Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

văn nghệ dân gian của người cơ tu ở tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.82 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
Mục đích là sinh viên chuyên ngành quản lý văn hóa, tơi ln ý thức
được sự cần thiết của kiến thức lý thuyết được trau dồi trên giảng đường
Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội và việc vận dụng kiến thức này vào thực
tiễn. Trong quá trình đươc giảng dạy học phần “Văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam” tôi được trang bị những kiến thức chuyên sâu để hiểu rõ về từng
vấn đề của các dân tộc thiểu số như: Kinh tế, trang phục, nhà cửa, ẩm thực,
hơn nhân, ma chay, tín ngưỡng, văn nghệ dân gian, lễ hội, thiết chế xã hội.
Từ đó giúp tơi thấy được mỗi dân tộc mỗi vùng miền lại có một nét văn hóa
đặc trưng riêng để tơi hiểu được về đời sống vật chất cũng như văn hóa tinh
thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và đó cũng là vốn tri thức nền tảng để
tơi tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về giá trị văn hóa dân gian của dân tộc Cơ
Tu
Việt Nam với 54 thành phần dân tộc. Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các
dân tộc Việt Nam đã gắn bó, đồn kết đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo
vệ bờ cõi, giành độc lập tự do và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc đều có bản
sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bản sắc văn hóa của các dân tộc được thể hiện rõ trong các hoạt động
kinh tế, văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng tộc người. Văn hóa là
nền tảng sinh hoạt tinh thần của con người trong xã hội, phản ánh trình độ
phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Dân tộc Cơ Tu là một trong 54
cộng đồng các dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa đặc biệt mang đậm
bản sắc riêng. Theo điều tra dân số, tộc người Cơ Tu cho đến thời điểm năm
2009 có khoảng 61.588 người. Riêng tỉnh Quảng Nam có tới 45.715 người,
chiếm 74,2% tổng dân số. Căn cứ vào số liệu trên để cho thấy tỉnh Quảng
Nam là trung tâm của tộc người Cơ Tu. Được coi là trung tâm, đương nhiên
cũng tập trung những nét đặc trưng tiêu biểu nhất trong các mối quan hệ nhìn
từ góc độ văn hóa.
Trong bài tiểu luận này, tơi tập trung vào nghiên cứu văn nghệ dân gian
của người Cơ Tu ở tỉnh Quảng Nam



NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH QUẢNG NAM VÀ TỘC NGƯỜI CƠ TU.
1.1 Khái quát về tỉnh Quảng Nam.
1.1.1. Vị trí địa lý.
Quảng Nam, hay gọi âm địa phương là "Quảng Nôm", là một tỉnh
thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tên gọi Quảng Nam có
nghĩa là mở rộng về phương Nam. Quảng Nam là vùng đất giàu truyền
thống văn hóa với hai di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và thánh
địa Mỹ Sơn. Quảng Nam còn là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh
ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Với diện tích 10,438 km2 và dân
số trung bình hơn 1.480 triệu người (2015), Quảng Nam đứng thứ 6 về
diện tích, thứ 19 về dân số trong số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Mật
độ dân số là 142 người/km2 (đứng thứ 45/63) so với 277 người/km2 của
cả nước. Năm 2008, Quảng Nam là tỉnh đầu tiên của duyên hải Nam
Trung Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Tam Kỳ, Hội An).
Quảng Nam nằm ở khu vực miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà
Nội 883 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 68 km về phía Nam
và cách Thành phố Hồ Chí Minh 887 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ
1A. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng, phía
Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía Tây giáp tỉnh
Sekong(Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào), phía Đơng giáp Biển Đơng.
Quảng Nam có 18 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 2 thành phố, 1 thị
xã và 15 huyện với 247 xã/phường/thị trấn. Tỉnh lỵ của Quảng Nam đặt
tại thành phố Tam Kỳ.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 10.438 km2. Địa hình thấp dần
từ Tây sang Đông và chia làm 3 vùng: vùng núi phía Tây, trung du ở giữa
và đồng bằng ven biển phía Đơng.
1.1.2. Dân số.
Tính đến hết năm 2010, dân số Quảng Nam là 1.435.629 người, với

mật độ dân số trung bình là 139 người/km². Dân cư phân bố trù mật ở dải
đồng bằng ven biển, dọc quốc lộ 1, đồng bằng Vu Gia Thu Bồn và Tam


Kỳ. Mật độ dân số của Tam Kỳ, Hội An và Điện Bàn vượt quá 1,000
người/km2 trong khi rất thưa thớt ở các huyện miền núi phía Tây. Mật độ
dân số trung bình của 6 huyện miền núi gồm Đơng Giang, Tây Giang,
Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My và Nam Trà My là dưới 20
người/km2. Với 81,4% dân số sinh sống ở nơng thơn, Quảng Nam có tỷ lệ
dân số sinh sống ở nông thôn cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước. Tuy
nhiên q trình đơ thị hóa của tỉnh đang diễn ra mạnh mẽ sẽ tác động lớn
đến sự phân bố dân cư nông thôn-thành thị trong thời gian tới.
Theo cuộc tổng điều tra dân số ngày 01.04.2009, có 34 tộc người cùng
sinh sống trên địa bàn Quảng Nam trong đó đơng nhất là người Kinh
(91,1%), người Cơ Tu (3,2%), người Xơ Đăng (2,7%), và người Gié
Triêng (1,3%). 29 tộc người còn lại chỉ chiếm 0,9% dân số.
1.1.3. Kinh tế-xã hội.
Tỉnh Quảng Nam phấn đấu trở thành tỉnh cơng nghiệp trước năm
2020. Năm 2015, Tỉnh có cơ cấu kinh tế: Công nghiệp và dịch vụ chiếm
85%, Nơng-Lâm-Nghư Nghiệp 15%. Tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, bình quân giai đoạn 2010-2015 là 16,3% (Năm 2015 là 11,53%).
Quảng nam có 13 khu cơng nghiệp, kinh tế mở (Khu kinh tế mở Chu
Lai). Do đó Quảng Nam hiện nay đang thiếu rất nhiều lao động-một
nghịch lý khi tỷ lệ sinh viên khơng có việc làm trên cả nước rất lớn, Tổng
sản phẩm nội địa 2010 khoảng hơn 23.000 tỷ đồng tăng lên hơn 69.900 tỷ
đồng năm 2016.Thu ngân sách nhà nước tăng cao, năm 2015 thu ngân
sách ướt đạt xấp xỉ 15.000 tỷ đồng (đứng 12/63 tỉnh thành, đứng thứ 2
các tỉnh miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chỉ sau Quảng Ngãi và
trên Tp. Đà Nẵng. Năm 2016 chứng kiến nền kinh tế phát triển mạnh mẽ
chỉ trong 9 tháng đầu năm thu ngân sách ướt đạt 14.300 tỷ đồng bằng

