2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực, không có tranh
chấp về số liệu, thông tin, tài liệu; tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời
cam đoan của bản thân.
TÁC GIẢ
NCS NGUYỄN ĐĂNG TUYÊN
3
MôC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
5
10
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phẩm
chất chính trị và phát triển phẩm chất chính trị của cán bộ,
chiến sĩ quân đội
1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phẩm
10
chất chính trị và phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan
kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
19
đã công bố và những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
30
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT
TRIỂN PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CỦA SĨ QUAN KỸ
THUẬT CẤP PHÂN ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
34
2.1. Thực chất phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ
thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2. Đặc điểm phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ
34
thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
50
Chương 3 THỰC TRẠNG PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CỦA SĨ QUAN KỸ
THUẬT CẤP PHÂN ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
66
3.1. Thực trạng phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân
đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát triển phẩm chất chính trị
của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân
66
88
4
Việt Nam hiện nay
Chương 4 DỰ BÁO NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU PHÁT
TRIỂN PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CỦA SĨ QUAN
KỸ THUẬT CẤP PHÂN ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
101
4.1. Dự báo nhân tố tác động đến phát triển phẩm chất chính trị
của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
101
4.2. Yêu cầu phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật
cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
113
Chương 5 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT
CHÍNH TRỊ CỦA SĨ QUAN KỸ THUẬT CẤP PHÂN
ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
126
5.1. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, huấn luyện, bồi
dưỡng sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội hiện nay
126
5.2. Nâng cao ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện phẩm chất chính
trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội hiện nay
140
5.3. Xây dựng và phát huy vai trò môi trường văn hoá chính trị
nhằm phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp
phân đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
150
159
161
162
174
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của phẩm chất chính trị đối với
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phẩm chất chính trị là thành tố cơ bản và đặc biệt quan trọng trong nhân
cách của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội, thực tiễn hơn 73 năm xây dựng, chiến
đấu, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, do
luôn giữ vững phẩm chất chính trị nên sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội luôn trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành tốt và xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Quân
đội, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới về xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát huy phẩm chất “Bộ đội
Cụ Hồ”, nhất là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị đang đặt ra thách
thức không nhỏ đối với sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong bối cảnh tình hình
thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường,
đặc biệt là tình hình trên biển Đông. Quân đội phải chủ động, tích cực tham gia
đối ngoại quốc phòng, sẵn sàng đối phó với chiến tranh vũ khí công nghệ cao
của các thế lực thù địch liều lĩnh gây ra. Cùng với Đảng, Nhà nước giải quyết
tốt các mối quan hệ với các nước, thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, ngăn chặn đẩy lùi các thách thức an ninh phi truyền thống, tham gia lực
lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, v.v..
Xuất phát từ tình hình còn hạn chế, thiếu sót về phẩm chất chính trị của
sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 phát triển hết sức mạnh mẽ; sự tác động của mặt trái nền kinh tế
thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị;
một bộ phận sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội có biểu hiện tuyệt đối hóa vai trò
của khoa học kỹ thuật, coi nhẹ các vấn đề chính trị - xã hội; để lộ lọt thông
6
tin, bí mật quân sự. Phẩm chất chính trị của họ có mặt chưa đủ trình độ để xử
lý những “thông tin nhiễu, phản động” của các thế lực thù địch, cơ hội chính
trị đạt hiệu quả. Đặc biệt, một số sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội có biểu hiện sa
sút về đạo đức, lối sống, chấp hành kỷ luật chưa nghiêm, gây ảnh hưởng đến
chất lượng chính trị, bản chất, truyền thống, sức mạnh chiến đấu của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Vấn đề phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội
chưa có luận án, công trình nào nghiên cứu. Việc nghiên cứu vấn đề phát triển
phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội đặt ra hết sức cấp thiết
hiện nay. Vì vậy, tác giả xác định vấn đề: “Phát triển phẩm chất chính trị của
sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận án tiến sĩ, góp phần làm sáng rõ hơn vấn đề nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực
tiễn và đề xuất giải pháp phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật
cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng
Quân đội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ thực chất, đặc điểm phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan
kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phẩm chất chính trị, chỉ rõ nguyên nhân, luận giải
những vấn đề đặt ra đối với phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật
cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Dự báo nhân tố tác động và xác định yêu cầu phát triển phẩm chất chính
trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển phẩm chất chính trị của sĩ
quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
7
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực trạng phẩm chất chính trị và giải pháp phát triển phẩm chất chính trị
của một đối tượng cụ thể: Sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội ở các đơn vị cơ sở
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Thời gian sử dụng tài liệu và điều
tra, khảo sát thực tế phục vụ nghiên cứu luận án chủ yếu từ năm 2011 đến nay.
