Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.18 KB, 10 trang )

Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
Trong những năm gần đây, phê bình sinh thái nổi lên nh ư một h ướng
nghiên cứu được nhiều nhà khoa học quan tâm. Điều ấy không có gì l ạ khi
nhân loại đang phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng sinh thái nghiêm
trọng; quá trình đô thị hóa và sản xuất công nghiệp vừa vắt kiệt tài
nguyên, vừa gây ô nhiễm môi trường. Thứ nữa, từ giác độ nhân văn, s ự chia
tách con người khỏi môi trường đã làm méo mó nhân cách c ủa mỗi cá
nhân. Rất có thể, hội chứng vô cảm trong xã h ội hiện đ ại cũng b ắt ngu ồn
từ chỗ con người không còn biết rung cảm trước vẻ đẹp của tự nhiên, khi
mà ánh điện thành phố đã “vô hiệu hóa” ánh trăng, máy điều hòa không
khí đã làm thay chức năng của những làn gió mùa h ạ, và s ự kết n ối nguyên
sơ giữa con người với con người bị cắt đứt bởi internet đã tr ở thành kênh
giao dịch chủ yếu của cư dân mạng và con người đô th ị bị nh ốt ch ặt trên
các nhà hộp (building).
Một khái lược về phê bình sinh thái
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc t ừ ch ữ Hy L ạp, bao g ồm
oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết). Sinh thái học, vì thế, là h ọc
thuyết nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, và đối tượng nghiên c ứu
của bộ môn khoa học này là tất cả các mối tương tác gi ữa c ơ th ể sinh v ật
sống và môi trường. Từ chỗ là một bộ môn gắn liền với sinh học, sinh thái
học dần mở rộng, ảnh hưởng đến nhiều bộ môn khoa h ọc khác, trong đó
có khoa học xã hội và nhân văn.
Phê bình sinh thái xuất hiện như một phản ứng trước sự tàn phá môi
trường, quá trình đô thị hóa và sự mất cân bằng sinh thái đe d ọa s ự t ồn
vong của trái đất. Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha t ừ tr ước, nh ưng
phải đến những năm 70 của thế kỉ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản
Sinh thái học của văn học và chính thức đề xuất tên gọi sinh thái h ọc văn
học (literary ecology) thì các nhà nghiên cứu mới bắt đầu quan tâm đ ến
mối quan hệ giữa văn hóa, văn học và môi trường. Ngoài ra, có th ể k ể đến
một số công trình khác, chẳng hạn như Phê bình văn h ọc sinh thái. S ự


tưởng tượng lãng mạn và sinh học trí tuệ của Karl Kroeber, Hợp tuyển phê
bình sinh thái học: Những điểm nhấn trong sinh thái h ọc văn học c ủa
Cheryll Glotfellty và Harold Fromm... Vào năm 1992, Hội Nghiên cứu văn


