ kinh tế tại tỉnh Ninh
Thuận” (dự án PWEL Ninh Thuận, mã số RVNA93) và cán bộ các ban ngành, đoàn thể liên
quan tại hai huyện Bác Ái và Thuận Bắc trong quá trình triển khai đánh giá tại thực địa và
đóng góp ý kiến cho báo cáo kết quả đánh giá.
Đặc biệt, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các cán bộ Ban quản lý dự án, thành viên
các nhóm sở thích và người dân ba xã Phước Tiến, Phước Tân và Lợi Hải về sự hợp tác nhiệt
tình trong quá trình làm việc tại thực địa để thu thập thông tin cho cuộc đánh giá này.
Thay mặt nhóm đánh giá,
Trưởng nhóm

ThS. Vũ Ngọc Anh
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính sách phát triển bền vững (CSDP)

2


MỤC LỤC


MỤC LỤC ................................................................................................................................. 2
Danh mục bảng, hộp và hình ................................................................................................. 5
TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT .................................................................................................. 6
TÓM TẮT TỔNG QUAN ....................................................................................................... 7
I. GIỚI THIỆU ....................................................................................................................... 10
I.1 Tóm tắt dự án ................................................................................................................. 10
I.2 Mục tiêu của cuộc đánh giá ............................................................................................ 14
I.3 Nội dung đánh giá .......................................................................................................... 14
I.4 Phương pháp đánh giá ................................................................................................... 15
I.5 Triển khai cuộc đánh giá ................................................................................................ 15
I.6 Một số hạn chế của cuộc đánh giá ................................................................................. 15
II. NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH........................................................................................ 16
II.1 Những phát hiện chung ................................................................................................. 16
II.2 Những phát hiện riêng .................................................................................................. 21
Đóng góp của dự án vào phát triển KT-XH của địa phương................................................ 21
Những hoạt động dự án được đánh giá cao nhất .................................................................. 23
Một số hoạt động dự án chưa đạt kết quả mong muốn ........................................................ 26
II.3 Tính phù hợp của dự án ................................................................................................ 26
Việc hướng nhóm đối tượng là đúng đắn ............................................................................. 26
Phương pháp tiếp cận khoa học và hợp lý............................................................................ 26
Tuy nhiên cần phân biệt và kết hợp 2 nhóm đối tượng hưởng lợi chính ............................. 27
II.4 Hiệu quả thực hiện dự án .............................................................................................. 27
Đã có thay đổi về sản lượng và thu nhập của bà con nhưng vẫn còn khiêm tốn ................. 27
II.5 Tính công bằng của dự án ............................................................................................. 29
Đảm bảo sự bình đẳng .......................................................................................................... 29
Ít thay đổi liên quan đến ra quyết định ................................................................................. 29
II.6 Tác động của dự án ....................................................................................................... 30
3



II.7 Tính bền vững và khả năng nhân rộng một số hoạt động của dự án ............................ 32
Duy trì các nhóm phụ nữ như hiện nay với nòng cốt là các thành viên tích cực ................. 32
Kết quả vận động chính sách của Oxfam ............................................................................. 32
II.8 Quản lý dự án và quan hệ đối tác.................................................................................. 33
Về tổ chức quản lý dự án ...................................................................................................... 33
Về quan hệ đối tác giữa Oxfam và địa phương .................................................................... 34
II.9 Những hạn chế/khó khăn của dự án ............................................................................. 34
III. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................... 35
III.1 Bài học kinh nghiệm.................................................................................................... 35
III.2 Khuyến nghị chung ..................................................................................................... 36
III.3 Khuyến nghị cho huyện Bác Ái .................................................................................. 37
III.4 Khuyến nghị cho huyện Thuận Bắc ............................................................................ 37
III.5 Khuyến nghị cho Oxfam ............................................................................................. 37
IV. KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 37
V. PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 38
1. Câu chuyện điển hình. ..................................................................................................... 38
2. Điều khoản tham chiếu (TOR) ........................................................................................ 46
3. Kế hoạch và lịch đánh giá hiện trường từ ngày 31/3/2015 đến 3/4/2015 ..................... 50
4. Danh sách đối tượng phỏng vấn và thảo luận nhóm ....................................................... 54
5. Các chỉ số theo dõi và đánh giá của dự án RVNA93 ...................................................... 58
6. Tổng hợp đánh giá chi tiết kết quả dự án ........................................................................ 63
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 64

4


Danh mục bảng, hộp và hình
Bảng 1.1 Đối tượng hưởng lợi của dự án ................................................................................ 14
Bảng 2.1 Cơ cấu chăn nuôi heo của các hộ tham gia dự án trong các năm gần đây ở hai huyện
Bác Ái và Thuận Bắc .............................................................................................................. 20

Bảng 2.2 Bà con tự đánh giá, cho điểm các hoạt động của dự án ........................................... 25

Hộp 2.1 Kết quả thực hiện Đầu ra 1.1 .................................................................................... 16
Hộp 2.2 “Nếu em làm được, thì ai cũng có thể làm được!” .................................................. 16
Hộp 2.3 Kết quả thực hiện Đầu ra 1.2 ................................................................................. 17
Hộp 2.4 Kết quả thực hiện Đầu ra 2.1 ................................................................................. 17
Hộp 2.5 Kết quả thực hiện Đầu ra 2.2 ................................................................................. 18
Hộp 2.6 Thực hiện Kết quả 3 ............................................................................................... 19
Hộp 2.7 Giấc mơ Chapi ........................................................................................................ 30
Hình 2.1 So sánh mức độ đầu tư của Oxfam với đầu tư của Nhà nước .................................. 22
Hình 2.2 Các giải pháp xử lý heo bệnh của bà con Raglai .................................................... 23

5


TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
BĐH
BQL
CT
CTV
DA
DTTS
ĐPV
GALS/WEMAN
HĐND
HPN
KHKT
KT-XH
KT-HT
NN&PTNT

PCT
UBND
TD&ĐG
TV

Ban điều hành
Ban quản lý
Chương trình
Cộng tác viên
Dự án
Dân tộc thiểu số
Điều phố viên
Hệ thống học hỏi hành động về giới của Oxfam
Hội đồng nhân dân
Hội phụ nữ
Khoa học kỹ thuật
Kinh tế-xã hội
Kinh tế hạ tầng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phó chủ tịch
Ủy ban nhân dân
Theo dõi và đánh giá
Thành viên

6


TÓM TẮT TỔNG QUAN
Dự án “Tăng cường tiếp cận thị trường và khuyến khích phụ nữ Raglai làm chủ kinh tế tại
tỉnh Ninh Thuận” (dự án PWEL Ninh Thuận, mã số RVNA93), được tài trợ bởi tổ chức

Oxfam trong giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu “Nâng cao vị thế kinh tế và xã hội cho 3.000
phụ nữ dân tộc Raglai tại tỉnh Ninh Thuận” cùng 3 kết quả trung hạn (Kết quả 1: Thu nhập
của 3000 phụ nữ Raglai và gia đình họ (1.000 người hưởng lợi trực tiếp và 2.000 người hưởng
lợi gián tiếp) được tăng lên; Kết quả 2: Vị thế và vai trò của phụ nữ Raglai trong gia đình và
cộng đồng của họ được cải thiện; và Kết quả 3: Các kế hoạch và chương trình của Chính phủ
phản ánh các biện pháp và hành động cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và người sản xuất
quy mô nhỏ). Trải qua 4 năm thực hiện, tổ chức Oxfam và đối tác địa phương ở Ninh Thuận
tổ chức đánh giá dự án1 để: i) Đo lường những thành tựu/hạn chế và những thay đổi trong
tương quan với các mục tiêu/ kết quả đề ra, đánh giá quan hệ đối tác giữa các đối tác và
Oxfam và năng lực của đối tác; ii) Tài liệu hóa các thực hành tốt/chưa tốt và các bài học rút ra
từ dự án để phụ nữ dân tộc Raglai áp dụng tốt hơn và để phục vụ vận động chính sách; và iii)
Đưa ra các khuyến nghị cụ thể để đóng góp cho các dự án tương tự trong tương lai hoặc để cải
thiện vai trò lãnh đạo và khả năng tiếp cận thị trường của phụ nữ Raglai.
Một số phát hiện chính từ cuộc đánh giá:
1. Dựa trên các kết quả thực hiện và tác động của dự án đến cộng đồng người Raglai nói
chung và phụ nữ Raglai nói riêng, cũng như đến các đối tác địa phương, có thể kết luận
dự án RVNA93 nhìn chung đã đạt các mục tiêu đề ra. Trong 3 kết quả mong đợi của dự án
thì kết quả 1 đạt tốt nhất, sau đó là kết quả 2 và kết quả 3. Các chỉ tiêu quan trọng như số
nhóm sở thích được thành lập và hoạt động, số người hưởng lợi, thu nhập của bà con và số
lượng đàn heo tăng, năng lực sản xuất và tiếp cận thị trường của Hội Phụ nữ (HPN), thành
viên các nhóm sở thích được cải thiện v.v. đều đạt. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động hẹp (chỉ
bao gồm 2/9 xã ở huyện Bác Ái và 1/6 xã ở huyện Thuận Bắc), cùng việc điều chỉnh thu
hẹp lĩnh vực hỗ trợ từ một số lĩnh vực sản xuất chính của đồng bào Raglai (trồng lúa,
trồng bắp, nuôi bò, nuôi heo đen) xuống duy nhất phát triển chuỗi sản phẩm heo đen từ
năm 2013 đã khiến một số chỉ tiêu không đạt và tác động của dự án bị hạn chế so với
mong đợi ban đầu.
2. Dự án đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ giúp phụ nữ Raglai cải thiện được vị thế
và vai trò của họ trong gia đình và cộng đồng. Đã thành lập/củng cố được 22 nhóm sở
thích do phụ nữ làm chủ với trên 330 thành viên, đa số là phụ nữ Raglai nghèo. Năng lực
về sản xuất, thị trường và kinh doanh của phụ nữ Raglai trong chăn nuôi heo đen có áp

dụng khoa học kỹ thuật (KHKT), tham gia bán hàng ở chợ phiên, điều hành sinh hoạt
nhóm, v.v đã được cải thiện đáng kể. Đóng góp vào thu nhập, cùng tiếng nói của người
phụ nữ trong gia đình đã tăng lên.
1

Nhóm tư vấn đánh giá dự án từ Trung tâm Nghiên cứu chính sách phát triển bền vững (CSDP) gồm: ThS Vũ
Ngọc Anh, trưởng nhóm, cùng các thành viên ThS Hoàng Xuân Trường, TS Đào Hoàng Mai và ThS Dương
Thành Trung.