Đối tượng tập trung khảo sát, điều tra và lấy số liệu ở một số đơn vị: Lữ đoàn
80 - Quân khu IV; Sư đoàn 371 và Lữ đoàn 26 - Quân chủng Phòng không Không quân; Trung tâm 47 - Bộ Tham mưu - Quân chủng Hải quân; Lữ đoàn
21 - Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tâm Kỹ thuật thông tin công
nghệ cao - Binh chủng Thông tin; Lữ đoàn 45 - Binh chủng Pháo Binh; Lữ
đoàn 201 - Binh chủng Tăng Thiết giáp.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án: Hệ thống các quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Các nghị quyết, chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng
cục Chính trị về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, nhất là yêu cầu, tiêu
chuẩn về phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật trong Quân đội nhân dân
Việt Nam và các công trình khoa học có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận án: Tình hình phẩm chất chính trị của sĩ
quan kỹ thuật cấp phân đội. Những biến động diễn ra trên thế giới, khu vực,
trong nước và Quân đội liên quan đến phát triển phẩm chất chính trị của sĩ
quan kỹ thuật cấp phân đội. Các báo cáo, nghị quyết Đại hội Đảng nhiệm kỳ
2015 - 2020 của đảng bộ các quân chủng, một số binh chủng và một số đảng
bộ trực thuộc các đơn vị này. Kết quả thâm nhập thực tế của tác giả thông
qua một số hoạt động như: trao đổi với lãnh đạo, chỉ huy và sĩ quan kỹ thuật
8
cấp phân đội ở một số lữ đoàn và trung tâm kỹ thuật. Giao lưu với sĩ quan kỹ
thuật cấp phân đội một lữ đoàn (tại hội trường); dự giao ban cơ quan kỹ
thuật của một lữ đoàn bảo đảm kỹ thuật; điều tra xã hội học các đơn vị xác
định trong phạm vi nghiên cứu đề tài luận án. Ngoài ra, tác giả còn nghiên
cứu, tham khảo các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án; trên
cơ sở những tài liệu thực tế đó, tác giả đánh giá thực trạng phẩm chất chính
trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay và đề xuất các giải pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án được nghiên cứu dưới góc độ triết
học, chủ yếu sử dụng hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; ngoài ra còn sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác như: lôgíc và lịch sử, hệ thống và cấu trúc,
phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, điều tra xã hội học và
xin ý kiến chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm và luận chứng đặc điểm phát triển phẩm chất chính
trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam; khái
quát một số vấn đề đặt ra đối với phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ
thuật cấp phân đội; xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển
phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án cung cấp những luận cứ khoa học, cơ sở dữ liệu
góp phần xây dựng tiêu chí, yêu cầu về phẩm chất chính trị đối với sĩ quan kỹ
thuật cấp phân đội; đồng thời, bổ sung và phát triển lý luận về phát triển phẩm
chất chính trị của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, v.v..
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan
kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Luận án
9
dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác quản lý, xây dựng đội ngũ sĩ
quan kỹ thuật cấp phân đội. Ngoài ra, còn phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam và những
người quan tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 5 chương (12 tiết), kết luận, danh mục các
công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phẩm chất
chính trị và phát triển phẩm chất chính trị của cán bộ, chiến sĩ quân đội
1.1.1. Những công trình khoa học liên quan đến phẩm chất chính trị
của cán bộ, chiến sĩ quân đội
Công trình “Bản lĩnh chính trị Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới” [78]
được tuyển chọn từ những bài viết, bài phát biểu của tác giả Phạm Thanh
Ngân (1999), đã luận giải khá sâu sắc về bản lĩnh chính trị đối với cán bộ,
đảng viên trong Quân đội. Tác giả cho rằng: Lập trường, bản lĩnh chính trị
phải dựa trên cơ sở khoa học và được thể hiện ở phẩm chất của cán bộ, chiến
sĩ trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Bản
lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ hiện nay là cần nắm vững và vận dụng sáng
tạo trên cơ sở khoa học những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng vào nhiệm vụ xây dựng Quân
đội, củng cố quốc phòng. Bản lĩnh chính trị vững vàng là sức mạnh ngăn
chặn, đẩy lùi “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với người đảng viên cộng sản là sự hy
sinh phấn đấu nâng cao giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, dù trong hoàn
cảnh nào cũng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, không được buông lỏng
việc rèn luyện phẩm chất đạo đức và lối sống của mình.
Công trình “Xây dựng bản lĩnh chính trị cho bộ đội hóa học làm nhiệm
vụ phòng chống bạo loạn lật đổ trong tình hình hiện nay” [5] của Binh chủng
Hoá học (2003), các tác giả công trình nhấn mạnh, nhờ có bản lĩnh chính trị
vững vàng mà bộ đội hóa học đã vượt qua mọi khó khăn thử thách khắc
nghiệt, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần duy trì sức mạnh chiến đấu cho các
lực lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn, bảo vệ môi trường sinh
thái phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
11
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp,
bất ổn khó lường; sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ đang đe dọa hòa bình, ổn định và phát triển đất nước. Là
một bộ phận trong lực lượng phòng chống bạo loạn, để hoàn thành nhiệm vụ
của mình, bộ đội hoá học phải nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ theo chức
trách, giải quyết có hiệu quả các vấn đề đặt ra, một trong những nội dung quan
trọng là xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng. Các tác giả công trình này đã
đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị cho bộ đội
hoá học làm nhiệm vụ phòng chống bạo loạn, trong đó việc thường xuyên quán
triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, đề cao cảnh giác đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo chống phá cách mạng nước ta là giải pháp rất quan trọng.
