Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong thời kỳ khôi phục kinh tế sau khủng hoảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.9 KB, 12 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ
HỌC PHẦN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đề tài:
SỰ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG THỜI KỲ KHÔI
PHỤC NỀN KINH TẾ SAU KHỦNG HOẢNG.
Môn học: Kinh tế phát triển.
Họ tên: Vũ Thị Oanh.
Lớp: 4A.27.
STT: 44.
Mã sinh viên: 15A4020292.
1
Mục lục
A.Đặt vấn đề. Trang 1
B.Giải quyết vấn đề. Trang 1
I.Vai trò của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ với
nền kinh tế.
Trang 2
II. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng. Trang 3
III. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ.
Trang 4
1.Sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
trong kích cầu ở Việt Nam.
Trang 4
2. Sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong việc kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam.
Trang 6
3. Phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ tại Việt Nam hiện
nay.


Trang 6
4. Hạn chế. Trang 7
5. Kế hoạch tương lai. Trang 8
C.Tổng kết. Trang 10
D.Tài liệu tham khảo. Trang 10
2
A.Đặt vấn đề.
Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ
đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh
đảo. Cuộc khủng hoảng kinh tế có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế của toàn thế
giới. Trên khắp thế giới sản xuất đình trệ, hàng triệu người lao động bị đẩy ra
đường, các đoàn tàu chở hàng triệu lao động nhập cư làm việc tại các thành phố trở
lại quê hương bản quán. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ước tính thiệt hại của cuộc
khủng hoảng này lên đến 1000 tỷ USD. Khủng hoảng kinh tế như sao chổi va quệt
dữ dội vào khối kinh tế Bắc Mỹ NAFTA, khoảng 250 công ty Canada đã bị loại
khỏi các cuộc đấu thầu xây dựng hạ tầng ở Mỹ bởi điều khoản “người Mỹ dùng
hàng Mỹ”. Khủng hoảng kinh tế tác động trực tiếp đối với nền kinh tế Việt Nam
thì không lớn nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh.
Chính sách tài khóa( CSTK) và chính sách tiền tệ(CSTT) là hai công cụ quan trọng
trong điều hành, quản lý và ổn định nền kinh tế vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào.
Hai chính sách này tuy có nững chức năng riêng nhưng lại có mối quan hệ mật
thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế chung của
mỗi quôc gia. Đặc biệt là trong giai đoạn hậu khủng hoảng thì sự kết hợp giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để đưa nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng
khó khăn, khủng hoảng là một vấn đề rất quan trọng.
Chính vì vậy mà tôi quyết định chọn đề tài: “ Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ trong thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau khủng hoảng”. Ở đây,
tôi chỉ đề cập đến vấn đề trong phạm vi Việt Nam.
Do hạn chế về kỹ năng cũng như hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những nhận xét và đóng góp của thầy và các

bạn để tôi có thể hoàn thiện hơn vấn đề nghiên cứu trên.
B.Giải quyết vấn đề.
Cuộc khủng hoảng kinh ế từ thị trường nhà đất ở Mỹ( 2008) và sau đoa là nợ công
ở Hy Lạp đã làm cho nền kinh tế không chỉ ở các nước này mà toàn thế giới chạm
đáy của sự phát triển. Các quốc gia đã thực hiện nhiều chính sách để khắc phục
cuộc khủng hoảng này hình. Sau một thời gian thì nền kinh tế đã có những biến
chuyển và bắt đầu bước vào thời kỳ hậu khủng hoảng. Việt Nam là nước mới gia
3
nhập WTO nên cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ cuộc khủng hoảng này. Bước
vào thời kỳ hậu khủng hoảng, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới cần đưa ra
sự kết hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phù hợp nhằm đưa đất nước
hoàn toàn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
I.Vai trò của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ với nền kinh tế.
1.Khái niệm.
- Chính sách tài khóa (fiscal policy) là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và
chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung củ nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money
supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường
là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest rate) để đạt được
những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy
trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh
tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất
định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở;
qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô
quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
2.Vai trò.
- Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định
hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu
chính phủ và thuế khóa. Chính sách tài khóa khác với những chính sách kinh