học và môi trường được thành lập tại Đại học Nevada, Hoa Kì. T ừ đó tr ở
đi, văn sinh thái (ecolit) và phê sinh thái (ecocrit) xu ất hiện liên t ục trong
nhiều bài viết khác nhau. Phê bình sinh thái (văn hóa) t ừ đó nhanh chóng
trở thành hiện tượng toàn cầu. Giới nghiên cứu văn học Trung Quốc cũng
bắt đầu chú ý đến phê bình sinh thái với sự góp m ặt của m ột s ố h ọc gi ả
tiêu biểu như Đình Hiểu Nguyên, Lỗ Khu Nguyên...
Về bản chất, phê bình sinh thái ra đời bắt nguồn từ ph ản ứng l ại v ới
truyền thống coi con người là trung tâm, xem nhẹ, ph ủ nhận thiên nhiên,
theo đó, Ecological Literary Criticism chủ yếu quan tâm tới nội dung sinh
thái tự nhiên của văn học. Tuy nhiên, gần đây, khái niệm phê bình sinh thái
được mở rộng hơn, khi coi môi trường tinh th ần xã h ội cũng là m ột ki ểu
hệ sinh thái tác động đến văn học nghệ thuật.
Nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái hầu nh ư ch ưa được chú
ý nhiều ở Việt Nam. Hiện nay, mới xuất hiện một vài công trình v ề sinh
thái học, nhưng chủ yếu gắn liền với khoa học tự nhiên, bộ môn sinh h ọc
và nhân học văn hóa.(1) Một số bài viết và công trình của các h ọc gi ả n ước
ngoài đã bước đầu được dịch và giới thiệu, mà đáng chú ý h ơn cả là Sinh
thái học nhân văn của Georges Oliver (Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc H ải d ịch,
Nxb Thế giới, 1997, tái bản 2002). Riêng về phê bình sinh thái văn học thì
mới có những nốt dạo đầu là các công trình của Trần Đình S ử, Trịnh Bích
Liên, Đỗ Văn Hiểu, Nhã Thuyên... Việc giới thiệu về phê bình sinh thái ở
Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, thiếu tính hệ thống. Có th ể coi bài viết
Phê bình sinh thái - cội nguồn và phát triển của Đỗ Văn Hiểu trên T ạp chí
Nhà văn (số 11/2012) là bài tổng thuật công phu và đ ầy đ ủ nh ất v ề phê
bình sinh thái từ trước tới nay.

Nhìn chung, sau mấy thập kỉ xuất hiện, phê bình sinh thái vẫn đang trong
tiến trình vận động, nó chưa hề bị giới hạn, đóng khung trong phạm vi hay
phương pháp nào cả. Nhưng về đại thể, nghiên cứu văn học theo phê bình
sinh thái thực chất là hướng tiếp cận văn hóa học, tiếp cận liên ngành.
Giáo sư Đại học Harvard Karen L. Thonrber cho rằng, giai đoạn đ ầu phê
bình sinh thái đặc biệt chú ý đến văn học viết về đồng quê và ch ủ nghĩa
lãng mạn, thậm chí một số nhà nghiên cứu còn đồng nhất môi tr ường v ới
thiên nhiên; ở giai đoạn tiếp theo, sinh thái học lại quan tâm đến văn h ọc
viết về đô thị và công nghiệp hóa. Từ những năm 2000 tr ở lại đây, nh ững
giao điểm của phê bình sinh thái và nghiên cứu h ậu thuộc địa b ắt đ ầu


được quan tâm, và sự quan tâm này đã đánh dấu một n ấc thang m ới trong
việc tích hợp diễn ngôn về cái địa phương và cái toàn cầu.(2)
Tấm mạng sinh thái trong Thơ mới
Thơ mới, như chúng ta biết, chủ yếu nằm trong vòng phủ sóng của loại
hình thơ lãng mạn (ở giai đoạn sau, có sự hòa trộn v ới t ượng tr ưng, siêu
thực). Thời đại lãng mạn châu Âu ra đời cùng với th ời đ ại công nghi ệp và
quá trình đô thị hóa. Các nhà lập thuyết của chủ nghĩa lãng m ạn và n ền
tảng triết học của nó, trong khi quá say s ưa với s ự “chi ến th ắng” c ủa con
người, coi con người là trung tâm của vũ trụ đã d ần xa lánh và quên m ất
môi trường tự nhiên mà văn học dân gian đã từng chú trọng. Tuy nhiên, s ự
mơ mộng và chủ đề thiên nhiên vẫn có vị trí quan trọng trong th ơ lãng
mạn nói chung, Thơ mới ở Việt Nam nói riêng. Sự khác biệt giữa Th ơ m ới
và thơ truyền thống, về thiên nhiên, chủ yếu nằm ở chỗ, trong th ơ trung
đại và trước đó là thơ dân gian, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
là hòa đồng, gần gũi. Chẳng hạn: Thân em như chẽn lúa đòng đòng/ Ph ất
phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai (Ca dao) hay Lão tang diệp lạc tàm
phương tận/ Tảo đạo hoa hương giả chính phì/ Kiến thuy ết t ại gia b ần
diệc thảo/ Giang Nam tuy lạc bất như quy (Dâu già lá rụng tằm v ừa chín/

Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo/ Nghe nói ở nhà, d ẫu nghèo vẫn
tốt/ Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà) (Quy h ứng - Nguy ễn
Trung Ngạn)… Còn trong Thơ mới, thiên nhiên như một khách th ể th ẩm
mĩ để nhà thơ soi ngắm và hưởng thụ. Rất nhiều thi sĩ thể hiện sự tinh tế
tột bậc khi miêu tả thiên nhiên. Xuân Diệu từng có nh ững câu th ơ nh ư thế
này: Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh/ Cho gió du dương điệu múa cành/
Cho gió đượm buồn, thôi náo động/ Linh hồn y ểu điệu của đêm thanh
(Trăng). Và đây là những câu thơ của Hàn Mặc Tử: Trong làn nắng ửng khói
mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/
Trên giàn thiên lí - bóng xuân sang (Mùa xuân chín).
Như vậy, trong bản nguyên Thơ mới, những vần thơ về đồng quê thể hiện
tình yêu mà các thi sĩ dành cho thiên nhiên với tư cách Mẹ và v ới tư cách là
những vẻ đẹp thanh tân. Về phương diện nào đó, đây cũng chính là ý th ức
chống lại sự tàn phá môi trường của văn minh công nghiệp. Con h ổ trong
Nhớ rừng của Thế Lữ mang vẻ đẹp “hoài cổ” qua khối ẩn ức lớn dần vì ý
thức được sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa tự do và bị tước đo ạt
tự do, giữa tự nhiên hoang sơ rộng lớn và môi trường nhân tạo nh ỏ h ẹp.


Người đọc dễ dàng cảm nhận “khối sầu đô thị” của Xuân Diệu (Lời kĩ n ữ),
Vũ Hoàng Chương (Say), Đinh Hùng (Bài ca man rợ)... Ở nh ững bài th ơ này,
ta không được gặp một thứ thiên nhiên trong trẻo nh ư trong thi gi ới c ủa
Nguyễn Bính hay những nét văn hóa tươi tắn như trong thơ Tết của Đoàn
Văn Cừ... Vẻ đẹp của thiên nhiên trong Thơ mới còn được thể hiện rất
chân thực qua những “bức tranh quê” của nhóm thi sĩ đồng quê hay trong
thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Nam Trân... Những bức tranh ấy về sau có
thể sẽ trở thành những bảo tàng nghệ thuật, giúp con người thời kĩ trị tìm
được niềm thư thái, lấy lại được cân bằng khi thưởng ngoạn chúng.
Trong phê bình sinh thái, khái niệm nơi chốn có ý nghĩa quan tr ọng hàng
đầu bên cạnh ba mối quan tâm lớn là chủng tộc, giai cấp và giới.(3) Không

phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn đầu, trong cái nhìn c ủa các nhà sinh thái,
nơi chốn thể hiện sự tương giao, kết nối giữa lịch sử của con ng ười v ới
môi trường địa lí và vật lí mà con người hít th ở và ch ứng nghiệm. Nh ững
nghiên cứu về thơ Wordworth đều nhấn mạnh sự gắn bó giữa con người
với khu vực tự nhiên mà nhà thơ đã sinh sống. Còn nhắc đến John Clair,
người ta lại chú ý đến sự thân thuộc của thi sĩ lãng m ạn này v ới nh ững b ức
tranh phong cảnh đã biến mất của vùng Norham Scheier đ ầu th ế k ỉ XIX.
Cùng với sự mở rộng trường nghiên cứu, ở giai đoạn sau, từ việc chú ý đến
vùng sinh thái địa văn của khu vực, địa phương, các nhà sinh thái h ọc ti ến
đến nghiên cứu khu vực công nghiệp hóa và sự vắng khuyết của cái g ọi là
đô thị xanh trong xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp.
Trong Thơ mới, khái niệm nơi chốn được thể hiện khá đa dạng. N ơi chốn
có thể là nơi gắn bó lúc thiếu thời hay suốt cuộc đời, có thể là một quá
vãng tươi đẹp đã mất khiến nhà thơ không nguôi nỗi hồi cố, có th ể là n ơi
trú ngụ sau bao mệt mỏi tha hương... Như vậy, khái niệm n ơi ch ốn tr ước
hết là khái niệm mang tính vật lí, sau n ữa, là lãnh đ ịa tinh th ần trong m ối
giao cảm gắn bó với tự nhiên. Bầu trời, mặt đất, con đường, dòng sông,
áng trời chiều, ánh trăng thanh… đều trở thành không gian sinh thái c ủa
Thơ mới. Bên cạnh đó, một làn hương, một bước chuy ển mùa, th ậm chí,
một “xuân ý” vô hình cũng là không gian sinh thái được th ẩm th ấu và đ ược
biểu đạt tinh tế nhờ tình yêu thiên nhiên của chủ thể sáng tạo. Tuy nhiên,
biểu tượng tập trung nhất của mối quan hệ giữa con người v ới n ơi ch ốn
trong Thơ mới là vườn. Hầu như nhà Thơ mới nào cũng nói đến v ườn v ới ý
nghĩa là một thiên nhiên đầy hương sắc, sự sống. Hàn Mặc T ử: Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng m ới lên/ V ườn ai m ướt


quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Đây thôn Vĩ Dạ);
Nguyễn Bính: Thong thả dân gian nghỉ việc đồng/ Lúa thì con gái m ượt
như nhung/ Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/ Ngào ngạt h ương bay,

bướm vẽ vòng (Xuân về); Xuân Diệu: Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá/
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi/ Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ/ Im lìm,
không dám nói năng chi (Trăng); Huy Cận: Một buổi tr ưa không biết ở th ời
nào/ Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao/ Có cu gáy, có bướm vàng n ữa
chứ/ Mà đôi lứa đang bên vườn tình tự (Đi giữa đường th ơm)... Đây không
phải là những bức tĩnh vật mà là những sinh th ể thiên nhiên luôn chuy ển
động, cựa quậy. Thiên nhiên có thể bày ra hữu hình, có th ể ẩn giấu, vô
hình. Phải rất tinh tế thì các nhà Thơ mới mới có thể cảm nhận và h ữu
hình hóa những thứ (nhiều khi) vô hình ấy. Ở phương diện này, s ức quy ến
rũ của Thơ mới, theo tôi, chính là sự đan dệt khéo léo giữa cái h ữu hình và
cái vô hình của thiên nhiên, rồi đến lượt mình, thiên nhiên hô ứng hòa đi ệu
với con người. Đó là sự đan dệt để tạo nên những khoảng trống mà ng ười
tiếp nhận sẽ làm đầy nó bằng trường liên tưởng và kinh nghiệm th ẩm mĩ
cá nhân. Thử đọc một đoản khúc của Huy Cận sẽ thấy: Nắng chia n ửa bãi,
chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu/ Sợi buồn con nhện giăng
mau/ Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây (Ngậm ngùi).
Vườn trong Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa, dĩ nhiên, tr ước h ết
là một khái niệm mang tính địa lí, thậm chí, tính khu v ực, vùng mi ền h ắt
xuống khá rõ trong từng bức phong cảnh thiên nhiên. Ví nh ư có m ột x ứ
Huế thơ mộng trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, một miền quê Bắc
Bộ trong thơ Nguyễn Bính… Cũng có khi, vẻ đẹp ấy được nói đến m ơ h ồ
về địa chỉ, như trường hợp “buổi trưa không biết ở thời nào” trong không
gian Huy Cận, hay miền Thiên Thai ma mị tiếng sáo trong th ơ Thế L ữ, và
cả không gian lảng vảng hồn ma và những nấm m ồ trong thi gi ới Ch ế Lan
Viên... Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây là s ự gắn bó gi ữa con ng ười v ới
thiên nhiên, với vườn trong Thơ mới hàm chứa trong đó một ý ni ệm tinh
thần độc đáo. Việt Nam về cơ bản là một nước nông nghiệp, ngay c ả khi
đô thị hóa đã bắt đầu được mở rộng vào nửa đầu thế kỉ XX thì văn hóa
tiểu nông vẫn rất đậm nét. Vì thế, vườn bao giờ cũng gắn v ới văn hóa làng
với tư cách là không gian tinh thần và là nơi quy tụ nh ững m ối liên kết