7


3. Dự án rất phù hợp về phương pháp tiếp cận và đối tượng hưởng lợi. Tuy vẫn còn một số
hạn chế (như một số mục tiêu và chỉ tiêu đặt ra khá tham vọng, thời gian thực hiện tương
đối ngắn, kinh phí và qui mô triển khai hạn hẹp, mô hình quản lý dự án chưa thống
nhất/đồng bộ, v.v.), nhưng dự án RVNA93 đã giới thiệu với đối tác địa phương và quốc
gia một phương thức tiếp cận sáng tạo và hiệu quả cho giảm nghèo và cải thiện vị trí xã
hội đối với đối tượng phụ nữ Raglai nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung
thông qua hướng dẫn họ thực hành sản xuất và tiếp cận thị trường bằng sản phẩm heo đen.
4. Tính bình đẳng của dự án nhìn chung được đảm bảo với phụ nữ dân tộc Raglai là đối
tượng hưởng lợi chính. Tuy nhiên, việc ưu tiên đối tượng tham gia các hoạt động dự án là
phụ nữ, trong khi đàn ông ít tham gia, có thể dẫn đến tình trạng triển khai về gia đình gặp
nhiều khó khăn do đàn ông là lao động chính. Trong cộng đồng Raglai, đàn ông cũng nên
được coi là một đối tượng tuyên truyền chính - họ cần được quan tâm đúng mức hơn để có
thể vừa tích cực tham gia làm kinh tế gia đình, vừa giúp phụ nữ có thời gian nghỉ ngơi và
học tập. Ngoài ra, dự án cần quan tâm hơn đến nhóm thanh niên Raglai từ 15 đến 35 tuổi
vì họ là những người có khả năng nắm bắt tốt các kiến thức KHKT và thị trường.
5. Sự đóng góp của dự án Oxfam vào sự phát triển KT-XH của địa phương nói chung là khá
khiêm tốn so với những đóng góp từ các chương trình, chính sách của Nhà nước, cũng
như những nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương. Tuy nhiên, phương pháp

tiếp cận giảm nghèo của Oxfam được cho là hiệu quả hơn so với các chương trình/dự án
giảm nghèo của nhà nước ở tính khoa học, thực tế, có sự tham gia rộng rãi, lấy người
hưởng lợi và cộng đồng làm trung tâm. Việc lập kế hoạch được làm từ dưới lên, có sự
tham gia đã đáp ứng đúng nhu cầu của người dân và phát huy được thế mạnh của địa
phương. Phương pháp đào tạo theo hình thức “cầm tay chỉ việc” đã giúp chị em phụ nữ
Raglai nắm được các kiến thức cần thiết để áp dụng vào sản xuất và tiếp cận thị trường.
6. Những hoạt động dự án được đánh giá cao nhất gồm: i) các hoạt động nâng cao năng lực
cho thành viên và đối tác (tập huấn chuyên môn, sinh hoạt nhóm sở thích, hỗ trợ phụ nữ
Raglai tham gia các phiên chợ/hội chợ, tham quan học tập, hỗ trợ thành viên các nhóm
tham gia lập kế hoạch sản xuất nhóm theo phương pháp Hệ thống học hỏi hành động về
giới (GALS/WEMAN)); ii) tổ chức các cuộc đối thoại chính sách phát triển kinh tế địa
phương và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa/HTX/kinh tế tổ nhóm giữa thành viên với
đại diện chính quyền địa phương; iii) cung cấp hỗ trợ “phần cứng” cho các hộ dân (heo
giống, vật tư làm chuồng, xây dựng một số mô hình sản xuất và kinh doanh cho một số
thành viên tích cực của DA), v.v. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hoạt động được triển khai
nhưng chưa mang lại kết quả mong muốn: các hoạt động thuộc Hợp phần 4 (Hỗ trợ
trưởng, phó nhóm sở thích đi liên hệ với các chủ lò mổ, siêu thị, cửa hàng và nhà hàng để
quảng bá sản phẩm của nhóm; Hỗ trợ trưởng, phó nhóm, thành viên nhóm sở thích kinh
doanh giỏi tham dự hội thảo ngành hàng liên quan, diễn đàn về sản xuất kinh doanh cấp
tỉnh/huyện; Hội thảo "Tìm đầu ra bền vững cho sản phẩm heo đen"; Hỗ trợ giới thiệu,
quảng bá sản phẩm địa phương đến các siêu thị và nhà hàng...) không thực hiện được do
thực trạng phát triển chăn nuôi heo đen còn hạn chế; một số mô hình (ví dụ: trồng rau,
nuôi heo nhốt chuồng, nuôi giun quế ở xã Phước Tân) không thành công do tập quán chăn
8


nuôi cũ theo kiểu tự nhiên vẫn còn hằn sâu trong ý thức của bà con Raglai và do điều kiện
tự nhiên khó khăn.
7. Dự án đã có tác động rất tích cực đến các đối tượng hưởng lợi. Đầu tiên là thay đổi tư
duy và nhận thức về sản xuất áp dụng tiến bộ KHKT và tiếp cận thị trường của người dân

Raglai nói chung và phụ nữ Raglai nói riêng. Tất cả đối tác và người dân được phỏng vấn
đều coi đây là thay đổi quan trọng nhất. Qua được tập huấn, hướng dẫn và thực hành theo
kiểu “cầm tay chỉ việc”, nhiều phụ nữ Raglai đã biết tính toán chi phí sản xuất, hỏi giá
hàng và mặc cả khi đi chợ, sử dụng cân khi mua bán; đồng bào Raglai không còn nuôi heo
đen như một thứ “của để dành” mà đã biết tính toán chi phí và lợi nhuận, biết nuôi nhốt, ủ
cám, trồng rau, chuẩn bị thức ăn, trích thuốc, thiến lợn, kêu cán bộ thú y khi thấy gia súc
bị bệnh, v.v. Đi chợ bán hàng đã trở thành một thói quen mới đối với nhiều thành viên các
nhóm sở thích và gia đình họ. Thứ hai, phụ nữ Raglai cũng trở nên mạnh dạn hơn khi
tham gia các hoạt động xã hội/cộng đồng (tham gia sinh hoạt nhóm, đi tập huấn, đi họp
thôn...), nói lên ý kiến/suy nghĩ của mình. Thứ ba, con heo đen Ninh Thuận đã bước đầu
được quảng bá ra thị trường trong và ngoài tỉnh một cách khá bài bản - tại Bác Ái đã có
điểm thu gom có hợp đồng thu mua heo với các nhóm và bán heo cho thị trường Đà Lạt;
tại Thuận Bắc đã có lò mổ có hợp đồng mua bán heo với các nhóm và bán heo cho các
thành phố lớn như Vũng Tàu, Nha Trang. Tiếp đến là thay đổi trong phong cách làm việc
của cán bộ đối tác như năng lực xử lý công việc tăng lên, làm việc/lập kế hoạch có sự
tham gia, biết lắng nghe ý kiến của các bên liên quan, v.v.
8. Những hoạt động có thể duy trì sau khi dự án kết thúc: i) thành viên các nhóm sở thích tin
rằng họ vẫn tiếp tục sinh hoạt nhóm, đi chợ, nuôi heo đen, đóng góp vào quỹ nhóm để cho
nhau vay quay vòng; ii) đối tác địa phương đề cập lồng ghép các yếu tố tích cực của dự án
vào các chính sách hiện nay của Nhà nước (như Chương trình 30a hỗ trợ các hộ khá làm
điểm về tiếp cận thị trường; DA Tam Nông hỗ trợ các nhóm nuôi bò, nuôi heo, trồng
chuối, v.v.); iii) đội ngũ cán bộ địa phương và người dân đã được dự án tập huấn và học
được phương pháp làm việc của Oxfam (ví dụ: lập kế hoạch có sự tham gia, cách giao
tiếp, tổ chức đối thoại chính sách, v.v.) được trông đợi sẽ áp dụng trong thực tế công việc
của mình.
Một số khuyến nghị:
1. Đối tượng hưởng lợi của dự án là phụ nữ và cộng đồng dân tộc Raglai thuộc nhóm nghèo
nhất và khó khăn nhất ở Việt Nam, đang bị nhiều tập tục truyền thống cản trở, điều kiện
sản xuất khó khăn, khả năng áp dụng KHKT rất hạn chế..., do đó, việc hỗ trợ họ cần được
thực hiện một cách lâu dài, bài bản với sự vào cuộc của tất cả các bên liên quan (chính

quyền, các tổ chức quốc tế, các tổ chức địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia và người
dân). UBND huyện và các ban ngành địa phương cần chủ động vào cuộc, không nên coi
đây là công việc của dự án.
2. Khi làm việc với cộng đồng Raglai, một cộng đồng mẫu hệ, không nên chỉ tập trung vào
đối tượng phụ nữ, mà cần quan tâm cả đến các phụ nữ có tuổi, thanh niên và nam giới
Raglai. Có như vậy mới huy động được đầy đủ lực lượng và mang lại tác động đến tất cả
các đối tượng cần thiết.
9