103,5% dự toán năm 2016 Dự kiến 2016 thu ngân sách khoảng xấp xỉ
20.000 tỷ đồng. Tuy nhiên thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu phức hợp
sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải. Xuất khẩu 2015 ướt đạt trên 500
triệu USD. Tỉnh có cảng Kỳ Hà, Sân bay quốc tế Chu Lai. Phấn đấu đến
năm 2020 GDP bình quân đầu người từ 3.400-3.600 USD (75-80 triệu
đồng). Năm 2016 tỉnh này đón gần 4,4 triệu lượt khách du lịch (xếp thứ 2
miền trung sau Tp. Đà Nẵng với gần 5,1 triệu lượt).
1.2. Khái quát về tộc người Cơ Tu và nguồn gốc lịch sử của tộc người Cơ Tu và nguồn gốc lịch sử củac người Cơ Tu và nguồn gốc lịch sử củai Cơ Tu và nguồn gốc lịch sử của Tu và nguồn gốc lịch sử củan gốc lịch sử củac lịch sử củach sử của c ủaa
người Cơ Tu và nguồn gốc lịch sử củai Cơ Tu ở Quảng Nam


1.2.1. Dân số, nguồn gốc lịch sử, phân bố dân cư.
Tại Việt Nam, theo điều tra dân số 1999 thì dân tộc này có dân số
50.458 người, cư trú chủ yếu trên dãy núi Trường Sơn, tại các huyện
Đông Giang, Tây Giang, (Quảng Nam), A Lưới, Phú Lộc (Thừa ThiênHuế).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Tu ở Việt Nam
có dân số 61.588 người, cư trú tại 38 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Người Cơ Tu cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Nam (45.715 người,
chiếm 74,2% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam), Thừa Thiên-Huế
(14.629 người, chiếm 23,8% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam), Đà
Nẵng (950 người), thành phố Hồ Chí Minh (54 người).
Dân tộc Cơ Tu là cư dân sinh sống ở vùng bắc Trường Sơn – Tây
Nguyên. Tộc danh Cơ Tu là tên do đồng bào tự gọi, ngồi ra có tên gọi
khác là Ca Tu, Ca Tang, Hạ, Phương, Giao. Tiếng nói của người Cơ Tu
thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn – Khme ngữ hệ Nam Á, vì vậy bà con cịn giữ
được nhiều yếu tố ngôn ngữ truyền thống. Chữ viết người Cơ Tu ra đời
trước năm 1975 theo mẫu hệ La Tinh, nhưng nay ít người sử dụng.
1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa của người Cơ Tu.
 Văn hóa vật chất:
Người Cơ Tu ở nhà sàn, nay phổ biến là các ngôi nhà sàn ngắn cư trú

một gia đình nhỏ phụ quyền, nhưng nhiều nhà vẫn cịn những ngơi nhà
sàn dài, vài ba gia đình nhỏ anh em trai cư trú kề vách nhau. Nhà sàn của
Người Cơ Tu thường cách mặt đất khoảng 1,2 -1,4 mét, kết cấu bằng
cách lấy cột cái chính giữa đỡ địn nóc, mỗi bên 3 cột thấp dần tạo thành
độ dốc mái hai bên ở mỗi bộ vì lấy dui làm kèo,lấy địn tay làm mè kéo
dài ngôi nhà tùy theo nhu cầu cần bao nhiêu gian. Dù nhà sàn hay nhà
ngắn thì cũng tạo hai đầu mái chái hơi trịn ở giọt gianh, nên trơng từ trên
xuống mái nhà hình mai rùa.[A1]
Người Cơ Tu có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục,
khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ.
Nam giới người Cơ Tu đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc
ngắn bình thường. Khố có các loại bình thường (khơng trang trí hoa văn
và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí
đẹp với màu sắc và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, họ khoác thêm tấm
choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa


văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyền thống với các màu trắng đỏ,
xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách: hoặc là quấn chéo qua
vai trái xuống hơng và nách phải, thành vài vịng rồi bng thõng xuống
trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới
hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân
trước ngực vòng ra thân sau.
Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả bng. Xưa họ
để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ mặc váy
ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Họ thường mặc áo
chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong
những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Áo loại
này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp
phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay

ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực, sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên
nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy: theo lối ghép
hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Họ ưa mang các đồ trang
sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới 5,6 cái),
khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng
như các chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não.. Nhiều người cịn đội trên đầu
vịng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một
số loại lơng chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi
trưởng thành khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu cịn
có tục xăm mình, xăm mặt.[A2]
Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục
xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ơng búi tóc sau gáy đã dần được loại
bỏ.
Người Cơ Tu thường ngày ăn cơm tẻ, ngày lễ có thêm cơm nếp.
Cơm nấu trong ống tre ( cơm lam) hoặc trong nồi đất, ăn bốc là tập quán
cổ truyền. Đồng bào thích ăn đồ nướng như ngô nướng, sắn nướng, khoai
nướng, thịt cá nướng. Rượu được chế từ mía, cây tày vak – một loại cây
rừng họ dừa, từ gạo, sắn. người Cơ Tu thường hút thuốc lá bằng tẩu.
 Văn hóa tinh thần:
Giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Cơ tu in đậm và kết tụ trong lễ
hội. Lễ hội ở đây thường diễn ra ở sân Vêêl và bên trong nhà Gươl. Lễ
hội đâm trâu là một trong nhưng lễ hội lớn nhất của ngưòi Cơ tu. Khi con
trâu còn buộc ở cột thì người chủ lễ cùng dân làng tiến hành làm nghi lễ
và khi chuẩn bị đâm trâu thì phần hội mới được tiến hành, khi ấy, nhạc


cồng chiêng nổi lên, trai gái hoà quyện với nhau trong vũ điệu tung tung,
da dá.
Người Cơ tu tính ngày trong tháng theo chu kì thay đổi của hình dạng
mặt trăng. Căn cứ vào đó để họ đặt tên cho tưng ngày. Cho nên, có những

ngày cùng một tên gọi. Theo kinh nghiệm và quan niêm dân gian, có
ngày trồng sắn, khoai sẽ nhiều củ; có ngày trồng cà, ớt sẽ sai quả: có ngày
nên dựng nhà cưới hỏi....
Trong đời sống cá nhân, gia đình và của làng, có rất nhiều lễ cúng
gắn với sản xuất, sức khoẻ,.... Lễ cúng nhỏ chỉ cần tế bằng gà, thậm chí
dùng trứng gà; lớn hơn thì dùng lợn; cao hơn nữa là dùng trâu; xưa kia
cao nhất dùng máu người. Theo người Cơ Tu, đối với các siêu nhiên, máu
con vật hiến sinh quan trọng đặc biệt. Làng có thể có vật “ thiêng “
( thường là hòn đá ) được cất giữ trong ngôi nhà chung, như một thứ bùa.
Một số cá nhân cũng có loại bùa này.


Văn hóa xã hội:

Chế độ gia đình phụ quyền khá vững chắc trong đời sống xã hội của
người Cơ Tu. Người cha, người chồng có quyền tuyệt đối trong phân
cơng lao động, quản lí tài sản trong gia đình, quyền thừa kế tài sản chỉ
thuộc về những người con trai. Liên kết dòng họ được duy trì chặt chẽ gọi
là ca bu. Mỗi một ca bu liên kết nhận nhau bởi những tập tục, kiêng kị và
huyền thoại chung về ơng tổ mang đậm tính chất Tô tem giáo. Tổ chức
đời sống của người Cơ Tu mang tính chất hành chính cũng là làng gọi là
vel, gồm một số dòng họ cư trú quây quần bên nhau, đứng đầu làng là
chủ làng ( ta ko vel),là người có vốn sống được hội đồng già làng bầu ra.
Làng của người Cơ Tu cịn nặng tính dân chủ quân sự, bên cạnh chủ làng
là người chỉ huy quân sự (ta ki ta cop) hướng dẫn trai tráng luyện tập
quân sự, canh gác, bảo về làng.
2. MỘT SỐ LOẠI HÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NĨ ĐỚI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CƠ TU.
2.1. Một số loại hình văn nghệ dân gian.
2.1.1. Múa dân gian.