Công trình “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” [15] của tác giả Lê Văn Dũng (2004), đã bàn
về cấu trúc bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt
Nam, chỉ ra hạn chế; đưa ra yêu cầu mới và đề xuất một số giải pháp khắc
phục sự yếu kém trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tác giả
khẳng định: Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta là sự kết tinh
các giá trị chính trị - tinh thần của nhân cách quân nhân, sự tổng hợp các
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tâm lý chính trị và các năng lực
chính trị bền vững, ổn định đảm bảo cho họ có khả năng vững vàng, kiên
định trước những tác động phức tạp của tình hình chính trị - xã hội để hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Công trình “Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt động thực tiễn
của cán bộ chủ trì công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị cơ sở” [103] của
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2005). Trong công trình
này, trên cơ sở luận giải hai mặt đức - tài của người cán bộ chủ trì công tác
đảng, công tác chính trị là bản lĩnh chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn,
tác giả khẳng định: Bản lĩnh chính trị của cán bộ chủ trì công tác đảng, công
tác chính trị là phẩm chất chính trị đã được phát triển ở trình độ cao, được tôi
12
luyện trong thực tiễn, có giá trị ổn định, bền vững, không dao động trước
những hoàn cảnh khó khăn và những tác động từ bên ngoài, giúp họ trong
những điều kiện khắc nghiệt luôn chủ động, đưa ra những quyết định đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn.
Công trình “Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” [94] do tác giả Trần Thành
(2006) làm chủ biên, đã luận giải về mối quan hệ giữa bản lĩnh chính trị với
năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Tác giả cho
rằng, bản lĩnh chính trị và năng lực có mối quan hệ biện chứng và thống nhất
với nhau về bản chất, thể hiện ở thái độ và hiệu quả giải quyết công việc của
người cán bộ lãnh đạo quản lý; mỗi bản lĩnh chính trị có chứa nội dung trong
đó là năng lực, chính năng lực là cơ sở tồn tại của bản lĩnh chính trị định hướng
giá trị tích cực, tiến bộ. Sự thống nhất giữa bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh
đạo, quản lý là yêu cầu cơ bản, tất yếu để người cán bộ thực hiện và hoàn thành
tốt nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Công trình “Nâng cao bản lĩnh cá nhân của sĩ quan trẻ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” [14] của tác giả Dương Quốc Dũng (1999) khẳng
định: Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng phải đòi hỏi nâng cao bản lĩnh cá
nhân của sĩ quan trẻ, xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ có đủ bản lĩnh nhằm phát huy
nội lực từ mỗi người, để họ đảm nhiệm một cách tốt nhất chức trách. Hoàn thiện
và phát triển nhân cách của mình, có một đội ngũ sĩ quan trẻ như thế là điều kiện
để xây dựng bản lĩnh chính trị và sức mạnh chiến đấu của phân đội.
Đề tài luận án đã luận giải khái niệm, cấu trúc, bản chất, vai trò, đặc
điểm; chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và mâu thuẫn cơ bản trong quá trình
nâng cao bản lĩnh cá nhân của sĩ quản trẻ trong tình hình hiện nay. Tác giả
khẳng định: Bản lĩnh cá nhân của sĩ quản trẻ là sự kết tinh những phẩm chất
xã hội cơ bản của sĩ quan trẻ, bảo đảm cho sĩ quản trẻ làm chủ cuộc sống và
13
hoạt động trên cương vị lãnh đạo, chỉ huy phân đội. Tác giả đưa ra 3 nhóm
giải pháp: Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; dân chủ hoá xã hội chủ
nghĩa môi trường xã hội của sĩ quan trẻ; tăng cường rèn luyện sĩ quan trẻ
trong thực tiễn.
Công trình “V.I. Lênin với vấn đề đề nâng cao bản lĩnh chính trị và trình
độ trí tuệ của người cộng sản” [95] của tác giả Nguyễn Đức Thắng (2016)
khẳng định: Ngay sau cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô
Viết vừa ra đời do V.I. Lênin lãnh đạo đã phải đối mặt khó khăn thách thức rất lớn
đó là sự bao vây của 14 nước đế quốc cấu kết với lực lượng phản cách mạng
trong nước mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt nước Nga Xô - Viết. Những nguy
cơ mới do các phần tử cơ hội tìm mọi cách chui vào bộ máy đảng và chính
quyền nhà nước để trục lợi. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lây nhiễm bệnh
“kiêu ngạo cộng sản”, sa sút về lập trường, bản lĩnh chính trị, quan liêu hóa,
thiếu trung thực, thoái hóa biến chất, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân.
Để bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, V.I. Lênin đặc biệt
quan tâm đến xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, Người rất
chú trọng vấn đề nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ cho đội ngũ
đảng viên. Người chỉ rõ: “Những người bôn sê vích sẽ không giữ vững được
chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng
rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm
minh, kỷ luật sắt thực sự” [57, tr. 6]. V.I. Lênin đòi hỏi mỗi người cộng sản
phải ra sức tự học tập, rèn luyện, làm cho học thức không nằm trên giấy hoặc
là một lời nói theo mốt nữa, mỗi đảng viên cộng sản phải chấp hành nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững bản lĩnh chính trị trong đấu tranh với
các phần tử cơ hội, xét lại để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chính quyền Nhà nước.
Công trình “Bản lĩnh và trí tuệ Hồ Chí Minh trong việc vượt qua những
thách thức lịch sử” [1] của tác giả Phạm Ngọc Anh (2017) khẳng định: Bản
lĩnh Hồ Chí Minh là “một bản lĩnh sống, bản lĩnh làm người và kết tinh lại ở
14
tầng sâu nhất, bền vững và sáng chói - bản lĩnh văn hóa” [1, tr. 21], bản lĩnh Hồ
Chí Minh được thôi thúc và định hình từ truyền thống của một gia đình sĩ phu,
khoa bảng, được hun đúc từ truyền thống dân tộc, ra đi tìm đường cứu nước
với hai bàn tay và nghị lực phi thường được nung nấu từ trái tim yêu nước
mãnh liệt của người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh).