3. Đối tác địa phương ở 2 huyện Bác Ái và Thuận Bắc xem xét phối hợp sử dụng nguồn vồn
từ các CT/DA khác ở địa phương (DA Tam Nông, CT Nông thôn mới, CT 30a, Chương
trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 v.v.) để tiếp tục duy trì và nâng cấp hoạt động của
các nhóm nuôi heo đen (ví dụ: bổ sung heo giống, vốn vay quay vòng cho các nhóm để
phòng ngừa rủi ro và duy trì đàn heo, nâng cấp chất lượng hệ thống cán bộ thú y tuyến xã,
xây dựng cán bộ thú y tuyến thôn; tiếp tục hỗ trợ các hộ sản xuất giỏi tại 2 huyện, đặc biệt
là người Raglai, tham gia hội chợ thương mại cấp tỉnh/huyện.)
4. Oxfam nên tổ chức tài liệu hóa và chia sẻ các bài học kinh nghiệm thực hiện dự ánA
RVNA93 ở cấp địa phương (tỉnh Ninh Thuận), cũng như cấp quốc gia.

I. GIỚI THIỆU
I.1 Tóm tắt dự án
Dự án “Tăng cường tiếp cận thị trường và khuyến khích phụ nữ Raglai làm chủ kinh tế” (dự
án PWEL Ninh Thuận, mã số RVNA93), được tài trợ bởi tổ chức Oxfam trong giai đoạn 2011
- 2015 với tổng ngân sách hỗ trợ trực tiếp cho địa phương là 260.000 Bảng Anh (tương đương
8.580.000.000 đồng). Dự án được xây dựng nhằm phát triển vai trò làm chủ kinh tế của phụ
nữ Raglai - một cộng đồng theo chế độ mẫu hệ ở ba xã: Phước Tân và Phước Tiến (huyện Bác
Ái) và Lợi Hải (huyện Thuận Bắc), tỉnh Ninh Thuận, thông qua hỗ trợ sản xuất hàng hóa và
định hướng kinh doanh, tăng cường các cơ hội tham gia vào thị trường và đóng vai trò chủ
động trong các hoạt động kinh tế của gia đình.

Bác Ái là huyện nghèo nhất nằm ở cực bắc tỉnh Ninh Thuận. Đây là địa bàn có diện tích lớn
và là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Raglai. Dân số của huyện là 24.350 người
(50,15% nam và 49,85% nữ), khoảng 94% là người dân tộc Raglai. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2009
là 54% và huyện Bác Ái nằm trong danh sách 62 huyện nghèo nhất Việt Nam và được hỗ trợ
đặc biệt theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Huyện Bác Ái có ít dân cư, nhưng có diện tích
đất nông nghiệp khá lớn (92.200 ha), trong đó 10.000 ha được dùng cho trồng trọt (trung bình
0,42 ha/người). Tuy nhiên, đất đai ở đây kém màu mỡ và chỉ khoảng 20-25% số diện tích này
được cung cấp nước tưới đầy đủ. Trong những năm gần đây một phần đáng kể diện tích đất
canh tác đã được xây dựng hệ thống thủy lợi và nhà máy thủy điện.
Huyện Thuận Bắc nằm cách thành phố Phan Rang-Tháp Chàm 10km về phía bắc. Tổng diện
tích tự nhiên 31.924 ha, dân số 37.850 người (50,2% nam và 49,8% nữ), 90% dân số sống dựa
vào sản xuất nông nghiệp. Tương tự như Bác Ái, phần lớn dân số của huyện là người dân tộc
Raglai. Một số xã như Phước Kháng, Phước Chiến có gần 100% là người Raglai, các xã khác
là Công Hải, Lợi Hải và Bắc Sơn, tuy có ít người Raglai hơn nhưng họ vẫn là nhóm đông
nhất. Đất nông nghiệp bình quân theo đầu người của huyện chỉ bằng khoảng một nửa mức
10


bình quân so với Bác Ái và hầu như không thể mở rộng. Tuy nhiên, huyện Thuận Bắc lại có
hệ thống thủy lợi rất tốt, có thể cung cấp nước cho 70% diện tích đất canh tác lúa nước.
Cả hai huyện Thuận Bắc và Bác Ái đều có địa hình tự nhiên thích hợp cho chăn nuôi gia súc,
trồng trọt và trồng rừng. Diện tích đất rừng khá lớn, chiếm bốn phần năm diện tích huyện Bác
Ái và một nửa diện tích huyện Thuận Bắc. Tuy nhiên, điều kiện thời tiết không thuận lợi như
lượng mưa thấp, mùa khô kéo dài gây ra tình trạng thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp cũng
như nước dùng cho sinh hoạt hàng ngày của người dân; hạn hán thường xuyên xảy ra.
Xuất phát điểm cho phương pháp tiếp cận PWEL của dự án là coi đây là một trong các quyền
- phụ nữ có quyền tham gia bình đẳng, đầy đủ và kiểm soát bình đẳng trong nền kinh tế. Tổ
chức Oxfam cho rằng sự bất bình đẳng giới làm chậm phát triển kinh tế; và ngược lại, bình
đẳng giới có thể tăng hiệu quả đầu tư trong sản xuất nông nghiệp và các sáng kiến sinh kế
khác. PWEL khuyến khích phụ nữ được cải thiện cả vị thế kinh tế và xã hội để thoát nghèo.

Điều này có nghĩa đảm bảo các nguồn lực kinh tế và sức cạnh tranh trên thị trường trong khi
thay đổi thái độ và niềm tin có thể tạo ra mối quan hệ bình đẳng với nam giới và bình đẳng ra
quyết định về kinh tế ở cấp độ cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng hoặc cấp độ cao hơn2.
Mục tiêu chung của dự án là “Nâng cao vị thế kinh tế và xã hội cho 3.000 phụ nữ dân tộc
Raglai tại tỉnh Ninh Thuận”. Để đạt mục tiêu chung này, dự án đưa ra các mục tiêu cụ thể sau:


Nâng cao kiến thức và kỹ năng của phụ nữ Raglai về sản xuất hàng hóa và tiếp cận
nền kinh tế thị trường;
 Tăng cường sức mạnh của phụ nữ Raglai trong các quan hệ kinh tế thông qua thúc đẩy
liên kết các tổ nhóm sở thích/kinh doanh vừa và nhỏ;
 Phát triển hoạt động sản xuất và thị trường hàng hóa thông qua vận động chính sách
và hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp và tổ nhóm nông dân sản xuất;
 Thúc đẩy sự thay đổi trong phân công lao động giữa nam và nữ trong gia đình để tạo
điều kiện cho người phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế giúp tăng thu nhập gia
đình.
cùng các kết quả mong đợi:
 Kết quả trung hạn 1: Thu nhập của 3.000 phụ nữ Raglai và gia đình họ được tăng lên
(trong đó 1.000 người là hưởng lợi trực tiếp và 2.000 là gián tiếp). Với hai đầu ra Đầu ra 1.1: Năng lực về sản xuất, thị trường và kinh doanh của phụ nữ Raglai trong
các ngành hàng mục tiêu được cải thiện; Đầu ra 1.2: Chất lượng và chức năng của các
dịch vụ nông nghiệp được củng cố.
 Kết quả trung hạn 2: Vị thế và vai trò của phụ nữ Raglai trong gia đình và cộng đồng
của họ được cải thiện. Với 3 đầu ra - Đầu ra 2.1: Đàn ông Raglai đóng vai trò tích cực
hơn trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình và chia sẻ công việc nhà; Đầu ra 2.2: Phụ
nữ Raglai năng động hơn, có tiếng nói mạnh mẽ hơn và vị trí tốt hơn trong các tổ chức
cộng đồng; và Đầu ra 2.3: Năng lực của các tổ chức phụ nữ trong lĩnh vực phụ nữ làm
chủ kinh tế được nâng lên.
2

Trích văn kiện dự án RVNA93


11




Kết quả trung hạn 3: Các kế hoạch và chương trình của Chính phủ phản ánh các biện
pháp và hành động cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và người sản xuất quy mô
nhỏ. Với hai đầu ra: Đầu ra 3.1: Nhận thức của chính quyền địa phương về quyền và
năng lực sở hữu kinh tế của phụ nữ được cải thiện; và Đầu ra 3.2: Các doanh nghiệp
nhỏ/hộ kinh doanh cá thể xây dựng được kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình làm
cơ sở đề xuất đầu vào cho các chương trình của Chính phủ.