tế cơ bản khác như chính sách tiền tệ, đó là chính sách nhằm ổn định nền
kinh tế bằng cách kiểm soát tỉ lệ lãi suất và nguồn cung tiền. Hai công cụ
chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế.
Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ
có thể ảnh hưởng đến các biến số của nền kinh tế như: tổng cầu và mức độ
hoạt động kinh tế; kiểu phân bổ nguồn lực; phân phối thu nhập, hay nói cách
khác chính sách tài khóa liên quan đến tác động tổng thể của ngân sách đối
với hoạt động kinh tế.
- Trong khi đó, chính sách tiền tệ chủ yếu tập trung vào ổn định tiền tệ (kiểm
soát lạm phát); tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh
4
toán. Các công cụ của chính sách tiền tệ như chính sách lãi suất tái chiết
khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và hạn mức tín
dụng có tác động nhanh chóng trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng,
từ đó tác động đến lạm phát.
- Là hai công cụ quan trọng trong điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô của mọi
quốc gia, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có mối quan hệ mật thiết
và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế chung. Sự
phối hợp giữa hai công cụ này đều nhằm đưa nền kinh tế vận hành đúng
quy luật, khai thác được động lực to lớn của nền kinh tế thị trường, phục vụ
mục tiêu phát triển bền vững.
II. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng.
- Khủng hoảng kinh tế thế giới khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
chậm lại, tăng trưởng GDP đang ở mức trên 8% năm, năm 2008 đạt 6,23%
và đến năm 2009 chỉ đạt 5,32%, thấp nhất trong 10 năm qua.[1].
Giá trị tăng thêm của nhiều ngành thấp hơn nhiều so với những năm trước,
xuất khẩu và du lịch giảm mạnh. Nhiều cân đối kinh tế vĩ mô của nền kinh tế
chưa thực sự vững chắc. Bội chi NSNN ở mức cao nhất trong hàng chục
năm qua ( 6,9%/GDP) và chính sách tiền tệ nới lỏng khiến lạm phát có nguy
cơ tăng cao trở lại.[1]

- Các cân đối thanh toán, cân đối ngoại thương, cân đối cung cầu vẫn chứa
đựng những yếu tố rủi ro cao, đặc biệt khi Việt Nam hội nhập sâu và rộng
vào nền kinh tế thế giới. Giá cả vẫn biến động phức tạp, chỉ số giá tiêu dùng
tăng xấp xỉ 7%. Nợ chính phủ và nợ quốc gia vẫn trong mức an toàn, nhưng
ngày càng tăng, gần đến ngưỡng cho phép tối đa và nhiều khoản nợ sắp đến
hạn phải thanh toán lãi hoặc cả gốc lẫn lãi.
- Để đối phó với tác động bất lợi của khủng hoảng kinh tế, từ cuối năm 2008,
Chính phủ đã đặt mục tiêu chống suy giảm, ổn định vĩ mô nền kinh tế và ban
hành nhiều giải pháp, nhiều chính sách cấp bách nhằm ngăn chặn đà suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
- Lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế -LIBOR và SIBOR- đang tăng. Nó
có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn cầu Việt Nam tại các ngân hàng thương
mại và doanh nghiệp.
5
- Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc
phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như vậy có thể ảnh hưởng tới tình
hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp.
- Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm cho người dân dự đoán USD sẽ xuống giá và
họ có thể rút USD khỏi ngân hàng, hoặc bán USD mua tiền Việt gửi vào. Nó
có thể làm cấu trúc tài sản của các ngân hàng rơi vào thế bất lợi.
- Trong lĩnh vực thương mại, một khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu
bao thì nhiều nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn.
III. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
1.Sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá trong kích cầu ở Việt
Nam.
Trong thực tế, Chính phủ Việt Nam đã điều hành các chính sách vĩ mô thời gian
qua khá linh hoạt trong những thời điểm nhạy cảm, góp phần giữ vững hệ thống
doanh nghiệp và duy trì một môi trường vĩ mô phù hợp. Sau giai đoạn thắt chặt
chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát từ nửa cuối 2007 đến nửa đầu 2008,