Múa là một trong những nghệ thuật không thể thiếu được của dân tộc
Cơ Tu, có thể nói người Cơ Tu nam hay nữ khi biết chạy biết nhảy thì đã


biết múa. Múa của dân tộc Cơ Tu bao gồm hai thể loại : múa tung tung
( múa nam ) và múa da- dá ( múa nữ ). Khi múa tung tung người đàn ơng
đóng khố hoặc chồng tấm tuốt từ vai xuống lưng, ở những lễ hiến tế thần
linh, người múa tay trái cầm thêm khiên, tay phải cầm kiếm hoặc cây
giáo lưỡi ngắn, động tác múa hùng dũng nhịp nhàng theo nhịp 2/4, lấy
tiếng trống làm nền cho sự chuyển nhịp. Múa da – dá là vũ điệu của nữ
giới. Đó là vũ điệu lung linh, uyển chuyển như cây lau trước gió, như
giịng suối mượt mà uốn quanh, khi múa đôi chân đứng thẳng khoan thai,
đôi tay vươn lên khỏi đầu, bàn tay đưa ngả theo hướng sau lưng như
chống đỡ cả bầu trời, giống như đôi sừng trâu biểu tượng “đầu trâu máng
nước” một sắc thái văn hố nhiều dân tộc thiểu số, cũng như hình tượng
hiến tế thần linh của người dân tộc Cơ Tu.
Múa ya yá được xem là tuyệt tác nghệ thuật, tâm hồn và là một
biểu tượng của văn hóa truyền thống Cơtu, được ngợi ca là “vũ điệu dâng
trời”.[A3]
Điệu múa bắt nguồn từ những dộng tác dâng lễ vật từ thời xa xưa. Lễ vật
được mang trên tay là xôi, thịt, hoa, trái… để dâng mừng.
Kết hợp hài hòa cùng những bước nhảy xiến, nhảy trượt ngang, xoay lật
nhún nghiêng, xoay lật nhấn nẩy, nhích quay lượn người... thể hiện dáng
vẻ, đường nét tạo hình rất sinh động, tạo nên hình tượng nghệ thuật múa
Cơtu thật mượt mà, thanh cao và đầy sức sống. Nó tựa như một cơng
trình điêu khắc được gọt tỉa, chắt lọc công phu : vừa cổ kính, thiêng liêng
lại vừa hiện đại, sống động.
Điều đặc biệt nữa là vũ điệu ya yá có kết cấu tổ hợp múa theo tính tiết tấu
trên nền nhạc cồng chiêng với điệu đhưng dồn dập, lôi cuốn, tiếng trống
cha gơr rộn ràng và múa theo tuyến gấp khúc nên mang lại hiệu quả tốt

đẹp cho tác phẩm múa. Cùng với trang phục dân tộc độc đáo, đặc biệt bộ
váy nữ được quấn ngang ngực, để trần phần trên ngực cùng với đôi vai và
hai cánh tay thật mềm mại, trẻ khỏe, tôn thêm vẻ đẹp kỳ diệu của dáng
múa Cơtu... Chính vì thế, điệu múa ya đã cuốn hút tư duy sáng tác của
nhiều nghệ sĩ.
Đặc sắc múa tung tung hòa trộn “âm dương” của người Cơ Tu
Tung tung - da dá là điệu múa hòa trộn cho thấy sự hiệp lực của đàn ông,
thanh niên với đàn bà và thiếu nữ Cơtu cũng là âm dương trong vũ trụ


bao la xảy ra trong cùng một thời gian và xoay vòng trong một vòng tròn
nhất định.
Theo tiếng Cơ tu thì, tung tung - da dá là điệu múa dân gian, dân vũ
truyền thống lâu đời của đồng bào Cơtu Quảng Nam. Tung tung là điệu
múa dân vũ cho đàn ông, con trai Cơtu tái hiện cảnh đi săn thú và là điệu
múa mừng chiến thắng, thể hiện tinh thần thượng võ của người Cơtu.
Ngôn ngữ múa gởi gắm niềm hy vọng vào lớp thanh niên trai tráng Cơtu
vươn lên tiếp bước truyền thống những người đi trước giữ gìn và bảo vệ
quê hương núi rừng, cho tồn tại của cộng đồng. Xưa, khi múa đàn ông
Cơtu mặc khố, áo bằng vỏ cây.
Nay, trai tráng Cơtu mặc khố thổ cẩm trên vai tréo tấm choàng với dáng
chữ X hoặc choàng một áo dệt bằng thổ cẩm, chân đi trần lết đất, tay nắm
chắc cây khiên, cây dáo, cây mác hay cây dụ. Hoặc khơng thì nắm chắc
tay bạn bên cạnh chiếc ná tung đôi tay lên vừa bước vừa hú một cách tự
tin, sôi động và hùng dũng, thể hiện sức mạnh của trai làng, không sợ khi
đương đầu với khắc nghiệt của thiên nhiên hay kẻ thù đến phá hại, đồng
thời còn thể hiện niềm động viên vững tin, yêu cuộc sống, yêu làng quê,
yêu núi rừng.
Cùng với nhiều di sản văn hóa các dân tộc anh em sinh sống trên vùng
Trường Sơn-Tây Nguyên, "Múa tung tung - da dá" của tộc người Cơtu

Quảng Nam đã được Bộ Văn hóa cơng nhận Di sản văn hóa của quốc gia.
Và hơm nay, điệu múa này vẫn cịn hiện diện ở hầu hết các lễ hội truyền
thống của người Cơtu Quảng Nam.
Cũng theo tiếng Cơtu thì, da dá là điệu múa của phụ nữ Cơtu được bắt
nguồn từ những động tác dâng lễ vật từ thuở xa xưa. Với ý nghĩa đó, múa
da dá dành cho những người phụ nữ và con gái Cơtu vốn tính thùy mỵ,
thương chồng yêu con, yêu núi rừng, thầm lặng tất cả vì sự sinh tồn và
phát triển của cộng đồng.
Để thể hiện điệu múa da dá, xưa phụ nữ Cơtu mặc váy, áo bằng vỏ cây.
Nay, khi múa phụ nữ Cơtu mặc váy dài vai trần lộ, váy ngắn kèm áo a
doót(áo cột tay) dệt bằng thổ cẩm nhiều hoa văn với những sắc màu sinh
động, cổ đeo vòng cườm, mả não hai tay đưa lên ngang vai, cánh tay
vng góc song song với thân mình, bàn tay ngửa, thẳng ngón về phía
sau thể hiện sự mừng rỡ đón đợi vật thiêng, mắt nhìn thẳng, miệng luôn


