TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
PHAN THỊ THANH NHANH
SỰ HÒA QUYỆN GIỮA THI VÀ HỌA
TRONG THƠ ĐƯỜNG
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: LÊ THỊ NGỌC BÍCH
Cần Thơ, 5 - 2011
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, có những giá trị văn hóa và thẩm mĩ để lại cho ta những
cảm xúc tuyệt vời và ấn tượng không thể nào hòa lẫn. Đường thi là một đỉnh cao
của nghệ thuật. Giá trị văn hóa mà nó đã tạo ra vô cùng to lớn cả về nội dung lẫn
hình thức. Đường thi đã trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo. Thành tựu về
thơ Đường là rất lớn. Thơ Đường có thể trở thành di sản văn hóa thế giới, đặc biệt
là giá trị tạo hình của nó. Bên cạnh đó, thơ Đường còn ăn sâu vào tâm thức của
người Việt. Biểu hiện rực rỡ nhất của sự gặp gỡ ấy trong thời hiện đại đó chính là
nhân cách văn hóa lớn Hồ Chí Minh. Được tiếp cận với thơ Đường, đặc biệt môn
Hán Nôm, phần nào người viết hiểu được giá trị của Đường thi. Nó đã trở thành
động lực để người viết tìm hiểu và nghiên cứu về một phần giá trị mà thơ Đường đã
mang lại cho nhân loại. Đó chính là giá trị tạo hình của ngôn ngữ thơ Đường.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là thơ Đường chỉ gợi mà không tả, không
nghị luận phân tích, nhưng giá trị tiềm ẩn sâu trong từng câu chữ thật khó lòng để
hiểu và nắm bắt hết những gì mà tác giả muốn truyền tải. Bởi một lẽ, nhà thơ ít khi
nói hết ý mình mà thường chỉ tạo những mối liên tưởng để độc giả tự cảm nhận từ
đôi mắt và trái tim của mình. Phải chăng vì thế mà thơ Đường luôn có một sức hút
đặc biệt với độc giả và những nhà nghiên cứu?
Trong Lịch sử văn học Trung Quốc (tập một), NXB Giáo dục (1997 1998), tác giả đã giúp cho độc giả có một cái nhìn tổng quát về một nền văn học
hết sức phong phú của một đất nước vĩ đại ở châu Á. Đi từ văn học thời Thượng
Cổ đến nhà Tùy, từ văn học trong xã hội phong kiến đến giai đoạn văn học thời
Chiến Quốc. Đặc biệt, quyển sách đã cung cấp những tri thức về chính trị xã hội
Trung Quốc từ thời Thượng cổ đến hết đời Đường. Giúp cho người đọc nắm được
những tiền đề, mầm mống khai sinh của nền văn học viết trên đất nước này. Trong
“sự phồn vinh của văn học thời Đường” các tác giả cho rằng các ngành nghệ
thuật: thi, họa, âm nhạc và vũ đạo có một mối quan hệ mật thiết với nhau. “Các
nhà văn khi đã được hưởng thụ cái đẹp của các ngành nghệ thuật kia, thì nâng cao
được sự tu dưỡng nghệ thuật, và đời sống tinh thần lên, đồng thời cũng làm phong
phú nội dung tác phẩm của mình hơn và phát triển các hình thức văn học hơn”.
Do đó “các nhà thơ Đường làm rất nhiều bài thơ đề họa… tình thơ và ý họa chan
chứa vào nhau, cái nọ nâng cao cái kia, và âm nhạc với thơ ca cũng vốn là chị em
sinh đôi”[24; tr. 412]. Đối với đề tài nghiên cứu, quyển sách đã cung cấp những
đơn vị kiến thức văn học cơ sở, những tiền đề để người nghiên cứu có thể đi sâu
vào phân tích đề tài không chệch hướng.
Qua Thơ Đường của Hồ Sĩ Hiệp, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh,
năm 1995, tác giả đã dành riêng những trang để đánh giá về tinh hoa văn học Trung
Quốc trong chương trình cải cách môn văn của nước ta. Từ đó, tác giả đã làm rõ
lịch sử thơ Đường, đồng thời cũng đưa ra cách đánh giá, phân tích, bình luận một số
tác phẩm thơ Đường nổi bật được tuyển chọn trong nhà trường. Trong quyển sách
này, tác giả còn tập hợp được một số bài nghiên cứu của các tác giả Việt Nam viết
về thơ Đường như: Trần Trọng Kim trong “Đường thi” cho rằng: “Nói về thơ Hán
văn thì thơ Đường là hơn cả, tình ý tao nhã, ý nghĩa sâu xa, có thể nuôi được cái
khí hạo nhiên của con người ta, tức là di dưỡng được tính tình cao thượng và chân
chính” [9; tr. 125]. Hay như ý kiến của Ngô Tất Tố khi nhận xét về Đường thi như
sau: “Muốn tìm những bài thơ hoàn toàn xứng đáng với mỹ thuật chỉ có thơ
Đường” [9; tr. 126]. Ta có thể thấy Ngô Tất Tố có phần nhận xét nghiêng về chủ
quan và duy ý chí của mình, nhưng qua đó ta cũng thấy được sức sống mãnh liệt và
rất độc đáo của Đường thi. Trong quá trình phân tích, bình luận tác giả có chú ý đến
yếu tố “thi trung hữu họa”, thế nhưng nó chỉ dừng lại ở cách nhìn nhận như một
đặc điểm của thi pháp thơ Đường.
Trong bài giảng chuyên đề về Thi pháp thơ Đường, của G.S Lương Duy
Thứ, NXB Đại học Sư Phạm, năm 2004, ông đã cung cấp cho nguời đọc cách nhìn
chung nhất và cơ bản nhất về bút pháp thơ Đường, về những tư tưởng Trung Quốc
cổ đại: “Thơ cổ Trung Quốc gắn bó chặt chẽ với hội họa và cả âm nhạc… hầu như
các nhà thơ Trung Quốc khi làm thơ đều vận dụng các thao tác tư duy tổng hợp:
gợi âm thanh, gợi đường nét và lấy đó tô điểm thêm cho ý thơ. Điều này có liên
quan đến văn tự và hội họa truyền thống” [21; tr. 25]. Nhà nghiên cứu đã nhìn nhận
các thi sĩ đã tận dụng tính chất đa thanh của chữ Hán và lối gieo vần tự gợi lên điểm
nhìn và tiết tấu âm nhạc của thơ cổ. Chúng đều nhằm đến sự vang vọng của nhạc và
họa trong thơ. Tác giả đã làm cho độc giả phải chấp nhận rằng: Mảng văn chương
này đã tồn tại và tỏa sáng từ lúc mới ra đời, từ thời Sơ Đường cho đến nay, đã được
gọt giũa bởi thời gian, làm cho viên ngọc này càng rực rỡ và lóng lánh. Qua đó, tác
giả còn tạo được sức thuyết phục cao từ việc nghiên cứu về âm vang của thơ Đường
trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Có thể nói “Thi pháp thơ Đường” là
cách nhìn nhận thơ Đường về mặt thi pháp học.
Trung Quốc nhất tuyệt, tập hai, do tác giả Lý Duy Côn chủ biên. Tác giả
gần như đã tập trung đánh giá được phần lớn những kiệt tác văn chương, hội họa,
kiến trúc nghệ thuật và những thiên khoa học kỹ thuật đã đạt đến đỉnh cao mà đất
nước Trung Hoa đã cống hiến cho nhân loại. Tuy không đi sâu vào phân tích giá trị
của thi và họa, của một bông hoa đẹp trong vườn hoa thi ca thế giới, nhưng quyển
sách đã đặt ra vấn đề: các thi sĩ đồng thời là các nhà nghệ sĩ tài ba. Họ đã hòa trộn
thơ văn, thi pháp, hội họa và ấn chương với nhau thành một chỉnh thể thống nhất.