các chính sách vĩ mô có sự điều chỉnh mạnh nhằm hạn chế sự suy giảm kinh tế do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Cho tới
thời điểm này, những tác động tiềm năng của các gói kích cầu đã có thể dự đoán.
Điều này cho phép thẩm định lại về mặt lý thuyết những tác động của nền kinh tế
Việt Nam tới khả năng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ và tài khóa cho mục tiêu
kích cầu, chỉ ra những giới hạn của chính sách làm căn cứ đưa ra một số gợi ý và
cảnh báo các hiệu ứng phụ.
Cả chính sách tiền tệ và tài khoá đã được tận dụng tối đa cho mục tiêu kích cầu xét
cả ở những tác động trực tiếp và gián tiếp.
Chính sách tài khoá: Các nguồn vốn hỗ trợ từ kênh chính sách tài khoá có tác dụng
bù đắp sự giảm sút nguồn thu do suy thoái kinh tế của các chủ thể trong nền kinh
tế, hạn chế tốc độ sụt giảm nhu cầu tiêu dùng của cả tư nhân và doanh nghiệp, bằng
cách đó cho phép các chủ thể này tồn tại qua giai đoạn khó khăn và khôi phục năng
lực tiêu dùng khi nền kinh tế qua khỏi giai đoạn suy giảm. Các hình thức hỗ trợ
trực tiếp lên tới 78.000 tỷ đồng trong khi các hình thức kích cầu gián tiếp (thông
qua hỗ trợ lãi suất, miễn giảm thuế, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và
6
nhỏ…) khoảng hơn 60.000 tỷ đồng. Sự hỗ trợ của gói kích cầu đã đảm bảo mức
tăng trưởng khoảng 3,9% so với cùng kỳ, trong đó giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 5,1%, tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng khá 18,3%, tỷ lệ
biến động chỉ số giá tiêu dùng cùng kỳ dưới 10%.[2].
Các gói kích cầu qua hình thức hỗ trợ lãi suất 4% với quy mô 17.000 tỷ đồng (thời
hạn 8 tháng) và 20.000 tỷ đồng (thời hạn tới 24 tháng) với tổng dư nợ tín dụng dự
tính (nếu giải ngân hết) lên tới 850.000 tỷ đồng là quá lớn so với năng lực hấp thụ
vốn của hệ thống doanh nghiệp. Nếu xét toàn bộ thị trường vốn, thị phần thanh
khoản bơm thêm chỉ có 37.000 tỷ đồng (17.000 + 20.000 tỷ đồng), phần dư nợ tín
dụng tăng thêm là do phân phối lại thanh khoản sẵn có của nền kinh tế thông qua
hình thức huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Nếu mặt
bằng lãi suất tăng lên thì phần còn lại sau khi trừ 4% lãi suất cũng sẽ tăng lên và
doanh nghiệp phải chịu đựng mức lãi suất tăng thêm trong khi tỷ lệ sinh lời chưa