giữa cá nhân và cộng đồng của các thôn dân. Nó hoàn toàn khác v ới văn
hóa đường phố là nơi cư ngụ (và lưu lạc) của những cá thể thị dân. Bởi
thế, đặc tính của làng là bình yên và trong trẻo, là n ơi có kh ả năng ch ữa


lành mọi vết thương tinh thần của những kẻ tha hương. Rộng h ơn, nó là
một phạm trù trong cặp phạm trù đối lập giữa một bên là nature (t ự
nhiên), natus (sự sinh ra, được sinh ra) và bên kia là nh ững s ản ph ẩm nhân
tạo của con người. Làng hay vườn, theo tinh thần ấy, là chốn cư ngụ, có
khả năng thuần dưỡng và tái tạo, tái sinh. Cảm thức về làng, v ườn nh ư
một địa chỉ cư ngụ, có khả năng làm vợi bớt chơ vơ trong nh ững ngày dan
díu với kinh thành, làm giảm thiểu niềm đau đắng tha h ương đặc bi ệt n ổi
bật trong thơ Nguyễn Bính. Thậm chí, sự khắc khoải kia trở nên quánh
đặc: Ở Ngự viên mà nhớ Ngự viên. Tôi nghĩ, có một phần làm nên chi ều
sâu của thơ Nguyễn Bính nằm ở đó, nơi ông hoài nhớ về những giá trị văn
hóa làng quê chứ không phải là sự luyến tiếc trật tự, tôn ti trong xã h ội
nông thôn. Đây cũng là nhân tố tạo nên màu sắc cổ tích trong th ơ Nguy ễn
Bính khi viết về quê cũ. Qua hoài niệm của thi sĩ, vẻ đẹp ấy hi ện lên t ừ
hoa bưởi, hoa cau, từ những âm vang của tiếng trống hội, s ự giăng mắc
của những hạt mưa xuân và của những giấc mơ quan Trạng...
Như thế, vườn, hay rộng hơn là thiên nhiên và thế giới tự nhiên trong th ơ
lãng mạn đã trở thành một điểm nhấn quan trọng khi lí giải m ối g ắn k ết
giữa lịch sử của mỗi cá nhân và nơi sinh thành nuôi dưỡng h ọ. “Sự tr ở v ề
với chủ nghĩa lãng mạn” và bài ca về vẻ đẹp thiên nhiên trong Th ơ m ới có
thể coi là “sự tưởng nhớ trái đất” của con người trong th ời đ ại nh ững cỗ xe
lửa đang phì hơi khói phủ đầy làng quê.
Tuy nhiên, trong trường mĩ học Thơ mới, bên cạnh nh ững cảm nh ận tuy
mãnh liệt, tinh tế nhưng vẫn còn “hiền lành”, Hàn Mặc Tử là m ột tr ường
hợp kì lạ bởi nhiều lúc thơ ông như đã “ra ngoài vòng nhân gian” (Hoài
Thanh), vượt khỏi những kinh nghiệm thẩm mĩ thông th ường. Dấu ấn c ủa