Bởi lẽ, chúng có mối quan hệ vô cùng mật thiết với nhau. Đó cũng chính là nghệ
thuật tổng hợp của một nền văn hóa truyền thống, được tích lũy và tôi luyện từ lâu
đời. Và kết hợp thơ với họa, các họa sĩ đời xưa thường “Đọc những câu thơ đẹp của
người xưa mà thấy có những ý đẹp như có thể vẽ ra được” [2; tr. 27]. Quyển sách
dành nhiều trang để nói về tuyệt kỹ trong làng hội họa. Từ đó đã đúc kết thành một
mô típ thẩm mĩ, một cảm xúc sáng tạo hòa quyện của chất thi sĩ và họa sĩ trong con
người của một người nghệ nhân. Đúng như nhận định: “Quan hệ giữa thi và họa, là
vấn đề mà ở phương Tây người ta tranh cãi liên tục, khác hẳn với nhận thức chung
của mà các văn nhân cổ đại của Trung Quốc đã đi đến nhất trí là “thi họa tương
thông”(thơ và họa đi chung với nhau) [2; tr. 26]. Chính nhờ mô típ thẩm mĩ thống
nhất giữa thi và họa, thi pháp và ấn chương, đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
tuyệt mỹ, vẫn còn sáng mãi tới ngày sau. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa đi vào cụ thể
và phát triển yếu tố “thi và họa” thành một vấn đề nghiên cứu thật sâu sắc.
Ngoài ra, Bài giảng Văn học Trung Quốc của G.S Lương Duy Thứ, tủ sách
đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1995 cũng đề cập đến thơ Đường, có
điểm qua vấn đề họa trong thể loại này nhưng vẫn còn mang nét khái quát. Tuy
nhiên nó đã: “Tạo nên một không khí giải phóng tư tưởng hình thành cục diện trăm
nhà đua tiếng và song song với nó là quang cảnh trăm hoa đua nở về văn học nghệ
thuật” [19; tr. 72]. Văn chương thời Đường, đặc biệt đối với thơ Đường, người viết
có một cảm xúc hết sức đặc biệt với thể loại này.
3. Mục đích yêu cầu
Với công việc nghiên cứu của mình, chúng tôi mong rằng sẽ hiểu vấn đề
nghiên cứu một cách thấu đáo hơn. Bên cạnh đó, thấy được giá trị tạo hình của thơ
Đường là một sự tiếp thu đúng đắn và bổ ích đối với bản thân. Bởi vì người xưa đã
từng yêu cầu là “thi trung hữu nhạc” và “thi trung hữu họa”; tức là trong thơ phải
có nhạc và trong thơ cũng cần phải có vẽ.
Có thể nhận rõ giá trị ngôn ngữ của thơ Đường. Nó có khả năng tạo hình
rất cao. Ngôn ngữ thơ Đường được đánh giá như một thứ ngôn ngữ nghệ thuật tuyệt
vời. Từ việc tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này, thấy được giá trị tạo hình của thơ
Đường.
Ngoài ra, nghiên cứu đề tài này giúp ích cho chúng tôi rất nhiều vào công
việc giảng dạy của bản thân sau này. Nhất là việc giảng dạy những bài thơ Đường ở
nhà trường phổ thông. Nó thể hiện được tính thực tiễn rất cao của công việc nghiên
cứu.
Do đó, nghiên cứu đề tài này cũng giúp cho chúng tôi tích lũy được rất
nhiều kinh nghiệm quý báu cho việc nghiên cứu và làm việc một cách khoa học sau
này.
4. Phạm vi của đề tài
Đường thi là một mảnh đất màu mỡ, thu hút nhiều sự chú ý của những nhà
nghiên cứu. Thơ Đường Trung Quốc có một sức ảnh hưởng sâu sắc đến thơ Đường
Việt Nam. Nếu mở rộng phạm vi nghiên cứu, đối chiếu với mảng thơ Đường luật
Việt Nam thì đề tài sẽ trở nên vô cùng lý thú và hấp dẫn. Nhưng, do cấp độ nghiên
cứu một đề tài tốt nghiệp ở bậc đại học, chúng tôi chỉ dừng lại ở một phạm vi, một
khía cạnh của vấn đề. Do đó, công việc nghiên cứu của chúng tôi chỉ xoay quanh
vào giá trị tạo hình của ngôn ngữ thơ Đường của Trung Quốc mà không so sánh với
mảng thơ Đường luật ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ tìm hiểu, phân tích và tổng hợp
những kiến thức của người đi trước để khái quát hóa, cụ thể hóa vấn đề đang nghiên
cứu một cách đầy đủ nhất trong khả năng của bản thân và những điều đã học tập và
tìm hiểu.
Có nhiều phương pháp để nghiên cứu, chẳng hạn như phương pháp phân
tích, phương pháp loại hình, phương pháp loại suy, phương pháp phân tâm học,
phương pháp giải thích học. Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng phương
pháp phân tích, giải thích và bình luận là chủ yếu. Cụ thể là sưu tầm tài liệu, đọc
sách, ghi chép và tập hợp thành hệ thống kiến thức để làm cơ sở cho quá trình
nghiên cứu.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN CHƯƠNG THỜI ĐƯỜNG
1. Mấy nét về hoàn cảnh ra đời của thơ Đường
Văn học Trung Quốc là một nền văn học vô cùng phong phú. Từ khi có
văn tự đến nay đã hơn 3000 năm. Hơn nữa, trước đó khoảng 2000 năm đã có văn
học truyền miệng. Tất nhiên không thể đi sâu vào tìm hiểu tất cả các mặt, các khía
cạnh của một nền văn hóa có một quá trình phát triển lâu dài như vậy. Nhưng,
chúng ta có thể tìm hiểu về một giai đoạn văn học, không những có giá trị tuyệt đối
với văn đàn Trung Quốc, mà còn có giá trị trên văn đàn thế giới.
Năm 581, Dương Kiên cướp đoạt triều đại cuối cùng của Bắc Triều, rồi
tiêu diệt nốt nhà Trần ở Nam Triều, thống nhất Trung Quốc, và lên làm vua được 24
năm. Nhưng ông lại bị chính đứa con thứ hai của mình là Dương Quản giết hại. Sau
khi chiếm được ngôi cao, Dương Quản trở thành một ông vua nổi danh phóng đãng
nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ngoài việc ăn chơi lãng phí còn gây chiến tranh xâm
lược Cao Ly. Nhân dân quá cùng cực đã vùng lên cầm vũ khí lật đổ triều đình. Chế
độ thống trị nhà Tùy chỉ tồn tại được 34 năm. Tuy thời gian tồn tại ngắn ngủi,
nhưng nó đã chuẩn bị cơ sở cho sự phát triển của Sơ Thịnh Đường sau này.
Với hơn 40 nước thông thương với Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường.
Ở gần như Nhật Bản, xa có Ả Rập đã làm cho văn học Trung Quốc được giao lưu
với nhiều nước Đông Á và Trung Cận Đông, đặc biệt là tiếp nhận sâu sắc từ văn
hóa Ấn Độ. Âm nhạc, ca múa của các nước Tây vực cũng đã du nhập vào đất nước
này. Tất cả những yếu tố trên đã tác động sâu sắc đến văn học thời Đường.
Hơn nữa, trong việc lập nên triều Đường và tiêu diệt các thế lực cát cứ,
người con thứ hai của Đường Cao Tổ là Lý Thế Dân có vai trò quan trọng và công
lao rất lớn. Phong trào nông dân vào cuối đời Tùy và sự diệt vong của các triều đại
trước đã cho Đường Thái Tông những bài học kinh nghiệm quý báu. Do đó, ông đã
nhận thức được rằng: “Thuyền ví như vua, nước ví như dân, nước có thể chở thuyền,
cũng có thể lật thuyền”. ( Tự trị thông giám. Quyển 192. Đường kỉ VIII )
Ông còn nói: “Tai họa của vua không phải từ bên ngoài đến mà thường tự
mình mà ra. Nếu muốn phô trương thì phải chi tiêu rộng, chi tiêu rộng thì phải thu
thuế nặng, thu thuế nặng thì dân sầu oán, dân sầu oán thì nước nguy, nước nguy thì
vua chết”( Tự trị thông giám. Quyển 192. Đường kỉ VIII). Nhờ những nhận thức
tiến bộ này mà đầu thời Đường cảnh quốc thái dân an, đất nước thịnh trị. Cơ sở kinh
tế vững chắc, văn học nghệ thuật cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh
đó, để chọn nhân tài, các vị vua đời Đường đã kế thừa quan điểm tiến bộ của đời
Tùy lập ra, lấy khoa cử thay thế cho chế độ “cửu phẩm trung chính”. Nó đã tạo cơ
hội cho các phần tử trí thức có tài năng thuộc tầng lớp dưới, có cơ hội thăng tiến.
Hơn thế nữa, chế độ thi cử thời Đường lại rất chú trọng thi ca. Từ đó đã tạo nên một
phong trào học tập nghiên cứu thơ Đường rộng rãi. Phần lớn họ là những người
xuất thân từ tầng lớp dưới nên tác phẩm của họ phản ánh được tư tưởng tình cảm
của đại đa số quần chúng nhân dân.