tủm tỉm cười, chân đi trần nhón gót lên lết trịn ngược kim đồng hồ. Khi
múa, đơi chân người phụ nữ đứng thẳng khoan thai, đôi tay vươn lên khởi
đầu, bàn tay đưa ngả theo hướng sau lưng như chống cả bầu trời, giống
đôi sừng trâu biểu tượng "đầu trâu móng nước" một sắc thái văn hóa
nhiều dân tộc thiểu số, cũng như tượng hiến tế của người Cơtu.
Tung tung - da dá là điệu múa hòa trộn cho thấy sự hiệp lực của đàn ông,
thanh niên với đàn bà và thiếu nữ Cơtu cũng là âm dương trong vũ trụ
bao la xảy ra trong cùng một thời gian và xoay vịng trong một vịng trịn
nhất định. Do đó, khi tham gia vào vòng tròn trong điệu múa, bao giờ đàn
bà, con gái cũng bước ra múa trước nối tiếp hàng đàn ơng, con trai tạo
thành vịng múa di chuyển từ trái sang phải, còn từng người tự quay vòng
tròn quanh mình, chân nhún nhẹ nhàng ln thực hiện động tác từ phải
sang trái theo nhịp điệu cồng chiêng và tiếng trống thập thình nhịp nhàng
trên đơi chân và nhẹ nhàng quay thân mình theo chiều thuận kim đồng

hồ.
Tung tung da dá trở thành thần tố thúc đâỷlao động sản xuất phát triển.
Tung tung da dá còn là nơi gởi gắm tình u đơi lứa, u làng bản, u
mảnh rừng... của người Cơtu. Tung tungda dá như gắn bó chặt chẽ con
người với con người, con người với cuộc sống thiên nhiên nhiều hơn
Nhằm tôn vinh các giá trị văn hóa vật thể phi vật thể của các dân tộc,
trong phiên họp Hội đồng Di sản Quốc gia lần thứ VII tại Hà Nội vào
ngày 12.8.2014, đã công nhận loại hình múa tung tung da dá của người
Cơtu là Quảng Nam là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
2.1.2. Truyện cổ.
Truyện cổ của dân tộc Cơ Tu có số lượng khá nhiều, khơng trùng
lặp, được các nhà sưu tầm, biên soạn và công bố trong thời gian gần đây
đã phần nào nói lên được việc phát hy, bảo tồn những giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số ở Quảng Nam.
Tiếp cận truyện cổ của người Cơtu tôi thấy nội dung các truyện
được chia làm ba loại: Truyện cổ tích thần kì gồm các truyện: Tầm Mị
Zịi, Kồi Tù Rồih tìm nước cho làng, Tơ Rứt Kalang Batưng, Nàng Kăn
Tưi, Nàng Palo và chàng Kăn Tưi, Sut Kăn Mo, Chàng Arăng giết vợ, Tít
Mang - Tang Lơ, Partur Tơơm...; truyện cổ tích sinh hoạt: Ơng Vỗ Tơn,
Chàng Kăn Tưi nhanh trí, Kăn Kayhơâu, Tơ Rứt làm vua, Tơ Rứt tậu


trâu, Chàng lười, Kinhiar, Arưi Klúng.... và truyện cổ tích lồi vật: Vq
Arien, Thỏ và bà, Sự tích cây đao...
Trong truyện cổ Cơtu nổi lên nhân vật người mồ côi, hay gặp là
các chàng mồ côi. Các chàng mồ côi thường nghèo khổ, vì vậy mà khó
thuyết phục được bố mẹ của những cô gái khi muốn cưới các nàng. Bù
vào đó, người mồ cơi thường tốt bụng và có quyết tâm, nỗ lực lớn hơn
người khác; chưa nói các chàng thường được thần linh trợ giúp. Đó là
chìa khố thành công của họ. Xin nêu ra đây một vài nhân vật tiêu biểu

như Tơ Rứt, Kăn Tưi, Sut Kăn Mo, Tít Mang - Tang Lơ, Partur
Tơơm...hoặc các vị thần.
Hệ thống truyện cổ thần kỳ đã nhắc đến nhân vật Tầm Mò Zòi
trong truyện Tầm Mò Zòi được xem là một vị thần khổng lồ ẩn thân trong
một tảng đá lớn. Ơng Zịi đã cứu giúp dân làng sống cạnh tảng đá thốt
cảnh bị cướp bóc. Ơng cũng trừng trị những kẻ ác gây hại đến người
khác. Sức tài của ông vượt quá mức của những kẻ trần tục, nên ông chẳng
cần phải ra tay với ai, mà chỉ dùng đến “hắt xì hơi” là đã khiến đối
phương bị đẩy văng xa: “Tầm Mị Zịi chẳng nói năng gì ơng hất chiếc
mũi lên trời rồi cúi nhìn trưởng làng ăn cướp, hắt xì hơi một cái, vị trưởng
làng ăn cướp bay bổng lên không trung rồi rơi một cái thật mạnh xuống
ngay trước sân nhà Gươl của làng mình gãy mất xương sườn”; hay “Tầm
Mò Zòi hất chiếc mũi lên trên trời rồi hắt xì hơi một cái, lão chủ đất đã
bay tít về một phía làng Krơng. Tầm Mị Zịi lại hắt xì hơi thêm một cái
nữa thì mọi vật quanh đó bay theo lão, đưa lão về cõi chết”. Có thể nói
Tầm Mị Zịi là truyện kể về những người anh hùng đứng ra bảo vệ làng,
được làng kính trọng, cúng bái. Truyện này có phần gần với thần thoại,
do Tầm Mò Zòi thuộc thế giới các thiên thần phân biệt với nhân thần.
Đối với nhân vật Koài Tù Rốih biết làm ra những cơng cụ sản xuất bằng
đá như cuốc, rìu, biết cách giữ lửa để nấu nướng, biết làm cung tên để tự
vệ và bắn thú lấy thịt, biết đan lát các loại dụng cụ như kađư, gùi, cà
loòm, cà ria để phơi lúa và cất lúa. Kồi Tù Rốih cùng một chàng trai
làng Canơn đi tìm nước sạch cho làng. Họ gặp thần Rừng, được thần
đồng ý cho nước và bảo cho biết một trận lụt lớn sắp đến. Chàng trai mời
Kồi Tù Rốih cùng về làng Canôn.
Dân làng được tin, lo chuẩn bị đối phó với lụt. Nhờ đó, trận lụt đã khơng
gây thiệt hại đáng kể cho dân làng. Cịn nước thì tha hồ. Từ đó, cây cỏ,