Các hợp phần của dự án:
Trong giai đoạn đầu (2011-2013), dự án triển khai theo 6 hợp phần:
 Hợp phần 1: Nghiên cứu thị trường có yếu tố giới và thiết kế dự án
 Hợp phần 2: Xây dựng năng lực cho các nhóm sở thích
 Hợp phần 3: Nâng cao chất lượng dịch vụ khuyến nông và thú y
 Hợp phần 4: Hỗ trợ phát triển thị trường
 Hợp phần 5: Nâng cao vị thế kinh tế của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng
 Hợp phần 6: Vận động cơ quan chính phủ có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và
nông dân có quy mô sản xuất nhỏ.
Ngoài ra còn phần Chi phí quản lý cho đối tác chiếm khoảng 10% ngân sách của dự án. Các
hợp phần 1-4 đóng góp cho việc đạt Kết quả trung hạn 1. Hợp phần 5 đóng góp cho việc đạt
Kết quả trung hạn 2 và Hợp phần 6 đóng góp cho việc đạt Kết quả trung hạn 3.
Từ năm 2013 đến khi kết thúc (tháng 3/2015), dự án chỉ tập trung vào phát triển chăn nuôi
heo đen và tiếp thị sản phẩm heo đen theo các nội dung chính sau:






Lập kế hoạch và tổ chức sản xuất;
Tăng cường sự tham gia của đối tác cấp tỉnh trong việc nhân rộng và thử nghiệm một
số cách tiếp cận mới;
Tăng cường hiệu quả của các tổ sản xuất; và
Vận động chính sách.

Ba nội dung chính đầu tiên đóng góp cho việc đạt Kết quả trung hạn 1 và nội dung chính thứ
tư đóng góp cho việc đạt Kết quả trung hạn 3; DA bỏ các hoạt động đóng góp cho Kết quả
trung hạn 2. (Chi tiết xem Phụ lục 4 – Các chỉ số Theo dõi và đánh giá của dự án).
Đối tác thực hiện dự án: UBND và HPN cấp huyện và xã ở 2 huyện Bác Ái và Thuận Bắc.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai, dự án cũng làm việc với HPN tỉnh và Sở NN&PTNT với
tư cách đơn vị cung cấp hỗ trợ kỹ thuật.


Tháng 3/2011, Oxfam và UBND huyện Bác Ái đã ký thỏa thuận tài trợ 3 năm 20112014 với cam kết hỗ trợ dự kiến là 81.270 Bảng Anh tương đương 2.675.750.000đ.
Ngày 24/8/2012 UBND tỉnh Ninh Thuận ra quyết định số 1636/QĐ-UBND về phê
duyệt dự án tại huyện Bác Ái.

12




Tháng 3/2011, Oxfam và UBND huyện Thuận Bắc đã ký thỏa thuận tài trợ 3 năm
2011-2014 với cam kết hỗ trợ dự kiến là 80.997 Bảng Anh tương đương
2.666.750.000đ. Ngày 28/9/2012 UBND tỉnh Ninh Thuận ra quyết định số 1952/QĐUBND về phê duyệt dự án tại huyện Thuận Bắc.

Mặc dù là một dự án qui mô nhỏ, nhưng cấu trúc quản lý lại khá đa dạng:



Ở cấp huyện có Ban điều hành dự án huyện. Ban điều hành dự án huyện Bác Ái kế
thừa BĐH từ dự án cũ (RVNA63) gồm 5 thành viên: một Phó chủ tịch UBND làm
Trưởng ban, Chánh Văn phòng UBND huyện làm Phó trưởng ban, cán bộ Văn phòng
UBND huyện làm Điều phối viên (ĐPV) và 01 kế toán là thành viên, không có đại
diện HPN3. Ban điều hành dự án huyện Thuận Bắc được thành lập mới gồm 7 thành
viên: một Phó chủ tịch UBND làm Trưởng ban, Chủ tịch HPN làm Phó trưởng ban,
Phó chủ tịch HPN làm ĐPV, đại diện Văn phòng UBND huyện, Phòng NN&PTNT,
Phòng KT-HT và 01 kế toán là thành viên. Trong khi UBND huyện Bác Ái nắm vai
trò điều hành dự án, thì huyện Thuận Bắc lại giao vai trò này cho HPN huyện và HPN
xã Lợi Hải.



Ở cấp xã: BQL DA cấp xã được thành lập tại hai xã huyện Bác Ái cũng chỉ gồm các
thành viên UBND (Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban và cán bộ Văn phòng UBND
làm thư ký). Việc điều hành dự án ở xã Lợi Hải hoàn toàn do HPN huyện và HPN xã
đảm nhiệm, không có sự tham gia của UBND xã. BQL DA xã có trách nhiệm hỗ trợ
BĐH DA cấp huyện trong việc lập kế hoạch và thực thi dự án, đảm bảo chất lượng và
tiến độ của các hoạt động được phân công ở xã. Hàng quý đại diện của BQL DA xã
tham gia họp giao ban với BĐH DA huyện để xây dựng kế hoạch, chia sẻ những kinh
nghiệm trong quá trình thực hiện dự án.



Đối tác cấp tỉnh: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Sở NN&PTNT) và HPN
tỉnh. Tuy nhiên, hai đối tác này không tham gia trực tiếp vào việc quản lý ngân sách
và thực thi dự án mà chỉ chịu trách nhiệm về tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ chính sách. Ví
dụ, Sở NN&PTNT được tham vấn về nhu cầu xây dựng năng lực và kế hoạch chuyên

biệt nào đó của tỉnh đối với các hệ thống khuyến nông và thú y ở cấp huyện. Các
chuyên gia của Sở NN&PTNT được mời để cung cấp các khóa tập huấn và hỗ trợ
thích hợp về kỹ thuật. Mặt khác, dự án sẽ vận động hành lang Sở NN&PTNT để lồng
ghép phương pháp tiếp cận của PWEL vào hoạt động của họ (Ví dụ: DA Tam Nông).
HPN tỉnh hỗ trợ kỹ thuật trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo của phụ nữ, tập huấn về
giới, tư vấn triển khai các hoạt động truyền thông về bình đẳng giới và chống bạo lực
gia đình và áp dụng Hệ thống học hỏi hành động về giới (GALS/WEMAN) để lập kế
hoạch hành động của từng nhóm trên địa bàn hai huyện.

Đối tượng hưởng lợi của dự án: Những người được hưởng lợi trực tiếp từ dự án là cộng
đồng người dân tộc Raglai bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và nam giới ở 3 xã mục tiêu. Ngoài ra,
3

Theo đối tác huyện Bác Ái, lý do HPN huyện và xã không tham gia vào BĐH là do thiếu cán bộ, một số chị đi
học tại chức.

13


dự án cũng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động tại địa phương, các đơn vị cung cấp
dịch vụ khuyến nông và thú y của địa phương để họ có thể hỗ trợ một cách hiệu quả cho
người dân Raglai trong quá trình sản xuất theo định hướng thị trường (xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1 Đối tượng hưởng lợi của dự án
Huyện Bác Ái (02 xã)

Thuận Bắc (01 xã)

Dân số

Mục tiêu


Dân số

Mục tiêu

Tổng số mục
tiêu

Tổng dân số

5.990

3.007

10.536

5.289

8.296

Nam giới

2.935

1.174

5.163

2.065


3.239

Nữ giới

3.055

1.833

5.373

3.224

5.057

Số hộ gia đình

1.375

691

2.549

1.281

1.972

Dân số

Nguồn: Tờ rơi của Oxfam
Lập kế hoạch, theo dõi và đánh giá:





Theo thỏa thuận giữa Oxfam và đối tác, kế hoạch và ngân sách dự án sẽ được lập theo
từng huyện và theo từng năm để trình Oxfam phê duyệt. Mỗi khi cần thay đổi thì đối
tác phải kiến nghị bằng văn bản gửi Oxfam và Oxfam cũng trả lời băng văn bản.
Đối tác cấp huyện gửi báo cáo tiến độ và báo cáo tài chính hàng quý, báo cáo năm về
Oxfam.

I.2 Mục tiêu của cuộc đánh giá





Đo lường dự án (thành tựu/ thất bại và những thay đổi trong tương quan với các mục
tiêu/ kết quả đề ra), và đánh giá quan hệ đối tác giữa các đối tác và Oxfam và năng lực
của đối tác;
Tài liệu hóa các thực hành tốt/chưa tốt và các bài học rút ra từ dự án để phụ nữ thiểu
số Raglai áp dụng tốt hơn và để phục vụ vận động chính sách;
Đề xuất các khuyến nghị cụ thể để đóng góp cho các dự án tương tự trong tương lai
hoặc để cải thiện vai trò lãnh đạo và khả năng tiếp cận thị trường của phụ nữ thiểu số
Raglai.

I.3 Nội dung đánh giá
Tập trung vào việc đánh giá việc đạt được các kết quả của dự án theo Khung lô gic đơn giản
(điều chỉnh4) của Dự án. Ngoài ra, cuộc đánh giá sẽ đi sâu vào các khía cạnh sau của dự án:

4


Ghi chú: ban đầu DA được thiết kế để hỗ trợ đồng bào Raglai trong một số lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bao
gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên, do một số khó khăn (bao gồm cả ngân sách) nên từ năm 2013, DA
chỉ tập trung vào phát triển chăn nuôi heo đen và tiếp thị sản phẩm này.