2. Các giai đoạn phát triển của thơ Đường
2.1 Thời Sơ Đường
Trung Quốc là một quốc gia tiên tiến trên thế giới đương thời. Triều đại
nhà Đường được coi là quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thời Sơ Đường
được xem là thời kỳ mở đầu của triều đại nhà Đường. Thời kì này kéo dài khoảng
100 năm, với biết bao thay đổi và đặc biệt là về mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, lãnh thổ. Đường Cao Tổ đã có cái nhìn đúng đắn và áp dụng đường lối chính
trị mềm dẻo, khôn khéo đối với nhân dân Trung Nguyên. Nhờ thế, dân chúng được
an cư lạc nghiệp, xã hội từ loạn lạc tiến dần đến ổn định và dần phát triển. Nhà
Đường còn thi hành một số chính sách cai trị hợp lý trong việc kiện toàn bộ máy cai
trị từ triều đình đến châu huyện. Bên cạnh đó, việc thực hiện phép quân điền, phép
tam thuế, ra sức đốc thúc khuyến khích các địa phương mở mang thủy lợi, khai
hoang phục hóa, mở mang và mở rộng đất đai canh tác, lại vừa tạo điều kiện thuận
lợi cho nông dân, thay đổi nền kinh tế, đời sống người nông dân nói riêng và nhân
dân Trung Hoa nói chung ngày càng trở nên ấm no và sung túc hơn. Song song với
chính sách khuyến nông, các vị vua thời kì này còn mở mang hệ thống giao thông
thủy bộ, khuyến khích việc buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các miền, tập trung
phát triển các ngành thủ công, nên không bao lâu đã hình thành nhiều thị tứ sầm uất,
tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển lâu dài.
Tình hình chính trị xã hội trong nước đã ổn định. Đường Cao Tổ Lý Uyên
nhường ngôi lại cho con, Lý Thế Dân lên ngôi tức Đường Thái Dân. Đây là vị vua
giỏi có nhiều công lao trong việc giúp vua cha khai sáng triều đại nhà Đường. Mặc
dù đứng trước mâu thuẫn nội bộ và binh biến của các nước ngoài biên ải, thế nhưng
nhờ sự tài giỏi, khéo léo và mưu lược trong việc cai trị nên đất nước Trung Hoa đã
phát triển lên đến sự phồn thịnh hơn bao giờ hết, đặc biệt là về mặt chính trị. Đường
Thái Tông rất coi trọng việc chọn lựa nhân tài, nghiêm túc kiểm tra kết quả làm việc
của quan lại, khiêm tốn nạp giám. Bên cạnh đó, ông còn sửa đổi một số bất lợi giúp
cho sự ổn định của xã hội.
Sự lớn mạnh của triều đại nhà Đường phản ánh khá rõ nét trong văn học nghệ thuật
đương thời, đặc biệt là trong thơ ca. Nó đã tạo được tiền đề vững chắc cho thi ca
giai đoạn sau này.
Sang đến nhà Đường Lý Trị, triều đình nhà Đường nói chung và bản thân
nhà họ Lý nói riêng, đã chuyển sang một giai đoạn lịch sử mới. Tuy không ảnh
hưởng đến tình hình chung của đất nước, nhưng trong một chừng mực nào đó, nó đã
tác động không tốt đối với giới tri thức Nho học, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn
vong của vương triều họ Lý. Lý Trị là ông vua bạc nhược, yếu đuối, thiếu quyết
đoán, lại quá say mê cung phi của cha là Vũ Chiêu và phong bà làm hoàng hậu. Tạo
điều kiện cho Vũ Chiêu nắm mọi quyền hành. Sau khi vua mất, bà phế Đường
Trung Tông Lý Hiến, lập Đường Duệ Tông Lý Đáng lên ngôi. Vũ Chiêu lại tiếp tục
phế Đường Duệ Tông, cho xuống làm Dự Vương rồi tự mình lên nắm giữ binh
quyền. Võ Tắc Thiên lên ngôi, mở ra triều đại nhà Chu và lấy niên hiệu là Thiên
Thụ.
Có thể thấy rằng sau Lã hậu thời Tây Hán, thì Võ Tắc Thiên là một người đàn bà
đặc biệt trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Bà được sách sử nói tới như một
người phụ nữ thông minh, huyền bí và có nhiều thủ đoạn sâu sắc. Từ khi lên ngôi,
bà không từ thủ đoạn nào để tiêu diệt những kẻ chống đối, muốn khôi phục nhà
Đường. Cơ nghiệp nhà Đường đến đây tưởng chừng phải chấm dứt.
Đến năm 705, Võ hoàng đế bệnh nặng. Tể tướng Trương Giản Chi buộc bà phải
xuống chiếu nhường ngôi cho con bà là Đường Trung Tông. Đường Trung Tông lại
được trở lại ngôi nhưng ông vua này quá ngu đần, ham chơi, lại nhu nhược nên ngôi
vị lại một lần nữa rơi vào tay Vi hậu. Vi hậu tìm mọi cách trừ khử những vị quan
còn lại trung thành với nhà Đường, đưa tay chân của bà ta vào triều đình để dễ hoạt
động về sau.
Năm 710, Vi hậu đầu độc chết Đường Trung Tông để thâu tóm binh
quyền, đưa Trung Dịch Chi lên làm tể tướng. Trong tình hình nguy ngập đó, con
trai của Duệ Tông là Lý Đáng, đã từng bị Võ Tắc Thiên phế truất khởi binh từ đất
Thục tiến đánh và diệt trừ được Vi hậu. Long Cơ lại tôn cha lên làm vua lấy niên
hiệu cũ là Duệ Tông.
Vào năm 712 Duệ Tông hoàng đế nhường ngôi cho con trai mình là Lý
Long Cơ tức Đường Huyền Tông. Đường Huyền Tông là một vị vua tài giỏi, ông
giỏi cả văn lẫn võ, giúp cha trừ được Vi hậu, khôi phục lại triều đại nhà Đường, dập
tắc được âm mưu đầu độc của bà cô Thái Bình công chúa. Từ đó triều đại nhà
Đường hưng thịnh trở lại làm nên một thời kì rực rỡ trong lịch sử. Đó chính là thời
kì Thịnh Đường.
2.2 Thời kì Thịnh Đường
Sau khi lên ngôi, Lý Long Cơ đã làm cho đất nước Trung Hoa bước sang
một giai đoạn mới. Nó đánh dấu một thời kỳ vàng son, rực rỡ kì vĩ hơn bao giờ hết
của triều đại nhà Đường. Huyền Tông là một vị vua văn thao võ lược. Bên cạnh đó,
ông lại có năng khiếu về âm nhạc. Trong những năm đầu chấp chính, vị vua này đã
cai trị hết sức anh minh. Đặc biệt, trong lĩnh vực chính trị, ông đã bắt tay vào công
việc cải tổ bộ máy cai trị, hoàn chỉnh hệ thống từ triều đình đến địa phương. Ông
còn tìm mọi biện pháp để chấn hưng nền kinh tế, bằng cách khuyến nông, phát triển
thương nghiệp. Nhờ thế mà đất nước ngày càng trở nên phồn thịnh. Song song đó,
ông cũng chú trọng đến quân sự. Vì thế mà đội quân của ông ngày càng hùng mạnh,
lãnh thổ Trung Hoa ngày càng được mở rộng. Chẳng những giỏi trong việc cai trị,
Đường Huyền Tông còn là một người có tâm hồn nghệ sĩ, có biệt tài về âm nhạc. Vị
hoàng đế này đã cho dựng Lê Viên, tập trung tất cả nhạc công có năng khiếu, những
danh ca nổi tiếng, dạy cho họ những ca vũ. Do đó mà bộ môn nghệ thuật này ngày
càng phát triển rộng rãi. Thơ ca cũng là một loại hình nghệ thuật được nhà vua yêu
thích. Hơn thế nữa, ông lại là một thi sĩ, nên trong thời kỳ này văn học đặc biệt
được chú trọng và phát triển. Trong cùng giai đoạn đó cũng đã xuất hiện nhiều nhà
thơ nổi tiếng, với những tác phẩm có giá trị nhất trong nền thi ca Trung Quốc.
Sau mấy mươi năm trị vì, càng lớn tuổi Đường Huyền Tông càng sa vào
vết xe đổ của các vị vua tiền triều. Nhà vua bắt đầu say mê tửu sắc, bỏ bê triều
chính, dẫn đến loạn An - Sử.