động vật sinh sơi nảy nở; con người cũng có cái ăn cái mặc. Thấy vậy,

Kồi Tù Rốih xin ở lại hẳn luôn và được chủ làng đồng ý. Và dưới đây
là đoạn kết của Kồi Tù Rốih tìm nước cho làng: “Về sau nhờ biết làm
ăn, Kồi Tù Rốih còn bày cho dân làng làm được nhiều thứ nên chủ đất
giàu có trong làng gả con gái cho. Kồi Tù Rốih từ đó được vợ đẹp, con
ngoan và sống một cuộc sống sung túc”.
Hệ thống truyện cổ tích sinh hoạt thì lại thể hiện những vấn đề
trong cuộc sống làng bản, quan hệ họ hàng, cộng đồng, gia tộc....mỗi
truyện có một sắc thái riêng nhằm thể hiện những ước muốn, tâm tư tình
cảm của con người với nhau. Họ biết lấy thiện để thắng ác, biết ở hiền
gặp lành...Truyện Ông Vỗ Tôn kể về người đàn ông cùng tên tốt bụng,
được một bà lão tặng cho con gà mái choai. Từ gà ơng có lợn, từ lợn có
bị, từ bị có trâu, từ trâu có bạc thỏi, bạc nén, mã não…Từ bạc thỏi, bạc
nén, mã não, ơng có voi…Nhưng quan trọng hơn, ơng có được cuộc sống
giàu sang hạnh phúc nhờ cần cù công việc chăn nuôi và sống tốt với mọi
người. Phải chăng, chăm làm và lương thiện là bài học lớn, bài học vỡ
lòng mà việc giáo dục con người không thể không chú ý?
Truyện Chàng Kăn Tưi nhanh trí thì lại kể về một chàng Kăn Tưi mồ côi,
sống với bà nội, lớn lên, chàng để ý đến một cơ gái giàu có trong làng. Bố
cơ gái là một người tham lam, độc ác. Để chứng tỏ với mọi người mình là
người thơng thái và cơng tâm, ông nhà giàu này ra câu đố cho các trai
làng lăm le muốn cưới con gái mình: “Cái đen được gọi là than, cái trắng
được gọi là chén, cái dài là mây trời có phải khơng?”. Khơng chàng trai
nào trả lời đúng, trừ Kăn Tưi (được bà nội bày), ấy là “Cái đen là đêm,
cái trắng là mặt trời sáng của ban ngày, cái dài là đường đi ngang dọc, đi
đâu cũng có đường để đi”. Ơng ta bội ước, không chịu gả con gái cho
Kăn Tưi. Nhân việc có con voi chết bị lũ chim moi thịt ăn rỗng ruột, chỉ
cịn lớp da dày, Kăn Tưi tìm cách bít chỗ hậu mơn voi, nơi lũ chim chui
vào, rồi đánh bên ngoài khiến lũ chim hốt hoảng bay lên, nâng cả con voi.
Kăn Tưi cưỡi voi bay đến nhà lão nhà giàu. Lão ta thích chí bằng lịng gả
con gái cho Kăn Tưi, và đổi hết gia tài để lấy con voi bay. Kăn Tưi đồng

ý, dặn lúc bay đến suối nước nóng thì tháo cái sọt bít ở dưới đuôi voi ra
cho voi xuống uống nước. Lão nhà giàu độc ác cưỡi voi bay, thích chí vơ
cùng. Đến chỗ suối nước nóng, lão nhà giàu mở cái sọt ở dưới đuôi voi ra
như Kăn Tưi dặn. Lũ chim thấy có lối thốt, vội phóng cả ra ngồi. Voi


rơi xuống đất, hất lão nhà giàu vào tảng đá to, chết tươi. Kăn Tưi từ đó
được hưởng giàu sang và hạnh phúc.
Hệ thống truyện cổ tích lồi vật có mẩu truyện Vq Ariên kể về
sự nhìn nhận của nhiều con vật về con người, qua một con vật thông
minh là Vq Ariên (một lồi ốc đá ở khe suối). Có một người bị mắc
bẫy, Voóq Ariên cho mời các các con vật đến để nhận diện và giới thiệu
với chúng. Lần lượt nhiều con vật trình bày khả năng của mình trong
quan hệ với con người: chim, dúi, hổ, báo, cá, rùa, hươu, nai, bị tót, kiến,
voi. Cuối cùng, Vq Ariên nhắc lại với các lồi vật rằng: "Tà hừ Tà hà
(người) có hàng ngàn cái khơn mà chúng ta chưa biết được, giờ đây họ
đang mắc bẫy của Cà Xau (một loài kiến đỏ, thường làm tổ ở cành cây
cao), để yên thân, chúng ta nên thả cho họ về". Qua truyện này, người
đọc có thể chiêm nghiệm lại mình vì con người có trí khơn siêu việt,
người Cơtu đã sớm nhìn nhận về những gì mà tạo hóa đã ban cho con
người có khả năng chinh phục tự nhiên và xây dựng xã hội phát triển.
Truyện Thỏ và bà kể về một con thỏ ranh ma. Bà sai thỏ đi nhổ cỏ lúa, nó
nhổ sạch lúa. Nó lấy tất cả nồi niêu chén bát trùm lại rồi bám ở dưới gầm
giường rên rỉ để bà tưởng nó mà đánh, khiến chúng tan hoang. Nó lừa để
bà đốt chết hai đứa cháu của mình. Thỏ bỏ người bà, đi vào rừng, hắn lừa
rắn hổ, lừa cả hổ, khiến hổ phải chết.
2.1.3. Âm nhạc dân gian.
Dân tộc Cơ Tu cũng có bài dân ca giao duyên va mang tên là hát “
cha chấp”. Hát “ cha chấp “được trai gái độ tuổi yêu đương rất thích. Nội
dung của hai bài hát “ cha chấp “ là lời tỏ tình, là lời tâm tư, tình cảm của

những người giàu lịng u thương, khao khát có một cuộc sống gia đình
no ấm, yên vui...[A4]

“ Anh bắt được con nai, em muốn anh là con rể của mẹ
Anh săn được con gấu, em muốn anh là con rể của cha”
( Amo- mô kiêng a-cu –Dan ca Cơ Tu)


Nói lý - hát lý (p'rá pr'ma-têng bhanoóch) là một loại hình nghệ
thuật ứng khẩu, truyền khẩu rất độc đáo của người Cơtu. Nghệ thuật này
vẫn được các bậc cao niên gìn giữ ở hầu hết các làng bản (carơnoon)
Cơtu. Ngày nay, lớp trẻ chỉ được thưởng thức nghệ thuật p'rá pr'ma-têng
bhanoóch qua các lần tổ chức đám cưới (têng bhiệc đam), ăn mừng lúa
mới (cha haroo tamee) hay lễ ăn thề kết nghĩa anh em (pr'ngoóch-gương
yên)...
Nói lý - hát lý được dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa của
người Cơtu, được xem là nghệ thuật “so tài” giữa các cụ cao niên, tiền
bối làng này với các cụ cao niên tiền bối làng kia, giữa chủ nhà với
khách...; thậm chí được dùng trong cơng việc giải quyết mâu thuẫn nội
bộ, xã hội trong cộng đồng tộc người Cơtu, có tác dụng hịa giải mang
tính chất “giả định khẳng định” buộc người khác phải thừa nhận và nghe
theo. Nói lý - hát lý của người Cơtu thường nhiều lớp nghĩa, ý càng sâu,
kín đáo, đối thủ khơng hiểu (khơng cịn "đấu" lại được) thì càng chứng tỏ
tài nổi tiếng của người hát. Cái khó của p'rá pr'ma-têng bhanch là
khơng có bài mẫu chung để học hát, học nói mà nó phụ thuộc vào việc
ứng khẩu của người đưa ra, tức theo trình độ, khả năng kinh nghiệm của
từng nghệ nhân, người hát. Chính vì thế mà nhiều thế hệ trẻ Cơtu hơm
nay rất ít ai nói lý - hát lý được một cách thông thạo, nhuần nhuyễn. Đây
là vấn đề nan giải cần được khắc phục, không quan tâm đúng mức sẽ có
nguy cơ bị mai một và dần mất đi.[A5]