Với bản lĩnh có một không hai, một trí tuệ mẫn tiệp, một nền học vấn
uyên bác, uyên thâm, Hồ Chí Minh đã tìm cách vượt qua đầy nghệ thuật,
vững vàng chèo tay lái con thuyền giải phóng, chấn hưng, phát triển dân tộc
đến bến bờ hạnh phúc của nhân dân. “Bản lĩnh Hồ Chí Minh kết thành giá trị,
có sức phát sáng, bởi nó hàm chứa trong đó tính hợp lý, hợp quy luật, được
xây dựng trên nền tảng của tri thức khoa học về sự vận động của lịch sử, của
tự nhiên, xã hội, con người, nhất là quy luật của lòng dân” [1, tr. 24].
Công trình “Nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ giảng viên các
trường công an nhân dân” [53] của tác giả Ngô Thị Khánh (2017) khẳng định:
“Bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên có ảnh hưởng trực tiếp tới bản lĩnh
chính trị các thế hệ học viên và ý thức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ,
chiến sĩ trong lực lượng công an nhân dân” [53, tr. 80]. Trong công trình này,
tác giả luận giải ba biểu hiện về bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên các
trường công an nhân dân. Trên cơ sở thực trạng, tác giả đưa ra một số biện
pháp: Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng, đội ngũ cán
bộ chủ chốt. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho đội ngũ giảng viên,
tăng cường rèn luyện đội ngũ giảng viên trong thực tiễn. Phát huy tính tích cực
tự bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ giảng viên
trong các trường công an nhân dân.
1.1.2. Những công trình khoa học liên quan đến phát triển phẩm
chất chính trị của cán bộ, chiến sĩ quân đội
15
Ở Liên Xô có công trình “Nhân tố tinh thần trong chiến tranh hiện
đại” (gồm 9 chương/ 4 quyển) [46] của Học viện Quân chính Lênin (1960).
Trong tác phẩm này, các tác giả đã bàn sâu về thực chất, vai trò của nhân tố
tinh thần chính trị trong chiến tranh hiện đại; trong đó, tác giả so sánh sự khác
nhau về chất giữa nhân tố tinh thần chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa
với nhân tố tinh thần chính trị của các nước đế quốc xâm lược. Tác giả khẳng
định: Nhân tố tinh thần chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa là của quần
chúng, của toàn dân, của toàn thể lực lượng vũ trang và từng cán bộ, chiến sĩ.
Sức mạnh, nguồn gốc, động lực của nhân tố này xuất phát từ bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò của Đảng Cộng sản, lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lòng tự hào về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và mỗi dân tộc. Bàn về
xây dựng, phát triển nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ cán bộ, sĩ quan,
các tác giả khẳng định: “Sĩ quan phải không ngừng học tập, nâng cao tri thức
quân sự, chính trị của mình, bền bỉ trau dồi, nắm vững lý luận Mác - Lênin thì
mới làm tròn được trách nhiệm nặng nề quan trọng ấy. Và điều ấy hoàn toàn
đúng quy luật [46, tr. 64].
Công trình “Hình thành niềm tin cộng sản cho thế hệ trẻ” [120] của tác
giả VA. Xukhômlinxki (1978). Thế hệ trẻ trong công trình này tác giả chủ yếu
bàn về học sinh phổ thông từ lớp I đến lớp XI, tác giả nhấn mạnh: Để hình
thành niềm tin, quá trình giáo dục kết hợp nhà trường với xã hội, lý luận với
thực tiễn, học đi đôi với hành, thông qua đó hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ
vào tương lai, vào chế độ cộng sản chủ nghĩa. Niềm tin là động lực giúp con
người vượt qua mọi khó khăn để xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Đặc biệt, tác giả đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa trí tuệ và đạo
đức ở thế hệ trẻ, tác giả nhấn mạnh: Sự phát triển về mặt trí tuệ phải phục tùng
sự phát triển về mặt đạo đức, làm cho mặt đạo đức thêm sâu sắc [120, tr. 155].
Công trình “Đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển phẩm chất
chính trị của thanh niên quân đội ta trong giai đoạn hiện nay” [89] của tác giả
16
Nguyễn Văn Quyết (1990) đã luận giải vai trò, đặc điểm, thực chất, tính cấp
thiết, phương hướng và những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh quá trình hình
thành và phát triển phẩm chất chính trị của thanh niên quân đội. Tác giả khẳng
định: Thực chất của việc đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển phẩm
chất chính trị của thanh niên quân đội là sự tích cực hóa quá trình đó, khắc
phục tình trạng trì trệ dưới mọi biểu hiện khác nhau, trước hết là chủ thể lãnh
đạo, quản lý (tổ chức đảng, đoàn, cơ quan chính trị, cán bộ chỉ huy, cán bộ
chính trị…) tác động chủ động, tích cực, tự giác, có định hướng đến đối tượng
(chiến sĩ trẻ) và biến sự tác động này của chủ thể thành nhu cầu bên trong của
đối tượng, để sớm tạo nên sự chuyển biến về chất lượng phẩm chất chính trị
cho chiến sĩ trẻ trong thời gian mỗi khóa nghĩa vụ quân sự.