Đường Minh Hoàng vì quá say mê Dương Quý Phi, đã giao hết mọi quyền
hành cho tể tướng Lý Lâm Phủ. Nhưng vị tể tướng này lại không có thiện cảm với
những tài tử văn nhân, nên đã tìm đủ mọi cách để hãm hại họ. Dương Quý Phi dựa
vào sự sủng ái của nhà vua đã câu kết với tể tướng, hòng đưa họ Dương vào nắm
quyền trong triều đình.
Sau khi tể tướng Lý Lâm Phủ qua đời, vua Huyền Tông phong cho anh của
Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung lên làm tể tướng. Dương Quốc Trung lại là
kẻ bất tài, làm cho An Lộc Sơn càng tức giận. Vì từ lâu hắn đã lâm le chức tể tướng.
Sau đó, An Lộc Sơn khởi 20 vạn binh kéo về vây hãm kinh đô Trường An. Vua và
triều thần phải sa giá về đất Thục lánh nạn. Đến Mã Ngôi Pha, quân lính đòi giết
Dương Quý Phi mới chịu đi tiếp. Nàng phải vướng vào ải tử tại đây. Khi vào đất
Thục, Huyền Tông nhường ngôi lại cho con là Lý Hạnh vào năm 756, lấy hiệu là
Túc Tông. Túc Tông dùng các danh tướng như Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật rồi
lại mượn lính của Hồi Ngột kéo về đánh An Lộc Sơn.
Tại Trường An, tháng 2 năm 757 con của An Lộc Sơn là An Khánh Tự đã
giết cha mình để cướp quyền. Thế nhưng, nắm quyền chưa được bao lâu, An Khánh
Tự lại bị bộ tướng của mình là Sử Tư Minh giết vào năm 759. Cuộc nội chiến ở
kinh đô kéo dài trong 9 năm, làm cho nhân dân vô cùng khốn khổ. Mãi đến năm
763, Lý Dự tức Đường Đại Tông mới bình ổn được tình hình trong nước. Tuy nhà
Đường đã chiếm lại được Trường An, nhưng cảnh thịnh trị dưới thời Đường Huyền
Tông không còn nữa. Loạn An - Sử trong 9 năm đã làm cho nền kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội bị tàn phá nặng nề, bắt đầu rơi vào tình trạng suy vi.
2.3 Thời kì Trung Đường
Sau loạn An - Sử, kinh đô Trường An tuy lại được về tay triều đình, nhưng
cảnh kinh hoàng của chiến tranh đã làm cho nhân dân vô cùng khốn khó. Cuộc sống
tuy có thể quay lại như thường nhật, nhưng chính trị đã rối ren, xã hội không còn
được như thời huy hoàng dưới triều Huyền Tông. Trước đây, vua Túc Tông vì
muốn khôi phục binh quyền đã mượn quân của ngoại bang, càng khơi dậy óc cú dọa
của chúng và các phiên trấn. Bọn chúng biết được chính quyền nhà Đường không
còn hùng mạnh như trước đây, một số phiên trấn đã nổi dậy chống lại sự cai trị của
triều đình. Một số khác tuy không nổi dậy, nhưng các Tiết độ sứ không còn nể
nang, e sợ triều đình nữa, thậm chí việc tiến cống hàng năm cũng không thực hiện.
Trong triều đình lại có bọn quan lại thối nát, ngu dốt chỉ biết vơ vét làm
giàu cho bản thân cấu kết với nhau để dèm pha trung thần. Bên cạnh đó, bọn hoạn
quan còn lộng quyền, can thiệp vào cả công việc triều chính.
Tình trạng trong nước vô cùng hỗn loạn, các phiên trấn thì thường xuyên
gây chiến để tranh giành quyền lực. Nhân dân vô cùng khốn khó, đói khổ, binh
cách, lao dịch, sưu thuế, thiên tai đã đẩy người dân đến mức cùng quẫn vô cùng, tạo
nên làn sóng phẫn uất trong nhân dân vô cùng mạnh mẽ.
2.4 Thời kì Vãn Đường
Thời kì Trung Đường kéo dài hơn 60 năm, trừ những thập kỷ đầu tình hình
chính trị tương đối ổn định, hầu hết các thập kỷ còn lại đều rối ren, lủng củng.
Năm 841, Lý Ngang lên ngôi lấy hiệu là Văn Thông thì triều đại nhà Đường đã suy
vong, quan lại tham nhũng, bóc lột, thuế khóa nặng nề, thưởng phạt bất công là
nguyên nhân dẫn đến cuộc dấy binh của Vương Tiến Chi năm 874. Vương Tiến Chi
đã tập hợp nông dân đói khổ khởi binh vây hãm 2 châu: Bộc và Tào, làm cho triều
đình phải điêu đứng. Cuộc nổi dậy của Vương Tiến Chi bị dập tắt thì lại nổ ra một
cuộc khởi nghĩa nông dân khác to lớn hơn. Hoàng Sào là một nho sinh có chí lớn,
nuôi chí đi thi tiến sĩ nhưng bị hỏng, lại bất mãn với thời cuộc, vận động quần
chúng nông dân tham gia khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa ngày càng lớn mạnh. Hoàng
Sào được tụng xưng là Xung Thiên đại tướng quân, đem 10 vạn quân tiến chiếm
được một vùng rộng lớn ở Giang Nam, Chiết Giang, Hàn Châu, Phúc Châu, Quảng
Châu. Nghĩa quân được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
Năm 880, nghĩa quân của Hoàng Sào tiến chiếm Trường An. Vua tôi nhà
Đường lại phải lánh nạn vào đất Thục. Chiếm xong kinh đô Trường An, Hoàng Sào
lên ngôi, tự xưng là Đại Tể Hoàng đế (881) ở ngôi không được bao lâu, Hoàng Sào
bị chủ tướng Chu Ôn làm phản về hàng nhà Đường. Nắm được tình hình, vua tôi
nhà Đường mượn binh của Đột Quyết giao cho Lý Khắc Duy để giành lại Trường
An.
Năm 884, quân của Hoàng Sào bị quân của Lý Khắc Duy đánh tan phải bỏ
chạy về Biện Châu. Tại đó, ông bị một bộ tướng cũ giết hại nên cuộc khởi nghĩa của
ông sớm đi vào thất bại và chấm dứt.
Dẹp xong Hoàng Sào, Đường Hy Tông quay lại Trường An, nhưng tình
hình xã hội bây giờ vô cùng bi đát. Chu Ôn nhờ có công giúp vua Hy Tông nên
được ban tên là Chu Toàn Trung và bổ nhiệm làm chức Tiết độ sứ trấn giữ vùng
Tuyên Vũ.
Trong nội cung, hoạn quan lại lộng hành thao túng triều đình, làm nên những điều
càng bậy. Thôi Dận bấy giờ phải mật báo nhờ Chu Toàn Trung dẫn quân về triều
dẹp loạn. Nhờ thế Toàn Trung được phong làm Lương Vương. Đoán thấy thời cơ đã
đến, năm 907, Lương Vương phế Ái Đế, đổi tên nước thành Lương, lại dời đô về
Đại Lương, sử gọi là thời Hậu Lương.
Triều Đường, sau khoảng 300 năm cai trị, lúc thịnh vượng, khi lại tàn suy
qua nhiều thế hệ đến đây thì chấm dứt hẳn.
3. Thơ Đường đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca
Đường thi ra đời trong điều kiện lịch sử xã hội đời Đường cùng với những
thăng trầm biến đổi. Có lúc, nó đã đạt đến đỉnh cao của sự phát triển thịnh trị của xã
hội. Thơ Đường cũng đã nở ra những bông hoa rực rỡ nhất, mà khó có nền văn học
nào sánh kịp.