Đám cưới là dịp người Cơtu thường sử dụng nghệ thuật nói lý - hát
lý. Sau khi đón khách xong, chủ nhà (thường nhà trai) chuẩn bị mâm tiệc
đón khách (ch'nao) hoặc đón chào các bậc cao niên (pay buốh tacoóh);
đại diện chủ nhà thường là những người có uy tín, kinh nghiệm, có trình
độ ứng khẩu tốt khởi xướng đầu tiên (pay h'la, tức “tuyên bố lý do”).
Thường thì chủ nhà nói rất khiêm tốn trong việc tiếp đãi tiệc tùng... Hát
lý bao giờ cũng sau nói lý, hát lý là bước nâng cao giá trị của nói lý.
Thường chủ tiệc chọn thời điểm thích hợp để cất lên tiếng hát mở đầu:
"Ơ... ơ... ơ... Azơ achoọng/coonh vóc, coonh êên..." (phần đệm của điệu
nhạc) sau đó mới đi vào nội dung chính, với những từ ẩn ý, sâu lắng trong
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Cái đặc sắc trong câu nói lý hát lý là giữ được giá trị đạo lý của dân tộc, ví dụ muốn ví bề trên, người
có uy tín thì người nghệ nhân đưa ra các vật có giá trị tương xứng như


“con gấu đem mật cho người”, “con trâu kéo cày giúp đời”, “con voi xác
to, voi quý”...
Câu nói lý - hát lý của người Cơtu rất đa dạng về ngôn từ, người ta
sử dụng nhiều hình ảnh lạ, sâu kín tạo một sự ẩn ý khá độc đáo, yêu cầu
người nghe phải động não suy nghĩ. Do sự kín đáo như vậy kết hợp với
những lý lẽ khó hiểu mà có rất nhiều người khi nghe khơng nắm bắt hết ý
của người nói, người hát muốn đề cập, nên cũng thường gây sự hiểu
nhầm. Nhưng trong hát lý người ta lại thường nói ngầm (nếu muốn trách
móc người nào đó) một cách sắc bén, kín đáo, nhẹ nhàng. Một cái hay
nữa trong nói lý - hát lý của người Cơtu là người Cơtu khơng bao giờ sử
dụng câu nói, câu hát tục tĩu, thiếu văn hóa hay gây mâu thuẫn, mất đoàn
kết với nhau; mà ngược lại tăng thêm sự đồn kết, hiểu nhau hơn.
Với nói lý - hát lý, người Cơtu có quyền khẳng định nghệ thuật
truyền thống của mình và tự hào về nét văn hóa nghệ thuật có một khơng
hai này. Ngồi nghệ thuật p'rá pr'ma-têng bhanch, người Cơtu cịn có

nhiều loại hình nghệ thuật ứng khẩu tương tự rất độc đáo nhưng theo vần
điệu như chàchập-babóoch (hát giao duyên), hau c'lêng (khóc người
chết)... Mặc dầu vậy, những bậc cao niên Cơtu vẫn trăn trở mỗi khi nhắc
đến truyền thống văn hóa của dân tộc. Già làng Alăng Phát tâm sự: “Bọn
trẻ ngày nay bảo xấu hổ khi mặc khố, múa hát cồng chiêng. Chúng cũng
không muốn nghe khi già nói lý - hát lý, vì cho rằng... lạc hậu!”. Vì vậy,
sẽ rất đáng lo ngại một khi những giá trị văn hóa của đồng bào Cơtu
khơng được trao truyền, tiếp nối.
2.1.4 Nhạc cụ dân gian
Cây đàn hroa (hờ roa) của đồng bào dân tộc Cơ Tu gần giống với cây đàn
Cò của người Kinh. Cây đàn cũng là một tác phẩm nghệ thuật hát không
há miện rất độc đáo của người Cơ Tu.[A6]
Chiều dài toàn bộ cây đàn khoảng 50 cm, được chia làm hia phần chinh :
Đế đàn làm bằng một mảnh gỗ mỏng gần 1 cm, dài trên 10 cm, có chạm
trỗ hoa văn hoạ tiết rất đẹp. Khi chơi đàn có thể dùng hai ngón chân cái
và trỏ kẹp vào phần dưới củ đế đàn nhằm định vị cho cây đàn. Thân đàn
gồm một ống nứa nhỏ, đường kính gần 30 cm, đầu dưới được gắn vào đế
đàn, phần trên để trống và cũng là nơi chứa cần đàn (cần kéo)- khi khôn
sử dụng. Gần đầu đàn có một cái chốt bằng tre xuyên qua thân đàn để lên
dây đàn. Dưới chốt, trên thân ống có gắn 3 cái núm nhỏ làm bằng chai


chò (cây chò), gọi là vú đàn và gắn theo chiều dọc của ống, có khoảng
cách 1 cm giữa các vú. Ngồi ra, có một sợi chỉ ( dài hơn thân đàn một
chút ), nối từ nơi tiếp giáp giữa đế đàn và thân đàn, đến cuối sợi chỉ thì
xuyên qua một mảnh vải con trút, cắt theo hình trịn.
Đàn đựoc chơi qua hai cách. Cách thứ nhất : dùng cây cần bằng tre hay
nứa kéo qua lại chỗ tiếp giáp giữa cây đàn và thân đàn, đồng thời các
ngón tay của bàn tay trái bấm dây đàn, âm thanh phát ra như những cây
đàn bình thường khác. Cách thứ hai : là người sử dụng dùng hai hàm răng

cắn miếng vỏ trút và giữ cho sợi chỉ nằm trong tình trạng căng ra (khơng
bị trùng) đồng thời hát ( hát trong khi hai hàm răng vẫn cố định, không há
miệng ). Âm thanh lúc ấy phát ra lớn hơn và khơng cịn nghe tiếng nhạc
đơn thuần nữa mà là nghe hoà quyện lời ca lồng trong tiếng nhạc, nghe
rất não nùng, đượm màu hoang dã, lơi cuốn ngưịi nghe.
Areeng là một loại sáo thổi dọc, được làm bằng một ống nứa dài khoảng
34cm, có 2 lỗ bấm có lưỡi gà được tách ra từ vỏ ống nứa đặt bên mép
ống. Khi thổi phải ngậm kín phần có lưỡi gà trong miệng. Đây là loại sáo
thô sơ nhất, dễ kiếm dễ làm.[A7]
Mặc dù chỉ 2 lỗ bấm, nhưng các già làng thổi thành thạo có thể thực hiện
từ 4 đến 5 âm với những nét nhạc linh hoạt:
Tiếng Areeng đục hơn tiếng sáo trúc của người Kinh. Do vật liệu thô sơ,
chế tác đơn giản nên âm thanh chưa hẳn ở cái sáo nào cũng chuẩn. Cái
Areeng chúng tôi khảo sát là do già làng Quỳnh Hoàng (một nghệ nhân
của người Tà Ôi, biết sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ) chế tác. Ông là
người chế tác hầu hết các loại nhạc cụ cho người Cơ Tu ở A Lưới.
Sáo Areeng thường được trai gái Cơtu dùng để tỏ tình trong những buổi
đi sim. Có loại Areeng 2 lưỡi gà đặt ở 2 đầu ống dùng cho 2 người thổi,
một nam và một nữ trong giai đoạn tìm hiểu hoặc mến thương nhau. Loại
Areèng này dài hơn khoảng 5cm có 3 lỗ nhưng 2 người chỉ sử dụng 2 lỗ 2
đầu cịn lỗ giữa để thốt hơi.
Talee là một loạ sáo cũng thổi dọc như sáo Areeng nhưng dài hơn –
khoảng 50 – 55cm và có gắn núm trái bầu khô làm loa sáo, làm cho tiếng
vang to và xa hơn.[A8] Talee có 4 lỗ bấm thực hiện được 5 âm khơng có
bán âm với nét nhạc sau đây:


Karyok ayol giống như một cái Tù và nhỏ vì được làm bằng sừng dê núi,
chỉ dài khoảng 10 – 12cm, đường kính ở góc sừng khoảng 2,5cm. Lưỡi
gà đồng đặt cách chóp sừng, phía trong hình vịng cung 3cm – đầu nhọn

của sừng được cắt thủng. Khi thổi có thể bịt cả 2 đầu hoặc không bịt để
tạo ra âm khác. Màu âm của Karyok ayol sáng và chói nhọn, đôi lúc the
thé như tiếng của thú rừng.
Thường hay được thổi trong lúc lên nương rẫy cho vui chân, đỡ buồn và
có tác dụng đuổi thú rừng phá hoại hoa màu. Nó cũng là tín hiệu báo cho
nhau giữa rừng xanh núi thẳm. Trong một số lời ca của điệu hát Baboih
và chachấp do nhạc sĩ Minh Phương sưu tầm, có bài có đề cập đến 2 nhạc
cụ này.
Tarqơơi toók là một nhạc cụ đơn giản Họ hơi, chi thổi chỉ thấy ở người
Cơ Tu. Tarqơơi toókđược làm từ một đoạn ống tre dài khoảng 25cm,
đường kính khoảng 2cm. Một đầu ống tre có mắt kín, có đục lỗ thổi ở
mép ống, gần mắt, đầu kia rỗng được khoét, vạt vào thân ống bằng ½
chiều dài có tác dụng để điều khiển âm thanh. Người diễn tấu thổi trực
tiếp vào lỗ thổi, tay trái nâng nhạc cụ, tay phải điều khiển âm thanh. Sáo
Tr’ơi toóc nghe rộn ràng, phấn chấn. Cũng như Karyok ayol, Tarqơơi
toók chỉ có một âm cố định phát ra trên một lỗ thổi, sự điều khiển âm
thanh ở tay phải chủ yếu là tạo âm thanh bắt chước tiếng hót của một số
loại chim rừng. Vì thế khơng phải là một nhạc cụ sở trường diễn tấu giai
điệu.
Các dân tộc anh em trên vùng Trường Sơn – Tây Nguyên như: Ba-na, Giẻ
Triêng, Xơđăng, Giarai… trong đó có người Cơtu, đều có vốn âm nhạc
truyền thống đặc sắc. Cồng chiêng là loại nhạc cụ phổ biến ở hầu hết các
dân tộc và nó trở thành một loại nhạc cụ không thể thiếu trong các lễ hội
truyền thống, trong ma chay, cưới hỏi… Mỗi dân tộc có cách sử dụng
cồng chiêng riêng cho dân tộc mình.
Cồng chiêng đã làm nên nét độc đáo và phong phú của văn hóa vật thể –
phi vật thể trong đời sống cộng đồng người Cơtu. Nó trở thành một thứ
nhạc cụ không thể thiếu trong các lễ hội truyền thống, là ngôn ngữ nối
con người với các đấng siêu nhiên như: Yàng, thần linh, ông bà, tổ tiên…
[A9]

Do đặc điểm cư trú, hiện người Cơtu vùng núi Quảng Nam sinh sống
thành 3 vùng: người Cơtu vùng cao, người Cơtu vùng trung, người Cơtu


vùng thấp, với số dân khoảng 42.266 người. Họ đều xem cồng chiêng là
loại hình văn hóa nghệ thuật mang đậm đà bản sắc và nó có mặt trong
những lễ hội truyền thống tưng bừng của buôn làng như: Lễ ăn mừng lúa
mới (Cha ha roo tơmêê), lễ ăn mừng được mùa (Bhuối Aví), lễ bỏ mả
(Têng-Ping), lễ ăn mừng nhà Gươl (Lang tơrí), trong những giờ phút chia
ly, đưa tiễn người thân, bạn bè, đón mừng ngày vui chiến thắng, lễ ăn thề
kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cơtu (Pơ-ngt)… cồng chiêng lại
vang lên hịa cùng cuộc sống của người Cơtu giữa Trường Sơn đại
ngàn…
Cồng chiêng là loại nhạc cụ đã được một số nhà nghiên cứu, một số nhạc
sĩ… tìm hiểu về thể loại nhạc cụ này. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ
nằm trong những giới hanạ, trong bài viết nhỏ này, chúng tôi muốn đề
cầp về vai trò và chức năng của cồng chiêng trong đời sống hằng ngày,
trong những dịp lễ hội truyền thống… của cộng đồng người Cơtu.
Khi tìm hiểu về nhạc cụ truyền thống trong đó cồng chiêng của người
Cơtu vùng núi Quảng Nam, các nhà nghiên cứu, một số nhạc sĩ… đều
cho rằng: Người Cơtu vùng cao, người cơ tu vùng trung có tiết tấu cồng
chiêng chậm và trầm, người Cơtu vùng thấp có tiết tấu cồng chiêng
nhanh, rộn rã. Được biết, dù người Cơtu phân bố trên 3 vùng nhưng ở họ
đều dùng hai loại chiêng: chiêng bằng và chiêng núm với 6 chiếc to, nhỏ
khác nhau
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, ở người Cơtu trong các lễ hội lớn của
buôn làng như: lễ ăn mừng lúa mới (Cha ha roo tơmêê), lễ ăn mừng được
mùa (Bhuổi Aví), lễ ăn thề kết nghĩa anh em giữa hai làng người Cơtu
(Pơ-ngoót), lễ ăn mừng nhà Gươl (Lang tơri)… người Cơtu thường tấu
nhạc điệu cồng chiêng bằng cách tác động vào núm cồng, vào điểm giữa

của chiêng, kết hợp với dùng tay trái chặn vào mặt sau ở vào thời điểm
cần thiết (tức là ngắt tiếng). Đó là kỹ thuật, nghệ thuật trong cách đánh
cồng chiêng của người Cơtu. Phổ biến họ gõ cồng chiêng bằng dùi có bọc
vải ở đầu, gõ cồng chiêng bằng dùi để trần, là một đoạn cây dát mỏng,
mềm, lúc họ lại tấu cồng chiêng bằng phần mềm của nắm tay.
2.2 Giá trị của văn nghệ dân gian của người Cơ Tu đối với kho tàng
văn học các dân tộc Việt Nam
2.3.1. Giá trị lịch sử.