được cải thiện.[2].
Chính sách tiền tệ: Trong trường hợp kích cầu, chính sách tiền tệ tác động thông
qua việc mở rộng lượng tiền cơ sở và bằng cách đó, duy trì mặt bằng lãi suất thấp
nhằm giảm chi phí cơ hội của tiêu dùng và giá vốn đầu tư. Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã thực hiện đúng nguyên lý kèm theo một loạt các giải pháp nhằm
hướng các khoản vốn vay đúng đối tượng, triển khai các giải pháp hạn chế tình
trạng thông tin không cân xứng, giảm rủi ro do lựa chọn đối nghịch, tăng tính sẵn
sàng cho vay của các ngân hàng. Ngoài việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi
suất dự trữ bắt buộc, giảm hệ thống lãi suất chỉ đạo, thực hiện bảo lãnh cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ, triển khai cho vay hỗ trợ lãi suất, NHNN còn sử dụng các biện
pháp hành chính khống chế trần lãi suất cho vay, kiểm soát chặt việc cho vay hỗ
trợ lãi suất, cung ứng thanh khoản cho các ngân hàng có khó khăn thanh khoản,
kiểm soát tỷ giá, giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ.
Chỉ tính riêng giải số dư nợ hỗ trợ lãi suất đã ngân đến 31/7/09, tỷ lệ tăng so với
cuối 2008 là 31,2% (tổng dư nợ tín dụng cả nội và ngoại tệ năm 2008 là 1.281,86
nghìn tỷ đồng) nhưng dư nợ tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 17% theo công bố của
NHNN (chỉ tiêu khống chế của NHNN năm 2009 là 30% tăng trưởng). Phần chênh
lệch 14,2%, tương đương với khoảng 182.000 tỷ đồng có thể được sử dụng để tái
cơ cấu lại nợ, đầu tư tài chính, vàng, ngoại tệ ngắn hạn chỉ có tác dụng với doanh
số mà không làm thay đổi dư nợ. Trong điều kiện tỷ giá USD/VND tăng lên, hiện
7
tượng di chuyển từ tiền gửi VND sang tài sản ngoại tệ sẽ xảy ra và gây cản trở cho
hoạt động của các NHTM và hệ thống doanh nghiệp bởi tình trạng mất cân đối
bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM.[2]
2. Sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ
điều hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mô là tăng trưởng và
kiểm soát lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn
kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể làm trầm trọng,
làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai chính sách

này luôn được chính phủ, các nhà hoạch định chính sách quan tâm.
Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong năm 2010, Việt
Nam vẫn đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc
độ tăng trưởng tốt nhất trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn
định, các công cụ điều hành mang tính hành chính trong giai đoạn chống suy giảm
kinh tế dần dần được dỡ bỏ, các công cụ thị trường đang dần tái sử dụng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hồi phục và phát triển sau tác động của khủng hoảng
kinh tế và tài chính trên thế giới. Có được kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết
liệt, cùng với phương pháp điều hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và
thận trọng của Chính phủ, trong đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa - tài
chính đóng vai trò quan trọng có quyết định tới ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy
tăng trưởng.[3]
3. Phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ tại Việt Nam hiện nay.
Sự phối hợp giữa hai CSTK và CSTT nhằm đưa nền kinh tế vận hành đúng quy
luật, khai thác được động lực to lớn của nền kinh tế thị trường phục vụ phát triển là
mục tiêu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế sự phối
hợp này luôn gặp phải những vấn đề phức tạp về mức độ, thời điểm, cách thức và
cơ chế vận hành. Phối hợp hai chính sách này như thế nào cho hợp lý và tối ưu để
phục vụ 2 mục tiêu: ổn định và phát triển là vấn đề đặt ra cần giải quyết, nhất là
trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn như năm 2013.
Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong thời gian qua, CSTT được
điều hành linh hoạt, thận trọng và liên tục được điều chỉnh cho phù hợp với diễn
8
biến kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn, còn CSTK được hoàn thiện theo hướng
bảo đảm thống nhất, minh bạch và công bằng. Năm 2012 và 2013, Chính phủ đã
đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ trợ thị trường nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trong điều kiện ổn định vĩ mô còn chưa vững chắc là cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước.
Cụ thể, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã có những kết quả tích cực, cơ bản
hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định

kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu quả. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, chỉ
số giá tiêu dùng tăng thấp so với năm 2011. Cán cân thanh toán quốc tế cải thiện;
lãi suất giảm mạnh; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo; kim ngạch
xuất khẩu ước tăng đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra; dự trữ ngoại hối được
cải thiện; tỷ giá ổn định. Khó khăn trong sản xuất, kinh doanh từng bước được tháo
gỡ và có chuyển biến tích cực.
Nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế tập trung vào ba lĩnh vực trọng tâm là tái cơ cấu
đầu tư, tái cơ cấu NHTM và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã và đang được
triển khai tích cực Những chuyển biến tích cực trên có phần quan trọng là do
CSTK và CSTT đã được ban hành kịp thời, hết sức linh hoạt, đi liền với thực tiễn,
đặc biệt là hai chính sách này đã ăn khớp với nhau hơn
Thực tế những năm qua, để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, nhiều thời điểm quan
điểm nới rộng cùng lúc đã được cả hai chính sách nói trên áp dụng, triển khai (cho
vay tăng trưởng tín dụng cao, tăng đầu tư công ). Điển hình là năm 2009, “liều
thuốc” nói trên đã giúp Việt Nam tăng trưởng 5,3% và kiềm chế lạm phát ở mức
6,8%. [4].
Tuy nhiên, đến năm 2011 lạm phát lại tăng vọt lên 18,13%. Bước sang năm 2012,
các chỉ tiêu tăng trưởng được đề ra cơ bản đều đạt được và phù hợp với tình hình
thực tiễn, đặc biệt lạm phát đã trở lại tăng ở mức một con số đúng như mục tiêu
ban đầu nhưng tăng trưởng tín dụng lại không như mong muốn.[4].
4. Hạn chế.
Tuy đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng hiệu quả phối hợp trong thực thi
hai chính sách này vẫn còn hạn chế, đôi khi thiếu đồng bộ và nhịp nhàng, làm ảnh
hướng đến kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính phủ cũng đã khẳng
9
định: “Việc phối hợp CSTK với CSTT, giải quyết mối quan hệ giữa ổn định kinh
tê vĩ mô và tăng trưởng có lúc chưa thật phù hợp”. Cụ thể:
Thứ nhất, CSTT và CSTK đều được điều hành nhất quán theo hướng mở rộng để
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế và thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, liều
lượng sử dụng hai chính sách chưa phù hợp và sự phối hợp giữa hai chính sách

cũng chưa nhịp nhàng, hiệu quả.
Sự nới lỏng và mở rộng của hai chính sách đã giúp Việt Nam duy trì được đà tăng
trưởng 5,3% trong năm 2009 và kiềm chế lạm phát ở mức 6,8%, thấp hơn nhiều so
với 2 năm trước. Bước sang năm 2010, trong khi CSTT đã giảm dần mức độ nới
lỏng thì CSTK lại mở rộng quá mức. Kết quả là mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế
năm 2010 đạt mức 6,78% nhưng lạm phát năm 2010 lại tăng tới 11,75%, cao gấp
gần 2 lần với năm 2009 và là một trong số ít nước trên thê giới có mức lạm phát 2
con số. Điều tương tự cũng diễn ra trong năm 2010, ảnh hưởng tới lạm phát năm
2011.[4].
Để kiềm chế lạm phát, năm 2008 và năm 2011, CSTT được thắt chặt, CSTK cũng
được điều chỉnh thắt chặt, tuy nhiên mức độ điều chỉnh chưa tương xứng và chưa
thực sự quyết liệt để tác động trực tiếp đến tổng cung, tổng cầu và hỗ trợ CSTT đã
ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp.
Thứ hai, nhiều thời điểm lãi suất trái phiếu Chính phủ vận hành trái chiều với các
mức lãi suất điều hành của NHNN làm ảnh hưởng nhất định đến mục tiêu điều
hành CSTT quốc gia. Vấn đề tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại hệ thống ngân
hàng cũng như vấn đề quản lý nguồn ngoại tệ quốc gia cũng còn những bất cập và
chưa thống nhất giữa NHNN và Bộ Tài chính, gây những khó khăn nhất định cho
cả 2 cơ quan trong điều hành và phối hợp giữa chính sách tài khoá và CSTT.
Thứ ba, mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng cơ chế trao đổi thông tin trong điều
hành CSTT và CSTK giữa NHNN và Bộ Tài chính vẫn còn nhiều khó khăn, hạn
chế do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, làm ảnh hưởng đến hiệu quả phối
hợp chính sách giữa 2 cơ quan.
5. Kế hoạch tương lai.
Trong giai đoạn 2011-2020, một trong các giải pháp được đặt ra là: Thực hiện hệ
thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ
10
nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởmg, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của nền kinh tế. Trong đó, chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý,
phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội;