Trong suốt gần 3 thế kỷ, nhân dân Trung Quốc đã tạo nên một nền thi ca vĩ
đại cả về số lượng và chất lượng. Với khoảng hơn 5 vạn bài thơ của hơn 2000 tác
giả, thơ Đường thật sự đã để lại những giá trị bất diệt cho nền văn hóa Trung Quốc
nói riêng và nền văn hóa thi ca nhân loại nói chung. Năm 1705, vua Khang Hy đã
ban lệnh cho Tào Dần cùng 10 vị học giả biên soạn quyển “Toàn Đường thi”. Các
vị học giả đã tập hợp lại được gần 48. 900 bài thơ của hơn 23. 000 nhà thơ. Tuy
nhiên con số này vẫn chưa được xác định một cách chính xác số lượng thật sự của
thơ Đường. Lý Dương Băng trong “Thảo Đường tập tự” cho rằng “thơ Lí Bạch 10
phần mất 9”, Vương Chi Hoán rất có tiếng tăm đời Đường cũng chỉ còn lại 6 bài,
thôi Hiệu với 48 bài, Trương Nhược Hư chỉ còn lại có 2 bài. Đó chỉ là số lượng
những bài thơ được tìm thấy. Ngoài ra, một số nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ này
được mọi người trân trọng nâng lên một tầm cao ngang hàng cùng các địa vị của
các thần thánh như thi tiên Lí Bạch, thi thánh Đỗ Phủ, thi Phật Vương Duy. Có thể
thấy, với những con số khổng lồ như trên, cho thấy sự phát triển vượt bậc của thơ
Đường trong giai đoạn này. Nhưng đặc biệt hơn, chính những giá trị về chất lượng
từ hình thức lẫn nội dung, mà thơ Đường đã làm nên một thời đại huy hoàng trong
văn học.
Thơ Đường ở thời kỳ phồn thịnh nhất đã đạt đến sự hài hòa thống nhất
giữa nội dung lẫn hình thức. Nó thể hiện đầy âm vị của cuộc sống có hơi thở, bóng
dáng của con người cùng vạn vật cỏ cây, và các mối quan hệ trong xã hội. Thơ
Đường đã kế thừa và phát triển đến mức tối đa thơ ca cổ điển Trung Quốc, đánh dấu
một bước ngoặc to lớn làm nền tảng tạo bước chuyển hóa mạnh mẽ cho văn học
Trung Quốc bước lên một tầm cao mới trong tương lai.
3.1 Về nội dung
Không chỉ đánh dấu một thời hoàng kim, văn học dưới thời Đường còn
chiếm một vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn hóa Trung Hoa. Thơ Đường đã có
bước chuyển nhất định về nội dung. Thời Sơ Đường kéo dài hơn 100 năm đã tạo
được một tiền đề cho nền thi ca sau này. Tuy thời kì đầu, thơ Đường còn mang
phong vị của sự phù phiếm hoa lệ. Thi ca chỉ chuộng “phong, hoa, tuyết, nguyệt”.
Nói như Bác Hồ trong “Cảm hứng đọc thiên gia thi”:
“ Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”
Nhà Đường lúc ấy ở trong cảnh thịnh trị và văn học còn chịu ảnh hưởng văn trào
diễm lệ đời Lục Triều, nên lối biền ngẫu vẫn còn được trọng. Tứ kiệt – 4 văn nhân
nổi danh nhất thời Sơ Đường có thể kể đến như: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư
Chiếu Lân và Lạc Tân Vương đều có sở trường về thể loại ấy.
Tuy nhiên, Trần Tử Ngang cực lực đề xướng lối văn thành thực, mạnh mẽ
đời Hán, Ngụy, phản đối phong trào ủy mị trở về sau. Ông nói: “Văn chương sa vào
cái tệ đã 500 năm rồi, phong khí của Hán, Ngụy, không truyền lại Tấn Tống … Tôi,
những lúc nhàn, đọc thơ Tề, Lương, lời lẽ rất đẹp mà tình ý đều không, lần nào
cũng thở dài”. Do đó, Trần Tử Ngang đã mở màng cho phong trào phục cổ trong
thời Thịnh Đường [1; tr. 443]. Ông chủ trương thơ cần phải có sự hài hòa giữa nội
dung và hình thức. Những người có công phục cổ trong thời kì này là Lý Bạch, Đỗ
Phủ, Hàn Vũ và Liễu Tông Nguyên. Thịnh Đường kéo dài khoảng 50 năm từ Khai
Nguyên – Thiên Bảo đến những năm đầu Đại Lịch. Đây là một giai đoạn rất nổi
tiếng, mặc dù các tác phẩm của họ để lại không còn nhiều,nhưng nó vẫn còn nguyên
giá trị và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Từ xưa, con người sống gần gũi với thiên nhiên, mỗi khi có niềm vui nỗi
buồn thì người ta tìm đến nó như một người bạn tri âm tri kỉ. Vì thế thiên nhiên
dường như cũng mang tâm sự, nỗi niềm của con người. Phái thơ Điền Viên với
những đề tài về cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã mà đại biểu của nó chính là Vương
Duy và Mạnh Hạo Nhiên cũng có điều kiện phát triển và được chú trọng. Các nhà
thơ trong trường phái này luôn hướng đến những điều giản dị trong cuộc sống, làm
bạn với thiên nhiên và lấy thiên nhiên làm đối tượng sáng tác của mình.
Ngoài ra, cũng phải kể đến phái thơ biên tái, chủ yếu viết về cuộc sống nơi
biên cương, tác giả của những sáng tác này chủ yếu là những người đã từng sống
nơi biên ải, nên họ thấu hiểu được cảnh tình của người dân. Do đó, âm điệu trong
thơ văn họ chan chứa tình điệu hào hùng, khẳng khái với những phong cảnh hùng
vĩ. Đại biểu cho phái thơ này là: Cao Thích, Sầm Than. Mặt khác, cùng một thực
trạng xã hội xuất hiện nhiều bất công, cuộc sống của nhân dân lại đi vào ngõ tối. Từ
đó, nó đã hình thành hai trường phái thơ khác nhau.
Phái lãng mạn đại diện chính là Lí Bạch. Các nhà thơ đã chắp thêm đôi
cánh để cho những ước mơ táo bạo của mình được bay đi, mong ước nó có thể khỏa
lấp hiện thực đen tối. Tâm hồn thơ trở nên bay bỗng lãng mạn.
Thứ hai, đó là trường phái hiện thực mà Đỗ Phủ là người khởi xướng. Về
sau, nó được Bạch Cư Dị kế thừa và dành nhiều tâm huyết. Đây là loại thơ phản ánh
được đầy đủ thực trạng của cuộc sống, phê phán xã hội đương thời một cách sâu
sắc. Ở thời kì Trung Đường kéo dài từ thời Đại Lịch tới kỳ Thái Hòa với khoảng 60
năm. Trong xã hội phát sinh nhiều mâu thuẫn sâu sắc. Bạch Cư Dị là một khuôn
mặt tiêu biểu nổi lên làm sáng rực trên thi đàn trong giai đoạn này. Bên cạnh đó,
còn có những nhà thơ cải cách văn phong là Hà Vũ và Liễu Tông Nguyên.
Phong trào phục cổ ấy không được bền, chỉ khoảng 100 năm. 100 năm
trong văn học sử nước khác là lâu nhưng với Trung Quốc thì không là bao. Sang
giai đoạn Vãn Đường, tuy tình hình xã hội bước sang loạn lạc, rối ren. Các nhà thơ
lúc này tập trung chú ý vào lời lẽ tế nhị, uyển chuyển, lối văn diễm lệ, duy mĩ quái
đản lại bành trướng. Nổi bật lên là Lý Thường Ẩn và Đổ Mục. Tuy nhiên ta vẫn tìm
thấy những nhà thi sĩ vẫn kiên trì con đường hiện thực do Đỗ Phủ đề xướng nên. Ta
vẫn bắt gặp các vị như: Nhiếp Di Tung, Bì Nhật Hư và Đỗ Tuân Nhạc. Có thể thấy,
đến giai đoạn này, thơ Đường đã bước đến thời kì cuối cùng của sự phát triển.
3.2 Về nghệ thuật
Thơ Đường chẳng những sâu sắc về nội dung mà còn đẹp về hình thức. Ở
cả hai trường phái hiện thực và lãng mạn chúng đều đạt được những thành công
nhất định. Thơ Đường được chia ra làm hai loại: cổ thể và kim thể.
Thơ cổ thể hình thành từ thời Hán, trước khi hình thành thơ cận thể, trừ Sở
Từ, các thể thơ được gọi chung là cổ thể. Các luật thơ cổ thể tương đối tự do, không
yêu cầu chặt chẽ về niêm luật, gieo vần cũng rộng rãi, linh hoạt. Thường gặp nhất là
thể năm chữ và thể bảy chữ gọi là ngũ cổ và thất cổ. Ngoài ra, trước đời Đường
cũng có sáng tác theo thể loại này. Những thơ tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất
ngôn và những bài ca, hành nhạc phủ được đặt ra trong đời Hán, Ngụy, Tề, Lương.