Công trình “Nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân của Quân đội
nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới” [65] của tác giả Dương
Văn Lượng (1994) khẳng định: Quân nhân mới vào Quân đội chưa thể có
ngay phẩm chất chính trị mà phải qua quá trình giáo dục, rèn luyện. Phẩm
chất chính trị bao gồm ý thức chính trị và hành vi chính trị. Phẩm chất chính
trị quân nhân là phẩm chất chính trị của giai cấp công nhân, phản ánh tập
trung bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội;
lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và lợi ích
của dân tộc Việt Nam. Phẩm chất chính trị có vai trò rất quan trọng trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.
Trong công trình này, tác giả chỉ ra nhân tố tác động, khái quát thực
trạng, làm rõ yêu cầu, nội dung mới của phẩm chất chính trị quân nhân trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế. Đồng thời, tác giả đưa ra một số giải
pháp nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân trong tình hình mới như: Xây
dựng nền tảng chính trị - tư tưởng vững chắc, thống nhất trong toàn quân theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng các tập thể quân nhân ở cơ sở vững
17
mạnh toàn diện, tổ chức tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần. Xây dựng các tổ
chức đảng và đoàn thanh niên trong quân đội vững mạnh. Tích cực, chủ động
đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hóa, chống lại hệ tư tưởng tư sản, phản động,
bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, ngăn chặn có hiệu quả các tác động tiêu cực từ ngoài xã
hội thẩm thấu vào quân đội, làm trong sạch môi trường chính trị và lành mạnh
hoá các quan hệ xã hội trong Quân đội.
Công trình “Phát triển đạo đức cách mạng của thanh niên Quân đội
nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay” [81] của tác giả Nguyễn Hùng
Oanh (2002) đã luận giải đặc trưng bản chất và một số vấn đề có tính quy
luật trong quá trình phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội ta.
Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, tìm ra mâu thuẫn, đưa ra yêu cầu
và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển đạo đức cách mạng ở thanh
niên quân đội hiện nay. Đây là công trình nghiên cứu về phát triển đạo đức
cách mạng của thanh niên quân đội, đối tượng khá tương đồng về đặc điểm
lứa tuổi với sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội nên sẽ giúp nghiên cứu sinh đánh
giá sát hơn về đặc điểm của đối tượng có cùng độ tuổi với sĩ quan này; đồng
thời, luận giải sự khác biệt về phát triển phẩm chất chính trị so với phát triển
phẩm chất đạo đức cách mạng trong nhân cách của sĩ quan kỹ thuật cấp phân
đội hiện nay.
Công trình“Phát triển phẩm chất tinh thần của thanh niên Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” [84] của tác giả Lê Văn Quang (2004) đã luận giải quan
niệm, làm rõ đặc trưng, bản chất, đặc điểm; đánh giá thực trạng, làm rõ nhân tố
tác động, yêu cầu và đề xuất các giải pháp như: Đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác tư tưởng - văn hoá; xây dựng và phát huy vai trò môi trường văn hoá
quân sự; nâng cao chất lượng và hiệu quả tự giáo dục, tự rèn luyện phẩm chất
tinh thần của thanh niên Quân đội trong hoạt động thực tiễn quân sự.
18
Phát biểu tại Lễ mít tinh Kỷ niệm 60 năm Ngày Thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam và 15 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân [40] của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp (2005) khẳng định: Quân đội ta dù hiện đại đến đâu
cũng phải hết sức coi trọng xây dựng về mặt chính trị, xây dựng bản chất cách
mạng, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Nâng
cao lòng yêu nước, thương dân, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân,
hết lòng phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân… Xây dựng và phát triển
nền khoa học quân sự Việt Nam, đổi mới trang bị vũ khí theo hướng hiện đại
có trọng điểm, tìm ra cách đánh sáng tạo, để chiến thắng kẻ thù trong mọi cuộc
chiến tranh xâm lược, kể cả chiến tranh công nghệ cao.
Công trình “Tổng cục Kỹ thuật làm theo lời dạy của Bác Hồ trong quản
lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật” [12] của tác giả Nguyễn Hữu Chính
(2017) khẳng định: Từ khi phát động Cuộc vận động 50 trong toàn quân năm
1995, Tổng cục Kỹ thuật đã thực hiện xuất sắc 4 mục tiêu của Cuộc vận động
trong điều kiện vũ khí, trang bị kỹ thuật đã qua nhiều năm sử dụng, thiếu đồng
bộ và ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Một trong những kết quả đó là: “Quản
lý chặt chẽ số lượng, chất lượng, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật; khai thác hiệu
quả cơ sở kỹ thuật, trang bị kỹ thuật, từng bước làm chủ các dây chuyền công
nghệ mới,… Từng bước bảo quản, bảo dưỡng, sữa chữa vũ khí, trang bị kỹ
thuật, bảo đảm đầy đủ, kịp thời số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật cho
các đơn vị trong toàn quân làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến
đấu và các nhiệm vụ quan trọng khác” [12, tr. 31].