phân phối lợi ích công bằng, phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách…; CSTT phải
chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định
giá trị đồng tiền…
Như vậy, có thể thấy rằng, việc xây dựng, phối hợp thực thi CSTK và CSTT có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự
phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu này, Bộ
Tài chính và NHNN cần:
Một là, thiết lập cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin thường xuyên, đáng tin cậy
giữa các đơn vị chức năng của hai cơ quan để kịp thời năm bắt đầy đủ, chính xác
các thông tin cần thiết phục vụ quá trình dự báo và hoạch định CSTK, CSTT trong
ngắn hạn cũng như dài hạn.
Hai là, thiết lập cơ chế tham vấn, đóng góp và tham gia ý kiến trực tiếp giữa các
đơn vị chức năng của hai cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành và thực thi
CSTK và CSTT.
- Bộ Tài chính và NHNN cần thiết lập một cơ chế tham vấn, đóng góp và tham gia
ý kiến trực tiếp, toàn diện giữa các đơn vị chức năng trong quá trình xây dựng, ban
hành và thực thi các cơ chế chính sách có liên quan giữa hai cơ quan.
- Đối với quá trình xây dựng chiến lược, mục tiêu, định hướng, giải pháp điều hành
CSTK, CSTT: Hai cơ quan cần trao đổi và thống nhất về các chỉ tiêu: tốc độ tăng
trưởng GDP, chỉ tiêu lạm phát, tăng trưởng tín dụng, đầu tư công, bội chi NSNN
và dự kiến kế hoạch điều hành CSTK và CSTT.
- Trong lĩnh vực quản lý ngân quỹ của Chính phủ, quản lý nợ quốc gia và vốn
ODA: phối hợp khuyến khích thu thuế qua hệ thống ngân hàng, thanh toán lương
và các khoản chi NSNN qua tài khoản, hiện đại hóa hệ thống thanh toán; xây dựng
Chiến lược quản lý nợ quốc gia, Chiến lược quản lý nợ công; Phối hợp cân đối,
đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế của Chính phủ.
- Đối với phát triển và thanh tra, giám sát thị trường tài chính: phối hợp xây dựng
và ban hành các chính sách, biện pháp phát triển thị trường tiền tệ, trái phiếu, cổ
11
phiếu, bảo hiểm trong từng thời kỳ, các chính sách phát triển thị trường. Chủ động

phối hợp trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, doanh
nghiệp, ngân hàng…
Ba là, CSTT và CSTK cần phối hợp để góp phần thực hiện cùng một lúc hai mục
tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đã đề ra về lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đồng
thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh để ngăn
chặn kịp thời tình trạng số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng tăng. Muốn vậy,
CSTK và CSTT cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng để vừa duy trì mức độ
“thắt chặt” hợp lý nhằm kiểm soát lạm phát, vừa phải có bước “nới lỏng” thận
trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Bốn là, trong dài hạn CSTT cần kiên trì theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát,
không chỉ khi lạm phát tăng cao mà ngay cả khi lạm phát ổn định đang ở mức thấp,
duy trì hoạt động giám sát chặt chẽ mua bán ngoại tệ. CSTK phải sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Thu, chi ngân sách và tín dụng
nhà nước phải gắn chặt với nguyên tắc giữ ổn định tiền tệ.
C. Tổng kết.
Sau khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế thế giới đều rơi vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng. Vì vậy mà chính phủ cần có chính sách kết hợp giữa 2 chính sách
kinh tế chủ yếu( chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ) phù hợp để đưa đất nước
thoát ra khỏi tình trạng yếu kém này, khôi phục và phát triển kinh tế.
D.Tài liệu tham khảo.
1.Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
2. Tạp chí Ngân hàng số 18/2009.
3. Tạp chí Ngân hàng số 4/2011.
4. Tạp chí Tài chính số 3/2013.
12

×