Nó khác với thể loại “luật tuyệt” ở chỗ không yêu cầu niêm luật chặt chẽ, câu thơ
đặt xuôi, không đối nhau. Người xưa đã nói: “luật không lẫn được với cổ; trái lại,
cổ cũng không lẫn được với luật” [9; tr.120]. Tuy nhiên, dưới đời Đường đã có
nhiều tác phẩm nổi tiếng của các tác giả như Lý Bạch với 59 bài thơ cổ phong,
Trương Nhược Hư với “Xuân giang hoa nguyệt dạ”, “Tam lại”, “Tạm biệt” của
Đỗ Phủ, “Trường hận ca”, “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị. Bên cạnh đó còn rất
nhiều nhà thơ nổi tiếng ở thể loại này. Thật sự, thơ Đường đã trở thành một kho
tàng tiềm ẩn những tri thức đặc biệt về một thể loại văn học hết sức độc đáo. Đi sâu
vào thể loại thơ cổ thể, nhiều nhà nghiên cứu đã phân nó thành hai dạng: cổ phong
và nhạc phủ.
Khi tìm hiểu về thơ cận thể hay còn gọi là thể thơ kim thể, để phân biệt với
cổ thi, ta sẽ bắt gặp thể thơ cách luật đã được hoàn thiện dưới triều đại nhà Đường.
Cận thể do một số bậc thầy như Thẩm Ước và một số nhà thơ thời Vĩnh Minh căn
cứ vào thanh luật đối ngẫu của thơ thời đó mà đề xướng và phát triển đến đầu thời
Đường với những nhà thơ như Thẫm Thiên Kỳ, Tống Chi Vấn. Thơ cận thể gồm hai
loại thể chính: luật thi và tuyệt cú (Luật Tuyệt). Trong đó chia ra thành lục ngôn
tương đối tức là: lục ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn. Thơ tuyệt cú mỗi bài có 4 câu, luật
thi mỗi bài có 8 câu. Theo luật mà có từ 10 câu trở lên thì gọi là bài luật hoặc trung
luật.
Khi phân loại thơ Đường, người ta chia thành 6 thể, bao gồm: ngũ ngôn cổ
thể, thất ngôn cổ thể, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn tuyệt cú, thất
ngôn tuyệt cú. Có thể gọi tắt thành ngũ cổ, thất cổ, ngũ luật, thất luật, ngũ tuyệt, thất
tuyệt. Riêng loại tuyệt cú (4 câu) và bát cú (8 câu). Cụ Bùi Kỷ viết trong “Quốc
văn cụ thể”: “tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn
câu mà thiền tâm, ẩn hiện, chinh kỳ, khởi phục đủ cả nên gọi là tuyệt”.
Như vậy, thơ Đường chẳng những phong phú về nội dung mà hình thức
cũng đạt đến mức điêu luyện tạo nên một thời đại đỉnh cao của văn học Trung Quốc
và nền văn học nhân loại.
CHƯƠNG 2
ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ ĐƯỜNG
1. Một số đặc điểm cơ bản của thơ Đường
1.1 Đề tài, chủ đề
• Đề tài
Đề tài là phạm vi chất liệu đời sống của tác phẩm văn học. Nó gắn liền với
việc xác lập chủ đề. Nó cũng là đối tượng được tác giả phản ánh, là nơi gởi gắm tâm
sự, cách nhìn nhận đánh giá, bộc lộ tư tưởng của tác giả về cuộc sống của con
người. Xét về thơ Đường, nó có phạm vi đề tài hết sức rộng rãi và phong phú, chẳng
hạn như đề tài về xã hội, thiên nhiên, lịch sử, đề tài về chiến tranh, về cuộc sống nói
chung và đời sống nội tâm phong phú, sâu thẳm của con người. Sự phong phú về đề
tài đó bắt nguồn từ hiện thực xã hội đời Đường. Chính hiện thực đầy biến động với
nhiều tài năng nở rộ đã đem đến cho thơ Đường nhiều vẻ đẹp riêng.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người, là nơi tu dưỡng tâm
hồn ta khôn lớn từng ngày. Dù ít hay nhiều trong mỗi chúng ta đều lưu giữ những
kỷ niệm đẹp nhất của tuổi thơ để đến khi xa quê, tình cảm đó lại chuyển thành một
sức mạnh để con người vững vàng hơn trong cuộc sống.
“Quê hương là chùm khế ngọt,
Cho con trèo hái mỗi ngày….
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
Vì thế, “tư hứng đã trở thành cảm hứng nổi bật trong thơ Đường”. Nhà
thơ nổi tiếng Tô Đông Pha đã từng viết “tấm lòng báo quốc tới chết mới thôi”
nghĩa là mang trong lòng mình lòng biết ơn sâu sắc đối với quê hương. Nó đã trở
thành đề tài chủ đạo và những vần thơ viết về quê hương trong thơ Đường khá
nhiều và cũng rất thắm thiết.
Nỗi “tư hương” của Lý Bạch được khơi gợi từ vẻ đẹp của ánh trăng trên
đất khách. Cảnh khách, quê người nhưng chỉ có ánh trăng mãi là người bạn tri âm
tri kỷ không bao giờ dời đổi. Bởi lẽ ngay cả thi phật Đỗ Phủ cũng cho gần trăng là
ánh sáng của quê hương “nguyệt thị cố hương minh”. Chính vì thế mà trong một
đêm khuya nơi đất khách, mọi vật đã chìm trong tĩnh lặng, chỉ mình thi nhân ngồi
đối diện với người bạn tri âm của mình. Đó chẳng ai khác hơn là ánh trăng quê
hương. Ánh sáng ấy đã khơi dậy cái nôn nao da diết của nỗi nhớ:
“Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”
(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
“Cử đầu vọng minh nguyệt” mở ra một không gian mênh mông, bát ngát của đất
trời. Một bức tranh có cả sương, trăng, cử chỉ ngẩng lên cúi xuống vì nhớ quê. Một
không gian mơ màng của những hồi ức kỷ niệm. Thi sĩ dường như chìm đắm trong
suy nghĩ, trong nỗi nhớ thương quê đến nao lòng. Chỉ cần bắt được cảnh vật gần gũi
lập tức nỗi “tư hương” trỗi dậy mãnh liệt.
Với “Thu hứng” của Đỗ Phủ, tình quê lại là nỗi khát khao khôn nguôi bỗng
trỗi dậy:
“Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch chày vang bóng ác tà”
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Tiếng chày giặt áo là một âm thanh có sức gợi cảm lớn, báo hiệu mùa đông đang về.
Nào ai biết đâu nỗi quặn thắt trong lòng một con người tha phương. Câu thơ đã thể
hiện cảm giác chua xót, lạc lõng của nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nó không nức
nở nhưng là tiếng khóc dội vào trong. Âm thanh vẫn cứ rộn rịp thôi thúc thi nhân
hướng về quê nhà. Nó đã đọng lại thành nỗi khát khao đến cháy bỏng được trở về
với quê hương đất tổ.
Chúng ta còn bắt gặp những vần thơ viết về quê hương trong sáng tác của
Thôi Hiệu, Hạ Tri Chương … Tất cả những nỗi nhớ chồng chất ấy đã thành âm
hưởng vang vọng của thơ Đường còn đọng lại trong nỗi niềm của thế hệ trước,
trong sáng tác văn học Việt Nam qua các giai đoạn.
Bên cạnh đó, chiến tranh loạn li cũng là một trong những đề tài phổ
biến của thơ Đường.
Thơ Đường phát triển trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động nhất. Chính
bối cảnh lịch sử ấy khiến cho thơ văn đời Đường phát triển theo chiều sâu. Đời
Đường chiến tranh xảy ra liên miên. Chiến tranh đã phơi bày một cách rõ nét hơn
mọi mâu thuẫn của xã hội, cuộc sống điêu linh của dân chúng và trực tiếp ném
nhiều nhà thơ vào vòng đói khổ. Không phải ngẫu nhiên mà chiến tranh trở thành
một trong những đề tài chủ yếu của thơ Đường. Ngay trước năm 1949 học giả Hồ
Văn Dực đã viết cuốn “Thơ ca về chiến tranh đời Đường” trong số các nhà thơ đó,
Đỗ Phủ viết về cảm hứng chiến tranh sâu sắc nhất. Vãn Thiên Tường – nhà thơ yêu
nước đời Tống – người anh hùng dân tộc Trung Quốc đọc thơ Đỗ Phủ trong tù đã
phải thốt lên “phàm cái gì tôi định nói thì Tử Mỹ đã thay tôi nói cả rồi”.