Tác giả nhấn mạnh: Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: Con người và vũ khí trang bị là hai nhân tố chính tạo nên sức mạnh
chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta; trong đó, con người là yếu tố quyết
định, vũ khí, trang bị là rất quan trọng. Bởi vậy, các cấp trong Tổng cục luôn
19
coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên vừa “hồng”, vừa “chuyên”, tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, thi đua, khen
thưởng, tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng
nâng cao nhận thức về mục đích, yêu cầu, nội dung, mục tiêu Cuộc vận động
50 đối với công tác quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật.
1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến phẩm chất
chính trị và phát triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân
đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.1. Những công trình khoa học liên quan đến phẩm chất chính trị của
sĩ quan kỹ thuật cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Công trình “Nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ phi công quân sự
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” [104] do tác giả Nguyễn Mạnh
Hải (2006) chủ biên, nhấn mạnh: “Bản lĩnh chính trị của đội ngũ phi công quân
sự Việt Nam là những phẩm chất chính trị đã phát triển đến trình độ cao trong
mỗi nhân cách, …, cho phép họ tự quyết định một cách độc lập sáng tạo ý nghĩ,
hành vi chính trị của mình” [104, tr. 17].
Tác giả đưa ra yêu cầu, nội dung nâng cao bản lĩnh chính trị và đề xuất
một số giải pháp như: Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện tâm
lý, xây dựng động cơ nghề nghiệp đúng đắn. Nâng cao chất lượng công tác
huấn luyện, học tập, tổ chức các hoạt động thực tiễn, nâng cao trách nhiệm cá
nhân trong việc tu dưỡng, rèn luyện. Xây dựng môi trường chính trị để giáo
dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị; xây dựng niềm tin vào vũ khí, trang bị kỹ
thuật và nghệ thuật tác chiến không quân, khai thác sử dụng hết tính năng và
có hiệu quả cho đội ngũ phi công quân sự hiện nay.
Công trình “Nâng cao bản lĩnh sĩ quan cấp phân đội trong tình hình
mới” [105] do tác giả Phùng Văn Thiết (2016) chủ biên. Trong công trình này,
các tác giả đã luận giải khái niệm, đặc điểm, làm rõ thực chất và 4 vấn đề có
tính quy luật nâng cao bản lĩnh sĩ quan cấp phân đội. Đồng thời, đưa ra ba
20
nhóm tiêu chí mang tính định hướng và đánh giá hiệu quả hoạt động nâng cao
bản lĩnh của sĩ quan cấp phân đội.
Tác giả quan niệm: “Nâng cao bản lĩnh sĩ quan cấp phân đội là tổng thể
các hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo quy luật của các chủ thể,
nhằm làm cho tính độc lập, kiên định, sáng tạo trong xử lý các vấn đề nảy
sinh thực tiễn ở cơ sở của sĩ quan cấp phân đội biến đổi theo những tiêu chí
ngang tầm với yêu cầu ngày càng cao về chức trách, nhiệm vụ của họ trong
các giai đoạn lịch sử nhất định” [105, tr. 34 - 35].
Trong công trình này, các tác giả đã đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên
nhân, làm rõ 4 yếu tố tác động, đưa ra 4 yêu cầu và đề xuất hệ thống 5 giải
pháp nâng cao bản lĩnh sĩ quan cấp phân đội như: Chuẩn hóa mô hình, đổi
mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, rèn luyện. Tích cực hóa môi
trường quân sự ở đơn vị cơ sở, phát huy sức mạnh tổng hợp (lực lượng,
phương tiện, chế độ, chính sách). Phát huy tính tích cực, tự giác trong hoạt
động tự bồi dưỡng bản lĩnh của sĩ quan cấp phân đội.
Công trình “Nâng cao bản lĩnh chính trị sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” [109] của tác giả Nguyễn Đình Tu (1996) đã luận giải
khái niệm, bản chất, vai trò, đặc điểm hình thành, phát triển bản lĩnh chính trị
của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Làm rõ thực trạng, nguyên
nhân và chỉ ra mâu thuẫn trong quá trình nâng cao bản lĩnh chính trị của họ.
Đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan
trẻ như: Gia tăng hàm lượng trí tuệ; tăng cường rèn luyện năng lực, kinh
nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn; dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa đời sống
chính trị tinh thần của xã hội và Quân đội.
Tác giả khẳng định: Bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam là phẩm chất chính trị đã phát triển cao làm cho sĩ quan trẻ
tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo ý nghĩ và hành vi chính trị của mình, có
lòng tin sắt đá vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối
21
chính trị quân sự của Đảng, không dao động lay chuyển trước những tác động
bên ngoài” [109, tr. 17].
Công trình “Phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của
giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay [43] của tác giả Lương Thanh Hân (2011) khẳng định:
“Bản lĩnh chính trị của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn là sự thống
nhất hữu cơ giữa nhận thức, thái độ và hành vi chính trị tạo ra năng lực khẳng
định tính chủ thể về chính trị của người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trước tình hình chính trị tác động đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học của
người giảng viên mới vào nghề ở các trường sĩ quan”.
Đây là đề tài luận án được kết cấu 4 chương, trong đó chương 1 trình
bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án; 3 chương còn
lại, tác giả luận giải thực chất và 3 vấn đề có tính quy luật, xác định 3 yêu cầu,
đề xuất hệ thống 3 nhóm giải pháp như cơ bản: Nâng cao chất lượng đào tạo,
tuyển dụng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; xây dựng môi trường
giáo dục, bồi dưỡng và tích cực hóa đội ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội và
nhân văn theo hướng phát triển hài hòa bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học.