tư duy tôn giáo và thế cách trữ tình của một kẻ đau th ương tột độ cháy
bỏng đức tin là một trong những nhân tố tạo nên sự khác l ạ của th ơ Hàn
Mặc Tử. Vườn trong sinh thái thơ Hàn Mặc Tử, vì thế, có những chiều kích
kì vĩ, nơi lưu dấu những bước chân sáng thế và g ợi sự nguyên s ơ huy
hoàng của vũ trụ. Cuộc viễn du của Hàn Mặc T ử lên miền th ượng gi ới
vượt khỏi mường tượng của nhiều thi sĩ cùng th ời, nhất là khi đi ều đó ăn
sâu vào quan niệm nghệ thuật của ông: “Ai nói vườn trăng là v ườn m ơ. Ai
nói bến mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo.
Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Ng ười là m ơn
trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm dây quy ến luy ến – làm bằng êm dịu,
làm bằng thanh bai... Gió phương mô đẩy Người đến bến bờ xa lạ, đ ầy


trinh tiết và đầy thanh sắc. Người dừng lại để hái những lá tinh hoa. Ng ười
nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang nh ư tiếng châu báu v ỡ l ở. À, ra
Người cũng dại dột hốt vàng rơi bọc trong vạt áo. Trí Người đã dâng cao và
thơ Người dâng cao hơn nữa. Thì ra Người đang say sưa đi trong Mơ Ước,
trong Huyền Diệu, trong Sáng Láng và vượt ra hẳn ngoài H ư Linh...” (T ựa
Đau thương).(4)
Ở đây, vườn, với không gian trăng, sao, hoa cỏ, sông Ngân... có ý nghĩa nh ư
một thiên đường, nhưng lại thấp thoáng nhiều chi tiết của cuộc sống tr ần
thế. Thậm chí, có cả nỗi đau cơm áo, tình duyên: Trời h ỡi! Nh ờ ai cho kh ỏi
đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn/ Làm sao giết đ ược người trong m ộng/
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng? (Lang thang). Rõ ràng, v ườn, hay r ộng
hơn là vũ trụ cao xanh trong cái nhìn nghệ thuật c ủa Hàn M ặc T ử không
hẳn là thiên giới, là vườn trong cái nhìn tôn giáo thuần túy mà là m ột th ế
giới cao đẹp trong tưởng tượng có ý nghĩa thỏa mãn được khát khao v ượt
khỏi hư linh và xoa dịu nỗi đau trần thế của nhà thơ.(5)
Tóm lại, tấm mạng sinh thái trong Thơ mới đã được các thi sĩ th ời đại này
khám phá, biểu đạt hết sức tinh vi và phong phú. Cho dù trí t ưởng t ượng

của họ có vượt thoát ra khỏi hư linh thì cuối cùng, trong th ẳm sâu tâm h ồn
họ vẫn là nỗi mê đời, niềm khát sống, khát yêu. Thì ra trong nhãn quan
nghệ thuật của họ, thiên đường không ở đâu xa xôi mà hiện h ữu ngay
trong cõi thế đầy bí ẩn này.
Vạn vật hữu linh
Tư tưởng này có lẽ là một trong những tư tưởng gần gũi nh ất khi nói v ề
thiên nhiên, môi trường trong thơ lãng mạn. Theo đó, tự nhiên không chỉ là
môi trường địa lí mà tất cả những sự vật, hiện tượng trong đó đ ều mang
chứa linh hồn. Có lẽ, màu sắc duy lí của th ơ lãng m ạn đã ph ần nào h ạn ch ế
vấn đề này khi nó bị giới hạn bởi chính tư tưởng con ng ười là trung tâm
của vũ trụ. Nhưng tôi nghĩ, sự giao hòa bí ẩn của t ự nhiên đ ược miêu t ả
trong Thơ mới cũng là biểu hiện linh hồn của đất Mẹ, và chính nó, bi ểu
đạt sự sinh tồn của thế giới. Hãy lắng nghe điều đó từ cảm nh ận c ủa Xuân
Diệu trong Thơ duyên:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền


Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
Cái phong tình của chàng trai quê cũng đ ược Nguy ễn Bính ví nh ư s ự giăng
mắc của cỏ may trong Hoa cỏ may:
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em.
Dĩ nhiên, việc cấp cho thiên nhiên những niềm giao cảm mang đặc tính
người, hoặc coi thiên nhiên như phông nền của sự hòa đi ệu gi ữa ng ười người và người - vật là biểu hiện tinh thần duy lí trong th ơ lãng m ạn, cho
dù thơ lãng mạn là tiếng nói tràn bờ của cảm xúc. Nhưng điều quan trọng
là thơ về thiên nhiên, về đồng quê trong Thơ mới đã thiết tạo một cấu
trúc mới, trong đó, thiên nhiên không bất động mà luôn luôn chuy ển đ ộng.
Sự chuyển động ấy có thể mang khuôn mặt của sự úa tàn (vốn là một nét

yêu thích của mĩ học lãng mạn), có thể mang s ự cường tráng hay n ỗi say
mê, hoặc có thể là một hoài nhớ về vườn địa đàng và vẻ xuân thì trong
ngôn ngữ mang màu sắc nhục thể (thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích
Khê...). Nhưng tất thảy, chúng hiện lên như hàng chuỗi kí hiệu biểu đ ạt các
sắc màu khác nhau của sự sống. Sự sống ấy luôn gắn liền với mặt đất,
trần thế. Bản thân sự giao hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ với thiên nhiên, th ậm
chí với cả những vẻ “đẹp xưa” đã mất dấu, theo ý nghĩa này, cũng có th ể
coi là sự giao cảm của những linh hồn, giữa quá kh ứ và hiện t ại, gi ữa còn
và mất.
Thiên nhiên trong Thơ mới có cả niềm côi cút, chia li. S ự côi cút ấy b ắt đ ầu
từ con người: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu trong m ối
liên hệ sâu xa với nỗi cô đơn trong linh h ồn t ạo v ật: L ơ th ơ c ồn nh ỏ gió
đìu hiu/ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều trong th ơ Huy Cận. L ại có nh ững
rạn vỡ ghê rợn: Gió rít tầng cao trăng ngã ng ửa/ V ỡ tan thành máu đ ọng
vàng khô trong thơ Hàn Mặc Tử. Nghĩa là hỉ, nộ, ái, ố đều có, quá trình sinh
- hóa, hóa - sinh đều có trong thiên nhiên Thơ mới.
Thi pháp Thơ mới là thi pháp “lộn trái”, lấy tơ lòng c ủa ch ủ th ể làm ch ất
liệu chính. Nhưng trong cái nhìn nghệ thuật của các nhà Th ơ m ới, thiên
nhiên luôn có một địa vị quan trọng, nối con người với nơi chốn c ưu mang,
cân bằng sinh thái con người trong tuyệt vọng, an ủi và tái t ạo con ng ười


trước sự tinh khôi của Mẹ Đất. Xa hơn, những vần thơ viết về thiên nhiên,
tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết gi ữa con
người với môi trường nhân tính của tự nhiên, bằng chính ngôn ngữ của t ự
nhiên, bằng thứ ngôn ngữ trong trẻo và nhiều khi tràn đầy d ục tính, vì b ản
chất của dục tính là “lực sống” (S. Freud). Đó là một l ộ trình thanh t ẩy, m ột
phương thức tái cấu trúc nhân cách, ngăn cho con người không tr ượt vào
con đường tha hóa. Tôi nghĩ, đây chính là một biểu hiện về tính nhân văn
của Thơ mới, mà ở bài viết này, chỉ mới là những vén mở ban đầu