Loạn An Sử mở đầu thời kỳ loạn lạc của nhà Đường, Đỗ Phủ bám sát hiện
thực này và thể hiện nó trong những bài thơ tiêu biểu như “Khương thôn bắc
chinh”, “Bi trân đào” với những cảnh loạn ly, chết chóc khốn khổ của nhân dân
trong chiến tranh. Đặc biệt chùm thơ “Tam lại", “Tam biệt” phản ánh thảm trạng
trên hết sức điển hình. Bởi lẽ nó phản ánh vấn đề nóng hổi của thời đại đồng thời
thể hiện tâm trạng trầm lắng, ưu uất và cả mâu thuẫn trong tư tưởng của nhà thơ.
Trong “Chiến tranh thành Nam” Lý Bạch dựng lại cảnh tàn phá của chiến
tranh xâm lược nhằm mở rộng bờ cõi biên cương của giai cấp thống trị, phong kiến
nhà Đường, cảnh tượng nơi biên tái vô cùng bi thảm. Xác chết ngập đồng, ngựa mất
chủ hí bi ai, quạ diều moi ruột người mắc lên cành cây khô héo, xác binh lính làm
phân bón cỏ:
“Xương trắng chất thành núi gò
Dân đen nào có tội tình gì?”
Những cảnh điêu linh, ai oán như thế trở đi trở lại rất nhiều lần trong thơ Đỗ Phủ và
nhiều nhà thơ Đường khác cùng thời.
Một trong những đề tài được các thi nhân hết sức quan tâm đó chính là
thiên nhiên. Nó dường như cũng có hồn và mang đậm vẻ Đường thi
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác văn chương. Cảnh vật với
vẻ đẹp nguyên sơ, tinh khiết, khoáng đạt của nó luôn là người bạn tâm tình, nơi gởi
gắm tâm sự tình cảm, nơi di dưỡng tinh thần, nơi trú ngụ của tâm hồn thi nhân mỗi
lúc ưu phiền, bất đắc chí trước cuộc đời. Hầu như thi nhân nào cũng dành tấm lòng
mình cho mảng đề tài này. Hơn ai hết, các thi nhân hiểu rõ nói đến thiên nhiên là
nói đến một khoảng không gian kỳ vĩ, ở đó tâm hồn con người được thanh thản hơn.
Đây là hình ảnh thiên nhiên sống động và huyền ảo trong “Vọng lư sơn bộc bố” của
Lý Bạch:
“Nắng chói sông Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống 3000 thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây”
Nhà thơ đứng từ xa đưa tầm mắt bao quát hết toàn cảnh thiên nhiên hùng vĩ trước
mắt. Trí tưởng tượng phong phú, sự khoa trương của các hình ảnh trong bài thơ đã
tạo nên bức tranh thiên nhiên hoành tráng. Qua đó, ta có thể thấy được tâm hồn thơ
của tác giả đầy phóng khoáng và giàu rung động. Nó đã được kết đọng từ những
cảm xúc hết sức mãnh liệt.
Cùng viết về thác nước Lư Sơn, Từ Ngưng cũng đã lột tả được độ cao và
sự hùng vĩ của thác. Thơ của Từ Ngưng còn có âm vang của âm thanh dòng thác hết
sức mạnh mẽ: “Ầm ầm lao xuống sông chưa bao giờ ngớt”. Tuy tả thực và hùng vĩ
nhưng nó vẫn chưa lung linh đầy huyền ảo như trong thơ của thi Tiên.
Ở bài “Phong Kiều dạ bạc” Trương Kế lại đem đến cho ta một cảm giác thanh
vắng tĩnh lặng:
“Trăng tà, chiếc quạ kiêu sương
Lửa chày, cây nến , sầu vương giấc”
Trong khi đó thiên nhiên trong thơ Đỗ Phủ lại có cái gì đó xao xác buồn, thấm đẫm
thương đau như lòng người khi gặp cảnh loạn lạc, đất nước điêu tàn.
“Nước mất, còn sông núi
Thành xuân cảnh um tùm
Biệt ly, lòng chim hãi
Cám cảnh lệ hoa tuôn”
Có thể thấy, thiên nhiên đã trở thành đề tài thường thấy trong thơ văn cổ với nhiều
dáng vẻ. Nhiều bài thơ đề vịnh đã lưu danh cùng với những danh thắng nổi tiếng.
Đến Hoàng Hạc Lâu người ta nhớ đến bài thơ cùng tên của Thôi Hiệu, trèo lên Thái
Sơn người ta lại nhớ “Vọng nhạc” của Đỗ Phủ, tới Xích Bích lại nhớ đến bài từ
điệu “Niệm Nô Kiều” của Tô Đông Pha.
Đề tài thân phận người phụ nữ trong thơ Đường cũng được khai thác ở
nhiều khía cạnh và hết sức độc đáo
Victo Huygo đã từng nói: “Bên cạnh thứ ánh sáng lung linh của các vì sao còn có
thứ ánh sáng dịu hiền của người phụ nữ”. Viết về người phụ nữ các nhà thơ thường
thể hiện sự nâng niu, trân trọng, cảm thông với số phận của họ. Đặc biệt trong thơ
Đường hình ảnh người phụ nữ trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi trước nỗi niềm
không biết tỏ cùng ai của người cô phụ. Chẳng hạn như hoàn cảnh của người chinh
phụ trong bài “Ô dạ đề” thật đáng thương cảm. Nàng đang dệt vải bỗng nghe tiếng
ai thì thầm bên song cửa, chạnh nhớ đến cảnh mình tê tái trong lòng về nỗi cô đơn,
nàng nức nở nghẹn ngào:
“Dừng thôi buồn bã nhớ ai
Phòng không gối chiếc giọt dài tuông mưa”
Hay sức tưởng tượng của người phụ nữ trong bài “Xuân tứ” thật phong phú.
“Cỏ yên như sợi tơ xanh
Dâu tần xanh ngát rủ cành sum suê
Khi chàng tưởng nhớ ngày về
Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng
Gió xuân ai biết chi cùng
Cớ sao len lỏi vào trong màn là?”
Nàng đau khổ vì sự ly biệt nhưng vẫn tưởng tượng người chồng cách xa
vạn dặm vẫn thủy chung với nàng, vẫn hướng về nàng. Nhưng đến câu cuối thì có
sự oán trách rất ngây thơ và đáng yêu. Cái gì vào màn the đánh thức nàng dậy? Gió
chứ không phải là chồng nàng. Cùng cảm xúc đó người chinh phụ trong “Khuê
oán” của Vương Xương Linh cũng có nỗi niềm ân hận vì đã để chồng tham gia vào
cuộc chiến tranh giành xưng bá của các đế vương:
“Hối giao phu tế mịch phong hầu”
(Công hầu nghĩ dại xui chàng kiếm chi )
Đỗ Phủ lại thông cảm cho người vợ mới lấy chồng đêm trước, hôm sau chồng đã
lên đường.
“Cưới chiều hôm, vắng sớm mai
Duyên đâu lật đật cho người xót xa”
Có thể nói những vần thơ trên không chỉ là tiếng lòng, tiếng nói xót
thương của những tấm lòng cao cả mà còn là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến đã
đày đọa con người rơi vào nỗi đau khổ, sự bế tắc của cuộc đời.
Như vậy, đề tài phong phú và đa dạng đã làm nên diện mạo nội dung thơ Đường
vừa có bề rộng vừa có chiều sâu và có giá trị nhân đạo.
• Chủ đề
Trong văn học chủ đề là vấn đề được đặt ra trong tác phẩm, nó bao gồm
các yếu tố về đạo đức, chính trị, xã hội, tư tưởng. Mỗi chủ đề là cái riêng của mỗi
tác giả, nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng và sự thâm nhập đời sống của tác giả.
Chủ đề của những tác phẩm lớn thường là những vấn đề khái quát vượt lên trên
những vấn đề cụ thể. Riêng đối với thơ Đường có thể khái quát ba chủ đề lớn: chủ
đề điền viên, chủ đề “đăng cao vọng viễn” và chủ đề biên tái.
Ở Trung Quốc, thơ Đường cũng như các thể loại thơ đời Tần, Hán hay sau
này là Nguyên – Mông, một cuộc đời luôn có sự chi phối đến quá trình sáng tác của
các thi nhân sau này là chủ đề điền viên. Có thể gọi chủ đề này là cái nền, là bức
bình phong cho những cảm hứng, cảm xúc cho hồn thơ của người thi sĩ. Cái đẹp
được thể hiện trong chủ đề điền viên là hình ảnh thiên nhiên trong thơ, mà thiên
nhiên thì luôn bao la bát ngát và con người thì tồn tại trong cái vô tận của vũ trụ.