14









Tính phù hợp (với nhu cầu của người dân và đối tác địa phương, cũng như định hướng
hoạt động của Oxfam).
Tính hiệu quả: hoạt động nào vượt/không đạt mong đợi.
Tính công bằng: bình đẳng giới và xã hội.
Tính bền vững: những hoạt động nào vẫn tiếp tục sau khi DA kết thúc.
Khả năng nhân rộng: những hoạt động nào đã/sẽ được đối tác triển khai ra ngoài vùng
DA.
Mối quan hệ đối tác.

I.4 Phương pháp đánh giá







Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: văn kiện dự án, báo cáo, số liệu điều tra ban đầu, thông
tin liên quan từ các nguồn khác (internet, blog…)
Phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm: BĐH DA 2 huyện và 3 xã, đối tác địa phương
cấp tỉnh (Sở NN&PTNT, HPN, DA Tam Nông).
Thảo luận nhóm: nhóm cán bộ xã, trưởng thôn, nhóm hộ dân, nhóm phụ nữ.
Thu thập câu chuyện điển hình: thành viên, trưởng nhóm, đối tác, doanh nghiệp...
Quan sát: nhà dân, chuồng trại, chợ, cửa hàng, thái độ của thành viên, đối tác và cộng
đồng… (Xem Phụ lục 4)

I.5 Triển khai cuộc đánh giá




Oxfam tuyển tư vấn độc lập: tháng 2/2015.
Xây dựng KH đánh giá và lịch đánh giá (xem Phụ lục 3)
Triển khai đánh giá các bên liên quan chính tại địa phương.

I.6 Một số hạn chế của cuộc đánh giá





Thời gian đi hiện trường tương đối ngắn;
Một số đối tác chủ chốt bận không tham gia được hoặc đã chuyển công tác;
Báo cáo không đầy đủ, cấu trúc thay đổi nên khó tổng hợp thông tin.
Kinh phí hạn hẹp.


15


II. NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH
II.1 Những phát hiện chung
Dựa trên các kết quả thực hiện và tác động của dự án đến cộng đồng người Raglai nói chung
và phụ nữ Raglai nói riêng, cũng như tới các đối tác địa phương, có thể kết luận nhìn chung
dự án RVNA93 đã đạt các mục tiêu đề ra. Trong 3 kết quả mong đợi của dự án thì kết quả 1
đạt tốt nhất, sau đó là kết quả 2 và kết quả 3. Số người hưởng lợi trực tiếp - thành viên các
nhóm sở thích và gia đình họ (nếu tính trung bình mỗi gia đình người Raglai có 4-5 thành
viên) là trên 1.000; số người hưởng lợi gián tiếp ít nhất cũng tương đương và thường cao hơn
số người hưởng lợi trực tiếp. Chi tiết xem Phụ lục 6 – Tổng hợp kết quả thực hiện dự án.
Đối với Đầu ra 1.1: Năng lực về sản xuất, thị trường và kinh doanh của phụ nữ Raglai trong
các ngành hàng mục tiêu do dự án hỗ trợ được cải thiện - phần lớn các chỉ tiêu đưa ra đều
đạt và vượt kế hoạch (xem Hộp 2.1).
Hộp 2.1 Kết quả thực hiện Đầu ra 1.1
Chỉ số 1.1.1: Ít nhất 70% người hưởng lợi trực tiếp có thu nhập hộ gia đình tăng thông
qua các hoạt động dự án: Cơ bản Đạt theo báo cáo của đối tác. Ví dụ cụ thể xem Hộp
2.2.
Chỉ số 1.1.2: Thu nhập hộ gia đình trung bình hàng năm (10% trên tổng số hộ mục tiêu)
tăng 5%: Đạt nhưng cần nói rõ đây là do đóng góp của nhiều yếu tố (chính sách hỗ trợ
của Nhà nước, sự nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương và hỗ trợ của Oxfam).
Chỉ số 1.1.3: 100% phụ nữ Raglai tiếp cận với thông tin thị trường từ ít nhất một nguồn.
Đạt, đặc biệt trong trường hợp áp dụng cho thành viên các nhóm sở thích và gia đình họ.
Chỉ số 1.1.4 (điều chỉnh bỏ sản lượng bò): Số lượng heo đen tăng 30% so với năm đầu
của dự án: vượt chỉ tiêu (xem bảng 2.1 trong báo cáo)
Hộp 2.2 “Nếu em làm được, thì ai cũng có thể làm được!”

Katơr Thị Hồng Đẹp, 22 tuổi, sống với chồng và con gái 3 tuổi ở xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc. Trước
đây, nguồn thu của gia đình chị khá khiêm tốn – chủ yếu đến từ trồng ngô và lúa (trên diện tích chỉ có


16


500 m2) và nuôi heo đen - chỉ đủ 50% chi phí sinh hoạt, nên bữa ăn hàng ngày của gia đình rất đạm
bạc. Sau khi tham gia hai khóa tập huấn về kỹ năng và tổ chức kinh doanh, tính toán giá cả hàng hóa
của dự án, Đẹp mở một quầy bán hoa quả ở chợ thôn. Giờ đây, hàng ngày chị bán hoa quả và đôi khi
cả heo đen, còn chồng vẫn làm nông nghiệp. Cuộc sống của gia đình chị đã trở nên tốt hơn nhờ thu
nhập thêm từ buôn bán nhỏ. “Hàng ngày em bán được nhiều hoa quả và thu được khoảng 100.000đ
tiền lãi. Số tiền này giúp gia đình em trang trải chi phí sinh hoạt hàng ngày: 20.000đ để trả tiền học và
mua sữa cho con gái, 40.000đ mua thức ăn và 40.000đ để dành cho tương lai.” Đẹp đã xây dựng được
các mối quan hệ tốt với những người bán hàng trong chợ. Chị biết cách chọn loại hoa quả tốt và định
giá hợp lý cho hàng của mình. Với kinh nghiệm tích lũy được, chị muốn vay thêm vốn để mở rộng
kinh doanh. Chị chia sẻ “Em muốn được tập huấn thêm về các loại hoa quả đang bán và muốn đưa ra
được lời khuyên cho những người mua – mỗi loại hoa quả có những chất bổ gì và mang lại tác dụng
thế nào đến sức khỏe con người.” Đẹp muốn các chị em Raglai khác cũng tham gia dự án như mình
bởi chị nghĩ “Nếu em làm được, thì ai cũng có thể làm được! Lúc đầu có thể sẽ khó khăn, nhưng cần
biết chọn loại hàng mình muốn bán và tin tưởng vào bản thân”.
Nguồn: />
Đối với Đầu ra 1.2 Chất lượng và chức năng của các dịch vụ nông nghiệp được củng cố, kết
quả đạt được là tích cực với bà con, nhưng mạng lưới thú y và khuyến nông của địa phương
vẫn cần nhiều sự cải thiện (xem Hộp 2.3).
Hộp 2.3 Kết quả thực hiện Đầu ra 1.2
Chỉ số 1.2.1: Mạng lưới thú y và khuyến nông được tăng cường và duy trì tốt. Nhiều nỗ
lực đã được thực hiện, mạng lưới khuyến nông và thú y đã được tăng cường. Tuy nhiên,
chủ yếu là ý thức và kiến thức của bà con Raglai về các loại bệnh và cách phòng chống
các loại bệnh thông thường cho heo đen đã được cải thiện đáng kể. Vẫn còn nhiều công
việc phải làm do trong 3 xã chỉ có xã Phước Tiến có cán bộ thú y đạt tiêu chuẩn, ở hai
huyện vẫn chưa có đội ngũ thú y thôn bản.
Chỉ số 1.2.2: Một kênh thông tin thị trường chính thức hoặc không chính thức được thiết

lập để phục vụ nhu cầu của người sản xuất. Đạt. Các kênh như: xây dựng và cập nhật
cuốn danh bạ/danh sách các tác nhân cung cấp các dịch vụ thú y, khuyến nông và các
dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh; phát thanh thông tin thị trường trên loa của thôn; hỏi
cán bộ tham gia điều hành DA (như anh Hùng, chị Hà, anh Tú, chị Tốt...); hỏi người
quen, đại lý quan điện thoại di động đã được thiết lập và bà con sử dụng.

Việc thực hiện Kết quả trung hạn 2: Vị thế và vai trò của phụ nữ Raglai trong gia đình và
cộng đồng của họ được cải thiện đã đạt được một số kết quả là đáng khích lệ nhưng mới là
bước đầu, tập trung vào các gia đình thành viên tích cực trong các nhóm sở thích. Có một số
chỉ báo tích cực cho thấy đàn ông Raglai đóng vai trò năng động hơn trong việc phát triển
kinh tế hộ gia đình và chia sẻ công việc nhà, nhưng sự thay đổi là chưa rõ ràng (xem Hộp 2.4
và 2.5).
Hộp 2.4 Kết quả thực hiện Đầu ra 2.1
Chỉ số 2.1.1: Số giờ nam giới làm việc nhà tăng 10%. Không có số liệu khảo sát ban
đầu và thông tin định lượng về chỉ số này. Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn cho thấy việc
phụ nữ Raglai đi chợ đã “giải phóng” họ và con gái khỏi một số công việc sản xuất và
“tái phân công” lại cho người đàn ông.