Văn nghệ dân gian của người Cơ Tu nói riêng cũng như của các
dân tộc thiểu số khác nói chung đều cung cấp một số tư liệu về nguồn gốc
dân tộc, quá trình di cư và những sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng
đồng. Đầu tiên là những câu chuyện, sử thi, những bài ca dao dân ca, hay
những điệu múa truyền thống của họ đều là những tài liệu quý để tìm
hiểu về nguồn gốc tộc người.
Văn nghệ dân gian mang giá trị lịch sử bởi những câu chuyện sử
thi theo lối hát-kể, những điệu hát dân ca, ca dao hay kể cả những tri thức
bản địa đều có từ lâu đời trải qua bao nhiêu năm thang trầm lịch sử những
câu chuyện đó vẫn được lưu truyền lại từ đời này sang đời khác. Ngày
nay các cụ, già làng vẫn thường tổ chức những buổi họp để kể những câu
chuyện cổ tích và hát những bài hát dân ca cho các cháu nghe. Hiện tại
luôn tồn tại cùng với lịch sử vì vậy cần phải giữ gìn và phát huy những
phong tục tập quán truyền thống của dân tộc.
2.3.2. Giá trị văn hóa, nghệ thuật.
Văn nghệ dân gian của người Cơ Tu góp một phần khơng nhỏ vào
kho tàng văn hóa dân gian cổ truyền. Nó phản ánh cuộc sống lao động
sản xuất, nếp sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng của người Cơ Tu.
Trong các lễ hội có nhiều loại hình văn hố nghệ thuật được trình diễn,
các loại nhạc cụ dân tộc như: chiêng, khiên… được sử dụng trong các dịp

lễ, tết có khả năng biểu cảm khác nhau, khi hoà tấu trở thành một dàn
nhạc dân tộc rất độc đáo. Âm nhạc cũng rất đa dạng tuỳ thuộc vào mỗi lễ
thức cụ thể, có khi rất tĩnh nghiêm, trầm lắng, có khi lại sôi động, vui
nhộn tùy thuộc vào từng lễ. Bên cạnh đó, với những bài thơ, những lời ca;
những câu ca dao, tục ngữ; những điệu nhảy trong các lễ hội rất độc đáo
và mang tính vũ đạo cao.
Đây có thể coi là những giá trị văn hóa truyền thống quý báu được
kết tinh trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt của đồng bào
Bana. Đó là cơ sở, làm nền tảng cho việc sáng tạo những giá trị văn hóa
mới vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt có vai trị quan
trọng trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phong phú, lành
mạnh trong giai đoạn hiện nay. Những giá trị nghệ thuật là nên tảng vững
chắc cho sự phát triển ổn định, thống nhất, đậm đà bản sấc dân tộc, góp
phần cho nền văn hóa dân gian cổ truyền Việt Nam nhiều màu sắc.
2.2.1. Giá trị nhân văn


Trong nếp sống hằng ngày, người Cơ Tu bộc lộ tinh thần tương thân,
tương trợ trong phạm vi làng và tuân thủ luật tục của làng, tinh thần đoàn
kết trong cộng đồng và với các cộng đồng dân tộc khác.
Do sống ở vùng cao cách trở nên trong đời sống, đồng bào dân tộc Cơtu
rất chú trọng đến yếu tố cộng đồng. Bởi đó là sức mạnh để họ chống chọi
với thiên tai, địch họa và thú rừng. Họ dựa vào nhau để sống, để tìm kế
sinh nhai, để tồn tại trước khắc nghiệt của mơi trường sống. Có thể nói,
yếu tố cộng đồng đầy tính nhân văn, nhân bản ấy, đã ăn sâu vào tâm thức
của người Cơ Tu để rồi dần hình thành phong tục ăn mừng lúa mới, cùng
sinh hoạt lễ hội đâm trâu và cùng sum vầy ăn uống khi trong làng có
người đi săn được thú rừng. Trong sự yên vắng, bình dị của mỗi làng, hễ
cứ nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên có lẽ là lúc dân làng đón nhận
tin vui hay buồn (tùy theo mỗi điệu và nhịp trống) và mọi người đều phải

bỏ dở việc làm để chạy về ngôi nhà chung. Tộc người Cơ Tu sống trung
thực, thẳng thắn, công bằng, kính trên nhường dưới (thể hiện ở sự tơn
trọng già làng, người có uy tín trong cộng đồng hay kể cả việc chia sản
phẩm làm ra cho đứa trẻ còn trong bụng mẹ). Trong hành vi và quan niệm
của họ, những chuẩn mực được phân định tuyệt đối theo thái cực đối lập:
tốt - xấu, đúng - sai, có - không. Đây cũng là triết lý của người Cơ Tu
trong hành vi, lối ứng xử hằng ngày của mình
2.2.2 Giá trị thẩm mĩ
Trong hệ thống những giá trị văn hóa phi vật thể của người Cơ Tu như
phong tục tập quán, tín ngưỡng, ứng xử giao tiếp và các loại hình nghệ
thuật thì ở mỗi loại hình đều có những biểu hiện giá trị mang đậm dấu ấn
cả về hình thức lẫn nội dung của dân tộc mình, một trong những biểu hiện
đó chính là nghệ thuật âm nhạc và múa truyền thống của người Cơ Tu.
Nằm trên dãy Trường Sơn cùng với nhiều tộc người các dân tộc Tây
Nguyên như: Bana, Giarai, Êđê, H’mông, Xêđăng… nhưng múa dân gian
Cơ Tu có sự độc đáo khác lạ từ đường nét tạo hình đến luật động tác, tồn
diện từ tay, chân và mình… Tạo hình chủ đạo của múa Cơ Tu do các cơ
gái thể hiện là tạo hình hai tay dâng lễ vật hướng lễ vật hướng lên bầu
trời. Những bước nhảy nhỏ nhảy nhích ngang, những động tác lượn người
quay nữa vòng làm cho sự diễn tả thân hình phong phú. NSND Thái Ly
khi sưu tầm múa dân gian Cơ Tu đã nhận xét: “Đây là những nét múa của
một dân tộc có nền văn hóa múa có chiều sâu và chiều cao”. Chính từ


nhận xét và cảm xúc ấy ông đã cùng với NSƯT Ngân Qúy đã tạo nên một
sáng tác nổi tiếng về múa Cơ Tu.
Vòng múa của người Cơ Tu thường chuyển động ngược vòng kim đồng
hồ, như ngược lại thời gian thể hiện sự trân trọng, sự đề cao quá khứ
truyền thống
Động tác múa Cơ Tu kể cả phần tay và phần chân đều rất khác trong

động tác múa của dân tộc vùng Tây nguyên, chính những động tác ấy đã
tạo ấn tượng rất cao cho người xem.
Trang phục múa luôn gắn liền với động tác múa. Những tấm váy của các
cô gái Cơ Tu hỡ vai để lộ đôi vai trần tạo nên trang phục rất đẹp mắt và
hấp dẫn.
Âm thanh, giai điệu Cồng chiêng hòa nguyện trong múa dân gian Cơ Tu
là phần hồn của múa.
Có lẻ vì lý do đó mà một khán giả khi xem tác phẩm Múa Cơ Tu của cố
NSND Thái Ly và NSƯT Ngân Quý dàng dựng đã cảm xúc viết:
“Tổ quốc yêu thương, vất vả, anh hùng
Đã cho ta bàn tay rất đẹp
Có dun dáng của hoa, độ bền của thép
Ni cho đời bằng hai bàn tay
Giản dị yêu thương trên dãi đất này
Ta quý trọng bàn tay con gái ….
Quê hương tự hào từ những bàn tay
Em múa đi cho đẹp tháng ngày
Cho lúa lên xanh cho đồng no đủ
Cho tình yêu ngàn đời quyến rủ
Đất nước đang cần hàng triệu cả bàn tay”
Mấy dịng thơ trên được trích ra từ một bài thơ dài đăng trên Báo “Sài
Gịn Giải Phóng” ngày 01 tháng 11 năm 1975. Tác giả Văn Dung đã rung



×