Phạm vi của chủ đề điền viên là những thú vui vườn ruộng, cuộc sống an nhàn, rãnh
rỗi … Con người trong cuộc sống đó luôn lấy những cái quen thuộc, gần gũi để làm
bạn, những điều tưởng chừng tầm thường, nhưng dưới cái nhìn của nhà thơ cũng rất
cao quý và đáng tôn trọng như: hoa cỏ, sông núi, trăng gió, muôn thú … đó là
những phong cảnh chủ yếu của thơ phái điền viên.
Chủ đề điền viên luôn gắn bó với sáng tác của các thi nhân mà cuộc đời
của họ lại gắn bó với cuộc sống ruộng vườn. Trong thơ Đường, chủ đề này được các
thi nhân như Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy … rất quan tâm. Cuộc sống đi vào thơ
của họ thật sinh động đó là những bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, thông qua cảnh
vật xung quanh để bộc lộ tâm tư tình cảm của mình trước cảnh vật muôn màu muôn
vẻ.
Ở Việt Nam chủ đề điền viên được các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu … rất yêu thích. Do chán ngán trong những
mâu thuẫn ở chốn quan trường nên họ thôi làm quan lui về ẩn dật, vui thú với ruộng
vườn. Vì vậy, khi xác định chủ đề điền viên trong thơ Đường hay những bài thơ
khác ở Trung Quốc hoặc ở Việt Nam, điều quan trọng là phải phân biệt đâu là chủ
đề điền viên. Bởi chúng rất khó phân biệt vì nhà thơ nào cũng dùng thiên nhiên để
miêu tả và gửi gấm tâm tình của mình.
Chủ đề lớn thứ 2 đó là “đăng cao vọng viễn”. Thời Đường đất nước hưng
thịnh triều đình phồn vinh vững mạnh. Từ chỗ các công trình kiến trúc được xây
dựng theo lối “tường cao hào sâu”. Ở thời Đường xuất hiện nhiều lăng tẩm, thành
trì và đền đài. Nó đã trở thành một phần đặc trưng cho quyền lực của triều đình, một
phần để phục vụ thú vui tiêu khiển cho các vua chúa, quan lại. Đứng trên lầu cao thì
có thể phóng tầm mắt nhìn ra vũ trụ rộng lớn, mênh mông. Đây cũng là nguồn khơi
gợi cảm hứng rất lớn cho các nhà thơ đời Đường, để họ sáng tạo nên những tác
phẩm truyền đời như: “Đăng cao” của Đỗ Phủ, “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu
….
Chủ đề lớn thứ 3 mà ta dễ dàng nhìn thấy trong thơ Đường là chủ đề “biên
tái”. Đó là cảnh chiến tranh, những hoạt động, cuộc sống của người lính nơi chiến
trường biên ải.
Đời Đường tuy phồn thịnh nhưng vẫn xuất hiện những cuộc chiến tranh mở rộng
biên giới, chiến tranh xâm lược, cả chiến tranh nội bộ của giai cấp thống trị. Các tác
giả tiêu biểu của thời kì này như Cao Thích, Sầm Than, Vương Xương Linh, Lý Kỳ
… đều làm việc và sống trong quân ngũ nên họ rất thấu hiểu chủ đề này. Những
cuộc chiến tranh ấy đã tạo nên trong lòng họ những cảm xúc dạt dào, sâu sắc. Đồng
thời thông qua những cuộc chiến tranh, tác giả có thể hiểu được tâm tư, tình cảm và
những suy nghĩ của người chiến sĩ.
1.2 Thể thơ
Thơ Đường được sáng tác theo một bố cục, kết cấu, niêm luật đặc trưng.
Nó được xem như một khuôn mẫu và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn chương đời
sau, cũng như thơ cổ Việt Nam qua các giai đoạn. Cuối thời Sơ Đường người ta đã
có quy định luật thơ. Đối với thể thơ, nếu tính theo số chữ trong một dòng, thì thơ
luật Đường có thể là ngũ ngôn – một dòng năm chữ, thất ngôn – một dòng bảy chữ.
Còn nếu tính theo số dòng thì có thể là tứ tuyệt – toàn bài có 4 dòng. Trong đó có
loại ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt hoặc bát cú được xem là cơ bản nhất.
1.3 Về niêm luật
Trong bài thơ, các cặp câu 1 và 2, 3 và 4 … làm thành một liên. Trong một
liên thì câu trên là xuất cú, câu dưới là đối cú. Chúng phải niêm với nhau (niêm
nghĩa là dính) nghĩa là tiếng thứ 2, 4, 6 phải cùng thanh bằng hoặc là cùng thanh
trắc. Cùng một liên các tiếng 2, 4, 6 có thanh đối với nhau về bằng trắc [17; tr. 71].
Luật là cách sắp xếp chữ bằng, trắc trong các dòng của một bài thơ theo
quy định trước cốt bảo đảm tính nhịp điệu của bài thơ. Bài thơ nào mở đầu bằng hai
thanh bằng (thực tế chỉ căn cứ vào thanh thứ hai thuộc hai câu mở đầu của bài thơ)
là thơ luật bằng. Bài thơ nào mở đầu bằng hai thanh trắc gọi là thơ luật trắc. “Nhất
tam ngũ bất luận” cho thơ thất ngôn, “nhất tam bất luận” cho thơ ngũ ngôn: một
câu thơ thì tiếng thứ 1, 3, 5 có thể chuyển đổi bằng trắc.
1.4 Về kết cấu
Theo Nguyễn Khắc Phi “trình tự khai, thừa, chuyển, hợp là cái khung
chung mà người đời sau choàng lên cho thơ Đường luật”. Các nhà thơ hoặc như
các nhà phê bình đều đòi hỏi luật thi phải có kết cấu bố cục chặt chẽ nhưng sự sắp
xếp đó như thế nào là do yêu cầu diễn đạt ý tứ quy định chứ không phải vấn đề
thuần túy hình thức. Ngay từ đời Tống đã có ý kiến xuất sắc về phương diện này.
Khi bàn về thơ Đỗ Phủ, Phạm Ôn nhận xét : “Thơ luật của người xưa có khi có lẽ
như không có thứ tự gì cả nhưng không có thứ tự gì cả nhưng lại là chuỗi ngọc”.
Như vậy, khác với thơ tự do, thơ ca lãng mạn, thơ Đường tuân thủ những
quy định nghiêm ngặt về bố cục, kết cấu niêm luật, ngôn ngữ và tứ thơ. Điều này có
những hạn chế riêng trong khi phân tích cảm thụ nhưng cũng làm nên vẻ đẹp rất
riêng của thơ Đường.
1.5 Ngôn ngữ và tứ thơ
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật. Nó có
nguồn gốc từ ngôn ngữ trong đời sống, ngôn ngữ toàn dân, nhưng đó là: “Ngôn ngữ
toàn dân đã được trau dồi mài giũa, và đã được tinh luyện” [4; tr. 148]. Ngoài tính
hình tượng, ông Trần Đình Sử còn đề cập đến tính tổ chức cao [18; tr. 119]. Ông Hà
Minh Đức thì cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải có tính chính xác,
tính hàm súc, tính biểu cảm và tính hình tượng [4; tr. 48, 50]. Và nếu như ngôn ngữ
kịch hàm súc mang tính khẩu ngữ có tính hành động, tính cách hóa nhiều khi có
hành động lớn hơn, thì ngôn ngữ thơ mang tính hình tượng, gợi cảm và hàm súc
cao. Trong đó, ngôn ngữ thơ Đường là một trong những đỉnh cao của ngôn ngữ thơ
ca nhân loại, có cách thể hiện riêng. Đặc biệt là ngôn ngữ của thơ Đường lại là ngôn
ngữ của ý niệm. Nó đặc biệt mới xuất hiện ở thời Đường [15; tr. 64]. Vốn từ sử
dụng trong thơ Đường không nhiều, hơn nữa thường xuyên lại là những từ phổ biến.
Ví dụ về động vật, thực vật, ta thấy chỉ xuất hiện một lượng từ hạn chế chỉ một số
loài cây và con nhất định. Nhưng ngôn ngữ thơ Đường lại có khả năng diễn đạt vô
cùng tinh tế và phong phú. Với số từ được ghép rất ít, chỉ 20 chữ để tạo nên một bài