Công trình “Xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến
sĩ “Đoàn tàu không số”, bài học quý trong xây dựng Quân chủng Hải quân vững
mạnh về chính trị” [49] của tác giả Trần Thanh Huyền (2011). Để khẳng định tầm
quan trọng của bài học chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị được tác giả dẫn dắt
bằng sự kiện: Sau khi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phê duyệt đề án
của Bộ Tổng Tham mưu về việc mở đường vận chuyển chiến lược trên biển,
Đoàn Vận tải Thủy được thành lập (tiền thân Lữ đoàn 125 ngày nay). Những
huyền thoại của “Đoàn tàu không số” làm nên con đường bất tử - Đường Hồ Chí
Minh trên biển đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý báu.
Tác giả nhấn mạnh: Thành công của bài học là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố, đặc biệt là thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh
đạo tư tưởng, củng cố, kiện toàn cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ các cấp.
22
Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ chủ trì, tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tàu, thuyền có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí
quyết tâm cao, có năng lực toàn diện, gương mẫu về đạo đức lối sống, luôn đề
cao trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Công trình “Binh đoàn Tây nguyên xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội
ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [83] của tác giả Chu Công Phu
(2012) khẳng định: Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ được thể hiện tập
trung ở chất lượng học tập, rèn luyện và kết quả thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đoàn kết, nỗ lực vượt
khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Coi trọng công tác bồi dưỡng, nâng
cao khả năng chỉ huy, quản lý, phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ cán
bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, phát
huy tốt vai trò của đảng viên, nhất là đội ngũ cấp uỷ, bí thư. Kết hợp chặt chẽ
giữa xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Đề cao tự phê bình và phê bình, chú trọng sửa đổi lề lối, tác phong công
tác, kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, tham ô, lãng phí.
Công trình “Vùng Cảnh sát biển 3 nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí
chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ” [39] của tác giả Đỗ Hồng Đó (2013) nhấn
mạnh: Với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tuần tra, kiểm soát thực thi pháp luật
trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên
quan mà Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong quá
trình làm nhiệm vụ, bên cạnh những thuận lợi, cán bộ, chiến sĩ của Vùng gặp
không ít những khó khăn, nhất là thường xuyên đối mặt với những cám dỗ vật
chất, hoạt động móc nối của các loại tội phạm, trong khi đời sống hậu phương
gia đình nhiều đồng chí còn nhiều khó khăn. Bởi vậy, Thường vụ Đảng uỷ,
chỉ huy Vùng đã ra Nghị quyết chuyên đề về: “Nâng cao bản lĩnh chính trị,
23
phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống tiêu cực trong thực thi pháp luật, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết này, Đảng uỷ - chỉ huy Vùng đặc
biệt coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có chất lượng công tác giáo dục
chính trị, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng của bộ đội. Duy trì nghiêm nền
nếp, chế độ chính quy, rèn luyện kỷ luật, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết
thắng. Chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ,
góp phần xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí chiến đấu cao; đoàn
kết, thống nhất; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Công trình “Xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ sĩ quan trẻ - một
số vấn đề cần tiếp tục quan tâm” [101] của tác giả Vũ Văn Thưởng (2013)
Bản lĩnh chính trị đội ngũ sĩ quan trẻ thể hiện ở tính xung kích trong các công
việc; vững vàng trước những thách thức, khó khăn trong cuộc sống. Sẵn sàng
chấp nhận gian khổ, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng; dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước mỗi công việc. Tuy nhiên, có lúc, có nơi, một số
sĩ quan trẻ còn bộc lộ yếu kém, giảm sút ý chí phấn đấu trong học tập và rèn
luyện; thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. Còn tư
tưởng hữu khuynh, chạy theo thành tích, thiếu trung thực trong học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, nói không đi đôi với làm, nói và làm không theo nghị
quyết. Xử lý công việc còn nóng vội, theo cảm tính. Một số sĩ quan trẻ còn
biểu hiện trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, trông chờ ỷ lại, rơi vào
tệ nạn xã hội dẫn đến phải xử lý kỷ luật. Tình hình đó, tác giả đã đưa ra một
số giải pháp: Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, củng
cố bản lĩnh chính trị; tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực toàn
diện, kiến thức thực tiễn; phát huy tính tính cực, chủ động, tự học tập, tự rèn
luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ.
1.2.2. Những công trình khoa học liên quan đến phát
triển phẩm chất chính trị của sĩ quan kỹ thuật cấp phân
đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam
24
Công trình “Xây dựng phẩm chất cách mạng cho học viên các trường
đại học và cao đẳng kỹ thuật quân sự trong tình hình hiện nay” [102] do tác
giả Nguyễn Quang Thẩm (2000) làm chủ nhiệm. Trong công trình này, các tác
giả đã đưa ra đặc điểm và nội dung phẩm chất cách mạng của học viên kỹ
thuật quân sự, tác giả khẳng định: Phẩm chất cách mạng của học viên kỹ thuật
quân sự là hệ thống các phẩm chất chính trị - tư tưởng, đạo đức, lối sống với
các giá trị chuẩn mực như: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng;
ham học tập toàn diện kết hợp chuyên sâu; cần kiệm, liêm chính; lối sống
trong sạch lành mạnh, trung thực, khiêm tốn, tác phong chính quy khoa học;
tinh thần quốc tế vô sản.