17


Chỉ số 2.1.2: Số giờ nam giới tham gia sản xuất và buôn bán tăng 20%. Không có số
liệu khảo sát ban đầu và thông tin định lượng về chỉ số này. Nhưng các ý kiến phỏng
vấn người dân cho rằng nam giới các hộ Raglai có vợ đi chợ đã tham gia tích cực hơn vào
việc giúp vợ chuẩn bị hàng hóa và đi chợ, cũng như làm các công việc sản xuất và trong
nhà.
Chỉ số 2.1.3: Ít nhất 70% phụ nữ được sự hỗ trợ tăng lên từ các đối tác nam cũng như
các thành viên nam trong gia đình khi kết thúc dự án. Không có số liệu khảo sát ban
đầu và thông tin định lượng về chỉ số này. Tuy nhiên, qua phỏng vấn có thể khẳng định
đa số phụ nữ Raglai tham gia thị trường đã nhận được sự giúp đỡ tăng lên từ nam giới

trong gia đình họ.

Liên quan tới Đầu ra 2.2 Phụ nữ Raglai, đặc biệt là thành viên các nhóm sở thích, đã trở nên
năng động hơn trước đây trong đổi mới tư duy sản xuất và tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, đây
cũng chỉ là tiến bộ ban đầu, cần nhiều nỗ lực để duy trì và củng cố sự tiến bộ này.
Hộp 2.5 Kết quả thực hiện Đầu ra 2.2
Chỉ số 2.2.1: Số lượng phụ nữ có vị thế và vai trò cao hơn so với nam giới trong gia đình
và cộng đồng tăng lên. Không có số liệu khảo sát ban đầu và thông tin định lượng,
nhưng có thể kết luận chỉ số này đạt thông qua các cán bộ HPN (ở huyện Thuận Bắc, xã
Lợi Hải và xã Phước Tiến), các chị trưởng, phó nhóm và những thành viên tích cực của
các nhóm sở thích. Năng lực và uy tín của chị em trong gia đình và cộng đồng đã được
nâng cao đáng kể qua tích cực tham gia các hoạt động của DA (tập huấn, sinh hoạt nhóm,
sản xuất và bán hàng...).
Chỉ số 2.2.2: Số giờ phụ nữ dành cho nghỉ ngơi tăng 10%. Không có số liệu khảo sát
ban đầu và thông tin định lượng. Trên thực tế, việc tham gia các hoạt động sản xuất
theo hướng áp dụng KHKT và thị trường của DA khiến cho thời gian làm việc của cả phụ
nữ và nam giới Raglai tăng lên.
Chỉ số 2.2.4: 100% các thành viên nữ của các nhóm sở thích tham gia vào các cuộc họp
thường kỳ được tổ chức bởi nhóm sở thích hoặc Hội phụ nữ. Đạt. Tất cả các nhóm sở
thích đều duy trì sinh hoạt định kỳ do HPN và nhóm tổ chức.
Chỉ số 2.2.5: 90% các thành viên nữ của các nhóm sở thích tham gia vào các hoạt động,
sự kiện kinh tế-xã hội và văn hóa trong cộng đồng. Đạt nếu tính các sự kiện như: tập
huấn, hội thảo, đi chợ, tham gia sinh hoạt nhóm, truyền thông, hội chợ, tham quan, v.v.
Chỉ số 2.2.6: 650 phụ nữ tham gia đóng góp vào những quyết định quan trọng của hộ gia
đình. (VD: sử dụng nguồn lực, chăn nuôi, đất đai và giáo dục cho con cái). Do thiếu
thông tin ban đầu nên không đánh giá chính xác được chỉ số này. Tuy nhiên, 100% người
được phỏng vấn, cả đối tác và thành viên nhóm sở thích, đều cho rằng phụ nữ Raglai
tham gia đóng góp vào những quyết định quan trọng trong gia đình.

Đầu ra 2.3: Năng lực của các tổ chức phụ nữ trong lĩnh vực phụ nữ làm chủ kinh tế được

nâng lên bước đầu đạt kết quả, đặc biệt là HPN huyện Thuận Bắc và xã Lợi Hải, các nhóm sở
thích trong ba xã dự án. Ngược lại, năng lực của HPN huyện Bác Ái và xã Phước Tân bị đánh
giá là hạn chế do ít tham gia vào thực hiện dự án. Hoạt động “Hỗ trợ trưởng, phó nhóm, thành
viên nhóm sở thích kinh doanh giỏi tham dự hội thảo ngành hàng liên quan, diễn đàn về sản

18


xuất kinh doanh cấp tỉnh/huyện” thực hiện không đạt kết quả mong muốn phải chuyển sang
hoạt động khác do thực tế phát triển chăn nuôi heo đen ở 3 xã dự án còn khá hạn chế.
Kết quả trung hạn 3: Các kế hoạch và chương trình của Chính quyền phản ánh các biện pháp
và hành động cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và người sản xuất quy mô nhỏ đạt ở mức
trung bình. Dự án đã nỗ lực tổ chức các hoạt động đối thoại và vận động chính sách, tuyên
truyền cho các mô hình phụ nữ giảm nghèo. Việc hỗ trợ các hộ làm thử các mô hình sản xuất
và kinh doanh khác nhau với phụ nữ Raglai là rất đúng đắn và được cộng đồng đánh giá cao.
Tuy nhiên, khó khăn/vấn đề là tìm kiếm đủ kinh phí, duy trì sự bền vững và nhân rộng các mô
hình này (xem Hộp 2.6).
Hộp 2.6 Thực hiện Kết quả 3
Chỉ số 3.1.1: Một mạng lưới người thực hành WEL sẽ được thiết lập và hoạt động (tạo ra
diễn đàn) để các bên liên quan chia sẻ và thảo luận các cách tiếp cận và ứng dụng WEL.
Đạt thông qua i) Nhóm công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế - GED của Oxfam; và ii)
cuộc đối thoại chính sách, tham quan học tập, hội nghị tuyên truyền vận động chính sách
cấp huyện và tỉnh. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để duy trì được mạng lưới này sau
khi DA kết thúc.
Chỉ số 3.1.2: Số lượng phụ nữ nắm giữ vai trò lãnh đạo trong các tổ chức đoàn thể xã và
thôn tăng 15%. Không có số liệu và DA có vẻ không gây được ảnh hưởng đáng kể nào.
Chỉ số 3.2.1: 20 doanh nghiệp quy mô nhỏ / hộ kinh doanh cá thể sẽ được tư vấn về các
thủ tục hành chính, khung pháp lý để thành lập và phát triển. Hỗ trợ tài chính và kĩ thuật
ở mức khiêm tốn sẽ được cung cấp để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp quy
mô nhỏ / hộ kinh doanh cá thể. Đạt - 3 mô hình nuôi heo bán thả rông (2 ở Bác Ái, 1 ở

Thuận Bắc); 10 mô hình trồng rau chăn nuôi ở Phước Tân; 10 mô hình hộ kinh doanh ở
Phước Tiến và Lợi Hải, v.v.
Chỉ số 3.2.2: Gia tăng trong phân bổ nguồn lực của chính phủ cho các hộ nông dân sản
xuất quy mô nhỏ và doanh nghiệp quy mô nhỏ được thể hiện trong kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội của chính phủ/chính quyền địa phương. Có chuyển biến - Oxfam đã làm
việc với DA Tam Nông về vấn đề này; đối tác cấp huyện phản ánh đã áp dụng thử trong
CT 30a, CT Giảm nghèo...

Tuy vẫn còn một số hạn chế (như một số mục tiêu và chỉ tiêu đặt ra khá tham vọng5, thời gian
thực hiện tương đối ngắn, kinh phí và qui mô hạn hẹp, mô hình quản lý dự án đa dạng, v.v.),
nhưng dự án RVNA93 đã đưa ra cho đối tác địa phương và quốc gia một phương thức tiếp
cận hiệu quả cho giảm nghèo và cải thiện vị trí xã hội đối với đối tượng phụ nữ Raglai nói
riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, cùng một số mô hình sáng tạo (ví dụ: trồng
chuối và khoai lang, nuôi giun quế làm thức ăn cho heo; làm chuồng và vườn nuôi heo bán
chăn thả…) Theo nhóm đánh giá, dự án RVNA93 đã “làm điều không thể trở thành có thể”
đối với nhóm đối tượng rất khó khăn là cộng đồng người Raglai – giúp phụ nữ nghèo Raglai
nói riêng và đồng bào Raglai nói chung bước đầu vượt qua những thói quen, tập tục, tư duy
5

Ví dụ: Tổng số người hưởng lợi; 80 cán bộ khuyến nông và thú y được đào tạo trở thành tập huấn viên; 25%
phụ nữ nắm giữ các vai trò quan trọng trong chính quyền, tổ chức đoàn thể hoặc tổ chức dân sự địa phương; Số
giờ phụ nữ dành cho nghỉ ngơi tăng 10%, v.v.