N.Đ.Đ
-----1. Chẳng hạn, năm 2007, quyển Việt Nam đất nước con người (Lê Thông
chủ biên) do Nxb Giáo dục ấn hành đã ít nhiều đề cập đến môi trường đ ịa
lí nhân văn mặc dù trọng tâm của quyển sách này là giới thiệu, quảng bá
hình ảnh Việt Nam. Năm 2011, Nxb ĐHSP Hà Nội ấn hành công trình Môi
trường và con người sinh thái học nhân văn (Vũ Quang Mạnh chủ biên)
cũng dành trang viết cho con người trong môi sinh của nó…
2. Bài viết này của tôi được gợi hứng từ bài thuy ết trình của Karen L.
Thonrber tại Viện Văn học (Việt Nam) năm 2011, và gần đây là m ệnh đ ề
“trở về với chủ nghĩa lãng mạn” của Kate Rigby. Trong bài vi ết này, tôi
muốn tiếp cận Thơ mới từ sinh thái học văn hóa như một quan tâm b ước
đầu. Xin cảm ơn bạn Đặng Thị Thái Hà, nghiên cứu viên Viện Văn h ọc đã
cung cấp tư liệu về công trình của Kate Rigby. Vấn đề n ữ quy ền lu ận và
hậu thuộc địa gần đây cũng được giới nghiên cứu văn học quan tâm. Có
thể kể đến một số dịch phẩm, nghiên cứu và giới thiệu: Edward W. Said:
Đông phương học (Lưu Đoàn Huynh, Phạm Xuân Di, Trần Văn T ụy dịch,
Nxb Chính trị quốc gia, H., 1997); Phương Lựu: Lí luận phê bình văn h ọc
phương Tây thế kỉ XX (Nxb Văn học, H., 2001); Nguy ễn H ưng Qu ốc: M ấy
vấn đề phê bình và lí thuyết văn học (Nxb Văn m ới, California, 2007);
Cynthia Freeland: Một đề dẫn về lí thuyết nghệ thuật (Nh ư Huy d ịch, Nxb
Tri thức, H., 2010)…
3. Từ ba vấn đề cốt yếu này, Karen L. Thornber trong bài thuy ết trình đã
nói ở trên cho rằng phê bình sinh thái đã mở rộng sang nhiều h ướng khác
nhau. Giờ đây, người ta có thể nói đến chủ nghĩa sinh thái và công bằng


môi trường, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái, chủ nghĩa sinh thái h ậu thu ộc
địa...
4. Dẫn theo Thơ mới 1932-1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân ch ủ
biên, Nxb Hội Nhà văn, H., 1998, tr.151.

5. Chevalier – Alain Gheerbrant giải thích: “Vườn là m ột bi ểu t ượng c ủa
Thiên đường trên mặt đất, của Vũ trụ mà vườn là trung tâm, của Thiên
đường mà vườn là hình tượng, của các trạng thái tinh thần nh ư lúc đ ược
sống trên Thiên đường” (Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà
Nẵng, 2007, tr.1104). Cũng xin lưu ý thêm giải thích c ủa các tác gi ả: Trong
Sáng thế, Thiên đường trên mặt đất là một khu vườn, Adam là ng ười làm
vườn, “còn thành Jésusalem trên trời của ngày tận thế sẽ là m ột thành
phố”. Như vậy, đô thị rất dễ trở thành nguyên nhân tận diệt hệ sinh thái t ự
nhiên. Có lẽ vì thế mà trong thơ lãng mạn, từ môi trường đô th ị, con ng ười
hoài nhớ về vẻ đẹp nguyên sơ của tự nhiên và quá khứ nh ư kí ức về m ột
thiên đường đã mất.



×