Trong công trình này, nhóm tác giả đã làm rõ vai trò, tiêu chuẩn và đề
xuất một hệ thống 4 nhóm giải pháp: Tăng cường sự giáo dục toàn diện kết
hợp đẩy mạnh tự giáo dục; đẩy mạnh giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục
đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa trong huấn luyện chuyên môn kỹ thuật. Chủ
động hướng học viên vào hoạt động thực tiễn trong quá trình đào tạo; tạo môi
trường xã hội thuận lợi; tổ chức tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần.
Công trình “Sĩ quan trẻ với tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ
hội nhập WTO” [16] của tác giả Nguyễn Bá Dương (2008) đã luận giải bản
chất, đặc trưng, vai trò tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan trẻ trong nhận
thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ Việt Nam hội nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO); đồng thời, chỉ ra nhân tố tác động, tính tất yếu khách
quan, yêu cầu và định hướng phát triển tư duy biện chứng duy vật của họ. Để
quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ đạt hiệu
quả, tác giả đưa ra hai định hướng và 4 giải pháp là: Xây dựng môi trường xã
hội thuận lợi; đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo; tăng cường rèn luyện
và nâng cao năng lực tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ sĩ quan trẻ; kết
hợp rèn luyện trong thực tiễn quân sự và nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn. Tác giả kết luận: Phát triển tư duy biện chứng duy vật để định hướng
25
nhận thức, phát triển phẩm chất chính trị - tinh thần cho đội ngũ sĩ quan trẻ là
một vấn đề lớn, phức tạp và cần thiết trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi phải
nghiên cứu cơ bản, có hệ thống và sâu sắc trên nhiều phương diện khác nhau,
với sự cộng tác của nhiều nhà khoa học.
Công trình “Phát huy nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự
trong xây dựng quân đội hiện nay” [96] của tác giả Nguyễn Minh Thắng
(2008) đã làm rõ quan niệm, yếu tố quy định, vai trò, dự báo xu hướng, định
hướng và các giải pháp cơ bản phát huy nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật
quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Tác giả nhấn
mạnh: Nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự là tổng hoà các yếu tố số
lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự; trong các yếu
tố cấu thành chất lượng nguồn lực: Phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực
chuyên môn thì phẩm chất chính trị là yếu tố hết sức quan trọng.
Tác giả đưa ra một số giải pháp: Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng; bố trí, sử dụng hợp lý và quan tâm hơn nữa đến đời sống của cán bộ;
xây dựng môi trường thuận lợi, nâng cao ý thức tự học, tự rèn; nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các tổ chức và các lực lượng.
Công trình “Quân chủng Hải quân chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới” [100] của tác giả Đinh Gia
Thật (2012) khẳng định: Quân chủng Hải quân là một bộ phận hợp thành của
Quân đội, có nhiệm vụ chính trị trung tâm là phối hợp cùng với các lực lượng
khác làm nòng cốt quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, thềm lục địa
của Tổ quốc, đây là lực lượng được tập trung xây dựng tiến ngay vào hiện đại.
Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân chủng xác định: Để xây dựng Quân chủng hiện đại
phải bảo đảm 2 yếu tố con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật, trong đó con
người mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định. Có kiến thức toàn diện, năng lực, trình độ quân sự hiện đại; phương pháp,
tác phong công tác chính quy, khoa học. Có sức khỏe và kinh nghiệm đáp ứng
26
yêu cầu, nhiệm vụ; nói đi đôi với làm, nhận thức gắn với hành động, luôn
gương mẫu đi đầu, có uy tín và sức lôi cuốn cao trước tập thể.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, Đảng uỷ Quân chủng xác định:
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức,
lối sống trong sạch, lành mạnh. Xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch, quản lý,
nhận xét, đánh giá cán bộ. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt chính sách cán bộ, nhất
là chính sách nhà ở, đất ở, chính sách hậu phương, gia đình cán bộ.
Công trình“Phát huy nhân tố con người trong giải quyết mối quan hệ
với vũ khí trang bị của quân đội ta hiện nay” [112] của tác giả Nguyễn Văn
Tuấn (2014) khẳng định: Quan hệ con người và vũ khí trang bị là sự thống nhất
biện chứng giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất, trong đó vai trò quyết
định thuộc về con người có bản lĩnh chính trị vững vàng. Để phát huy nhân tố
con người trong giải quyết mối quan hệ con người và vũ khí trang bị, tác giả
đưa ra một số giải pháp: Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao giác
ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho
quân nhân. Coi trọng nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự ở đơn vị cơ sở.
Chuẩn bị tốt tâm lý và xây dựng bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh trong
tập thể quân nhân.
Công trình “Nâng cao bản lĩnh chính trị của giảng viên các trường đại
học trong Quân đội” [98] của tác giả Trần Đình Thắng (2015) khẳng định:
Bản lĩnh chính trị là một tiêu chí đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất nhà
giáo, năng lực sư phạm của giảng viên các trường đại học trong quân đội;
đảm bảo sự vững vàng về ý chí, kiên định lập trường tư tưởng trước mọi khó
khăn, thách thức để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo.
Giảng viên có bản lĩnh chính trị tốt giúp họ có sức mạnh, uy tín, sự tự
tin, nghị lực, vững vàng bản lĩnh, ý chí để phát triển các phẩm chất trí tuệ,
năng lực sư phạm, đạo đức, lối sống, tác phong công tác, vượt qua mọi khó