19


truyền thống hạn chế để phát triển sản xuất theo hướng áp dụng KHKT, dần tiếp cận thị
trường và cải thiện cuộc sống.
Dự án đã đạt được một số kết quả ban đầu đáng khích lệ. Nhiều chỉ tiêu kế hoạch đưa ra ban
đầu đã đạt (chi tiết xem Phụ lục 6):

 22 nhóm sở thích với trên 300 thành viên, đa số là phụ nữ Raglai nghèo đã được thành lập
và củng cố (10 nhóm ở Bác Ái với 155 thành viên và 12 nhóm ở Thuận Bắc với 180 thành
viên). Đầu tiên, dự án hỗ trợ cả các nhóm nuôi bò và trồng bắp, nhưng từ 2013 đã chuyển
về mô hình chăn nuôi heo đen. Các nhóm này đang duy trì nề nếp sinh hoạt định kỳ 1
tháng/lần, đóng quỹ tiết kiệm để cho vay quay vòng.
 Tình hình nuôi heo của các hộ thành viên tăng đều (xem Bảng 2.1). Tổng đàn heo đen của
các thành viên tăng từ 200 lên 784 con.
Bảng 2.1 Cơ cấu chăn nuôi heo của các hộ tham gia dự án trong các năm gần đây
ở 2 huyện Bác Ái và Thuận Bắc (Đơn vị: con/hộ)
Số lượng heo các năm
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Cơ cấu giống heo năm 2013
Heo cái sinh sản
Heo thịt
Heo con

1,00
1,81
4,13
1,67
0,36
2,18

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm chuyên gia Hoàng Xuân Trường
Cũng cần nói thêm là mặc dù có các can thiệp của dự án, nhưng trình độ chăn nuôi heo đen
của đồng bào Raglai ở 2 huyện còn rất hạn chế - qui mô vẫn đang rất nhỏ (bình quân 2,68
con/hộ) trong đó chủ yếu là heo nái (1,66 con/hộ); tỷ lệ đẻ và sống sau cai sữa của heo đen là
rất thấp (chỉ là 2,18 con/hộ trong khi đáng lẽ phải là 14-15 con/năm). Kết quả thấp này có thể

do chất lượng heo mẹ giảm, tỷ lệ thụ thai thấp, tỷ lệ chết sau sinh cao do đồng huyết hoặc
thiếu thức ăn, bệnh tật; phong tục lễ cưới của bà con sử dụng nhiều heo, do đó lượng heo đen
tiêu thụ trong dân là khá lớn, số heo thịt để bán ra thị trường trung bình chỉ có 0,36 con/hộ...
Cũng vì những lý do trên mà nhiều hộ Raglai chưa thể thoát nghèo nếu chỉ nuôi heo đen ở
trình độ thấp hiện nay - tổng thu từ chăn nuôi heo cũng chỉ ước đạt 1,2 triệu đồng/hộ6 (chỉ
bằng 1/10 so với tính toán 12 triệu đồng/hộ của nghiên cứu năm 2012).
Phương pháp tiếp cận giảm nghèo của Oxfam hiệu quả hơn so với các chương trình/dự án
giảm nghèo do nhà nước quản lý. 100% đối tác được phỏng vấn đều cho rằng phương pháp
tiếp cận giảm nghèo của Oxfam là khoa học, sát thực tế, có sự tham gia rộng rãi và lấy người
hưởng lợi, cộng đồng làm trung tâm. Việc lập kế hoạch được làm từ dưới lên, có sự tham gia
6

Kết quả nghiên cứu của nhóm Hoàng Xuân Trường T10/2014

20


nên đáp ứng đúng nhu cầu của người dân, và phát huy được thế mạnh của địa phương. Các
hoạt động được tiến hành theo hình thức đào tạo giảng viên tại chỗ (TOT) và “cầm tay chỉ
việc” v.v. đã giúp nhiều phụ nữ Raglai nắm được các kiến thức KHKT thiết yếu áp dụng vào
trồng trọt và chăn nuôi. Dự án Oxfam, tuy ngân sách khiêm tốn hơn so với các chương trình,
DA khác của Nhà nước, nhưng lại đến được người dân tốt hơn, giúp họ cải thiện cuộc sống.
Đối tác phản ánh một số Chương trình/DA giảm nghèo của Nhà nước tuy mức đầu tư lớn,
nhưng hiệu quả không cao, không tạo được ý thức vươn lên của người dân mà còn tạo ra tâm
lý ỷ lại. Tổ chức Oxfam đã đưa ra phương pháp tiếp cận này dựa trên kinh nghiệm hoạt động
lâu năm của mình:









Khảo sát kỹ tình hình địa phương và nhóm đối tượng hưởng lợi, đặc biệt là những khía
cạnh dân tộc, văn hóa, sinh kế truyền thống của họ... để hiểu rõ và lựa chọn phương
pháp tiếp cận phù hợp nhất.
Tổ chức thực hiện nghiên cứu thị trường trước và trong khi thực hiện dự án để xác
định/điều chỉnh định hướng và nội dung hỗ trợ chính.
Tập trung vào đối tượng là phụ nữ Raglai và những sinh kế gần gũi với họ (nuôi bò,
nuôi heo, trồng bắp...)
Tiếp cận theo tổ/nhóm để nâng cao tính tập thể và tương tác cộng đồng giữa các thành
viên nghèo, phát huy được tính đầu tàu của các thành viên tích cực.
Mạnh dạn đưa yếu tố thị trường vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh.
Hỗ trợ toàn diện thông qua các phương pháp sáng tạo và phù hợp, áp dụng xây dựng
năng lực kết hợp với thực hành theo kiểu “mưa dầm thấm lâu” và “cầm tay chỉ việc”;
gắn xây dựng mô hình với vận động chính sách, v.v.

II.2 Những phát hiện riêng
Đóng góp của dự án vào phát triển KT-XH của địa phương
Có thể nói sự đóng góp của dự án Oxfam vào sự phát triển KT-XH của địa phương nói chung
là khiêm tốn so với những đóng góp của các chương trình, chính sách của Nhà nước, cũng
như những nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương. Huyện Bác Ái hiện đang thực
hiện 62 chính sách khác nhau của Nhà nước (bao gồm Chương trình 30a, Chương trình 135,
Nông thôn mới, Dự án Tam Nông, Chương trình 102, Tín dụng Ngân hàng CSXH, v.v…) với
ngân sách hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho tất cả 9 xã trong huyện; huyện Thuận Bắc cũng
được hưởng các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Tam nông, Dự án hỗ trợ cho đồng bào
dân tộc thiểu số (ADB5), Dự án CPI, v.v. So với các chương trình và dự án kể trên, vốn từ Dự
án Oxfam là rất nhỏ bé.
Ví dụ: trong Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2013 của xã Phước Tiến, tổng nhu cầu nguồn

lực tài chính là 19.487.500.000đ, nguồn vốn từ các chương trình/dự án là 10.474.000.000đ,
trong đó từ Oxfam là 51 triệu đồng chiếm 0,5%, với cơ cấu như hình 2.1 dưới đây.

21


Hình 2.1 So sánh mức độ đầu tư của Oxfam với đầu tư của Nhà nước - Cơ cấu nguồn
vốn từ các chương trình/dự án xã Phước Tiến

Dự án Oxfam
0.5%

Chương trình
30a
24.6%

Dự án Tam nông
25.1%

Chương trình
135
17.8%

Chương trình
Nông thôn mới
32.1%

Nhóm đánh giá quan sát thấy là các hoạt động của Oxfam chỉ được đề cập sơ sài trong các kế
hoạch phát triển KT-XH hàng năm của huyện và 2 xã dự án ở Bác Ái và hầu như không được
đề cập trong Kế hoạch phát triển KT-XH hàng năm của huyện Thuận Bắc và xã Lợi Hải. Ví

dụ: Kế hoạch phát triển KT-XH 2013 của huyện Bác Ái trong phần Tiểu thủ công nghiệp,
Thương mại và Dịch vụ có đề cập: “Hỗ trợ nhân dân 2 xã Phước Tân và Phước Tiến tham gia
Hội chợ triển lãm Nông nghiệp, nông thôn tại tỉnh. Phối hợp với Sở Công thương đăng ký
thương hiệu sản phẩm đặc thù trên địa bàn huyện giai đoạn 2011 – 2013... tiếp tục duy trì chợ
phiên tại xã Phước Tân và Phước Tiến giúp nhân dân mua bán, trao đổi hàng hóa”; Kế hoạch
phát triển KT-XH 2013 của xã Phước Tiến có đề cập đến các nội dung “Duy trì tốt chế độ chợ
phiên 04 lần/tháng, thu hút nhiều mặt hàng đặc sản của địa phương. Xây dựng hoàn thành
thương hiệu heo đen, đồng thời thành lập điểm thu mua giết mổ tại địa phương. Tuyên truyền
kỹ thuật về cách phòng và điều trị bệnh cho heo địa phương cho 6 nhóm cùng sở thích”. Một
lý do có thể xuất phát từ phương thức tổ chức quản lý và thực hiện dự án ở 2 huyện hoàn toàn
khác nhau: ở Bác Ái, dự án triển khai qua UBND huyện và UBND 2 xã, do đó có được sự
quan tâm rất toàn diện của chính quyền địa phuơng. Trong khi đó, ở Thuận Bắc, dự án được
triển khai qua đối tác HPN huyện xuống HPN xã và các nhóm phụ nữ tại thôn, không qua
UBND xã. Lý do thứ hai là dự án triển khai ở phạm vi khá hẹp (2/9 xã của huyện Bác Ái và
1/6 xã của huyện Thuận Bắc) nên tầm ảnh hưởng bị hạn chế. Lý do thứ ba là dự án tập trung
vào hỗ trợ “phần mềm” – tập huấn nâng cao năng lực cho thành viên và đối tác, tuyên truyền
vận động chính sách với đối tác chính quyền địa phương và truyền thông cộng đồng. Những
hỗ trợ “phần cứng” – trang thiết bị, con giống, vật tư... là rất hạn chế.

22


Những hoạt động dự án được đánh giá cao nhất


Hỗ trợ nâng cao năng lực cho thành viên các nhóm sở thích – theo tổng hợp kết quả
báo cáo, đã có gần 2.000 lượt phụ nữ, đặc biệt là đội ngũ trưởng và phó nhóm được
nâng cao năng lực trên nhiều lĩnh vực như:
o Các cuộc tập huấn về kết nối thị trường (kinh doanh và quản lý kinh doanh,
hạch toán chi phí, giá cả, kỹ năng bán hàng, v.v.): đối tác và người dân cho

rằng các hoạt động này thật mới mẻ và hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng có ý kiến của
đối tác cho rằng thời gian hỗ trợ liên kết thị trường là quá ngắn (bắt đầu từ
tháng 6 năm 2014 trong khi dự án kết thúc tháng 3 năm 2015);
o Các khóa tập huấn và tuyên truyền, vận động bà con Raglai về chăn nuôi heo
đen theo phương pháp khoa học (nuôi nhốt hoặc bán thả rông, chuẩn bị thức
ăn, trồng chuối và rau làm thức ăn cho heo, nhận biết một số bệnh gia súc, ): bà
con dần nhận thức được tầm quan trọng của phương thức chăn nuôi mới, ít thả
rông gia súc hơn; biết chuẩn bị thức ăn, nắm được một số kiến thức cơ bản về
thú y (chích thuốc, thiến heo con, đoán bệnh gia súc; thông báo cho cán bộ thú
y, v.v); nhiều hộ đã biết mời cán bộ thú y đến khám chữa bệnh, chỉ còn rất ít
trường hợp bà con tự chữa hay bỏ mặc không quan tâm (xem hình 2.2). Đây là
những thay đổi, tuy là bước đầu, nhưng rất quan trọng trong nhận thức về sản
xuất theo định hướng mới (áp dụng KHKT và tiếp cận thị trường) của đồng
bào Raglai;
Hình 2.2. Cách thức bà con Raglai phòng và chữa bệnh cho heo (% hộ dân)

60

55.56

50
40
24.44

30
20

13.33
6.67


10
0

Gọi thú y

Tự chữa trước,
gọi thú y sau

Tự chữa

Không quan
tâm

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm chuyên gia Hoàng Xuân Trường
o Hỗ trợ thành viên các nhóm tham gia lập kế hoạch sản xuất nhóm theo phương
pháp Hệ thống Học hỏi hành động về giới (GALS/WEMAN): thông qua hình
thức lập kế hoạch bằng hình vẽ đơn giản mà dễ hiểu, bà con DTTS đã nắm rõ
23








các bước trong quá trình chăn nuôi heo đen, những thuận lợi, khó khăn và
những công việc họ cần làm trong từng thời điểm.
Đối thoại chính sách phát triển kinh tế địa phương và phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa/HTX/kinh tế tổ nhóm giữa thành viên với đại diện chính quyền địa phương. Đối

tác địa phương cả cấp huyện và xã đánh giá cao hoạt động này, cho rằng nó đầu tư ít
nhưng tác động lớn – người dân được tham gia và nêu lên các vấn đề thực tế của họ,
cán bộ đầu ngành của huyện lắng nghe, trả lời câu hỏi của bà con và đưa ra các biện
pháp giải quyết.
Đóng góp vào nâng cao chất lượng dịch vụ khuyến nông và thú y: huyện Bác Ái đã tổ
chức tập huấn TOT cho 22 thú y viên. Đến nay, theo phản ánh của Trạm Khuyến nông
và Thú y huyện, trên 10 người vẫn đang hành nghề tốt. Một lý do là, ngoài bố trí giảng
viên giỏi cấp quốc gia, Oxfam còn tài trợ công cụ thực hành trong tập huấn nên học
viên được học và hành nắm vững vấn đề (hiệu quả hơn so với phương pháp “tập huấn
chay” trong các CT/DA của Nhà nước).
Hỗ trợ “phần cứng”:
o Cấp heo giống cho các hộ dân, hỗ trợ vật tư làm chuồng. HPN Thuận Bắc báo
cáo cuối năm 2012 đã cấp 181 con heo giống và tôn làm mái chuồng cho 128
hộ thành viên; đến nay, đàn heo đã tăng lên thành 334 con (tăng 54,2%). Năm
2013, huyện Bác Ái đã hỗ trợ cho 35 hộ xã Phước Tiến và 25 hộ xã Phước Tân
mỗi hộ 02 con heo trị giá 1 triệu đồng. Điều quan trọng là BQL hai xã đã cụ
thể hóa và triển khai tổ chức họp xét nhằm đảm bảo tính công bằng, đồng thời
ban hành quy chế chăn nuôi heo được hỗ trợ; tổ chức cho các hộ mua được heo
con giống đảm bảo chất lượng;
o Hỗ trợ tiêm văc xin lần đầu, thiến heo (đối với heo đực), bấm thẻ tai quản lý
heo;
o Phối hợp với tổ chức SPIN triển khai thí điểm các mô hình nuôi heo bán thả (1
tại Phước Tân và 1 tại Phước Tiến), kỹ thuật nuôi giun quế, kỹ thuật làm
chuồng bằng đệm lót sinh học, và cách ủ chua thức ăn cho heo; các mô hình
trồng rau cho chăn nuôi heo v.v.
o Hỗ trợ khởi nghiệp vốn kinh doanh cho các thành viên tích cực. Ví dụ: chị Sở
(bán bánh canh tại thôn Bà Râu 2, xã Lợi Hải), chị Đẹp (bán hoa quả ở thôn Bà
Râu 1, xã Lợi Hải); hỗ trợ cho 03 dự án kinh doanh (cửa hàng bánh mì, cửa
hàng rau, đồ thủ công mỹ nghệ xã Phước Tiến và cửa hàng cháo xã Phước
Tân), hỗ trợ bảng hiệu và trang thiết bị cho 2 hộ giết mổ heo Thuê-Lao (xã

Phước Tiến) và Chung-Liệu (xã Lợi Hải);
o Hỗ trợ thành viên tích cực của các nhóm tham gia hội chợ cấp huyện (Bác Ái)
và cấp tỉnh;
o Hỗ trợ biển quảng cáo chợ Phước Tiến, quảng bá heo đen ở Bác Ái và Thuận
Bắc.

Theo các đối tác được phỏng vấn, đóng góp quan trọng nhất của dự án là giúp thay đổi nhận
thức của một bộ phận người dân và phụ nữ Raglai ở 3 xã về sản xuất theo định hướng thị
24


trường, chuyển từ việc trao đổi sang mua bán sản phẩm nông nghiệp. Ví dụ: Người dân
không còn nuôi heo chỉ để trao đổi, thờ cúng hoặc thích thì bán như trước đây, mà đã biết mua
bán heo trên thị trường. Quan sát của nhóm đánh giá cho thấy các hộ thành viên ở Bác Ái
nuôi nhiều heo hơn ở Thuận Bắc (trung bình 5-7 con/hộ so với 2-3 con/hộ); mặt khác, các
thành viên nhóm ở huyện Thuận Bắc dường như biết hạch toán thu chi tốt hơn so với các
thành viên nhóm ở Bác Ái. Ví dụ: các thành viên nhóm Bà Râu 1 có thể hạch toán khá chi tiết
lợi ích mà heo giống dự án hỗ trợ mang lại cho nhóm như sau: “Ban đầu nhóm được hỗ trợ
21 con heo giống, sau 2 năm vẫn còn 10 con còn sống. Từ 21 con heo giống đã giúp tạo ra
được khoảng 100 con heo con. Heo con được nuôi 1-2 tháng rồi bán với giá 250-350
nghìn/con. Như vậy sau 2 năm đã tạo ra nguồn thu từ bán heo cho nhóm là khoảng 30 triệu
đồng (trung bình một hộ là 2 triệu đồng)”. Hay họ có thể thực hiện các kỹ năng thị trường
như: “Các thành viên nhóm hiện đều mạnh dạn đi chợ bán hàng hóa do gia đình sản xuất
được như gà, rau, bắp, mít... để có tiền mua lại các vật dụng cho gia đình và con cái. Nếu đi
bán gà thì được 500-600 nghìn đồng, bán rau thì được 100 nghìn đồng. Khi bán đã biết hỏi
hàng xóm hay các đại lý mua hàng để biết giá bán. Nếu bán nhiều có thể hỏi vài đại lý xem
giá ai mua cao hơn mới bán. Nếu bán gà thì có thể bán 1-2 con trước để xem giá thế nào rồi
mới bán cả đàn sau.”
Bảng 2.2 Bà con tự đánh giá, cho điểm các hoạt động của dự án
Chấm điểm

Hoạt động

(nhiều sao thì mức độ
hài lòng cao hơn)

Lý do

Tiếp cận thị trường

***

Hoạt động bổ ích

Lập kế hoạch

***

Hoạt động bổ ích

Bình đẳng giới

***

Hoạt động bổ ích

Bán hàng

***

Hoạt động bổ ích


Thiến heo

*

Sợ, không dám làm

Tiêm phòng bệnh cho heo

**

Cần tập huấn thêm

Ủ chua thức ăn cho heo

*

Chưa làm

Ủ phân chuồng

*

Ít người làm

Lót nền chuồng heo

**

Muốn được thực hành thêm


Nuôi giun quế cho heo ăn

*

Chưa có ai nuôi vì không có con giống

Ủ rơm cho bò

***

Hoạt động bổ ích

Trồng rau muống, chuối, cỏ
voi
***

Hoạt động bổ ích

Nguồn: Kết quả thảo luận nhóm Phụ nữ thôn Bà Râu I, xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc
25


×