Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn NGÔN NGỮ GIỚI THIỆU NHÂN vật TRONG TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

TRẦN THỊ HẢI
MSSV: 6075419

NGÔN NGỮ GIỚI THIỆU NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN KIỀU

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: Lê Thị Ngọc Bích

Cần Thơ, 5-2011


PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................................ 3
3. Mục đích, yêu cầu......................................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 7
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................... 9
Chương 1 .................................................................................................................................. 10
VÀI NÉT VỀ NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG VÀ NGƠN NGỮ GIỚI THIỆU NHÂN VẬT 10
1. Ngơn ngữ văn chương ................................................................................................. 10
1.1. Tìm hiểu khái niệm về ngơn ngữ văn chương..................................................... 10


1.2. Một số đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học ................... 12
1.2.1.
Tính hình tượng từ trong nội dung của lời nói ........................................... 12
1.2.2.
Tính tổ chức cao ........................................................................................... 13
1.2.3.
Tính hàm súc................................................................................................ 15
1.2.4.
Tính biểu cảm............................................................................................... 15
1.2.5.
Tính chính xác.............................................................................................. 15
2. Ngơn ngữ văn chương trong Truyện Kiều ................................................................. 16
3. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong tác phẩm văn học .............................................. 27
3.1. nhân vật văn học là gì? ........................................................................................ 27
3.2. Ngơn ngữ giới thiệu nhân vật trong tác phẩm văn học ...................................... 29
Chương 2 .................................................................................................................................. 32
NGÔN NGỮ GIỚI THIỆU NHÂN VẬT CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU .... 32
1. Nhận xét chung về ngôn ngữ giới thiệu nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
32
2. Phân loại ngôn ngữ giới thiệu nhân vật của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” ........ 34
2.1. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật chính diện ............................................................ 34
2.1.1.
Sử dụng ngơn ngữ tác giả ............................................................................ 34
2.1.1.1. Motip từ “có”( �) .................................................................................... 34
2.1.1.2. Motip từ “là”(
).................................................................................... 36
2.1.2.
Sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, chủ yếu dùng từ Hán Việt............. 37
2.2. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật phản diện............................................................. 38
2.2.1.

Sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm. qua Motip từ “thấy” (体)... 38
2.2.2.
Sử dụng bút pháp tả thực, chủ yếu dùng từ Thuần Việt ............................ 40
Chương 3 .................................................................................................................................. 42
NGÔN NGỮ GIỚI THIỆU MỘT SỐ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA
NGUYỄN DU .......................................................................................................................... 42
1. Vài nét về Tác giả, Tác phẩm...................................................................................... 42
1.1. Tác giả Nguyễn Du (阮 攸)................................................................................. 42
1.2. Tác phẩm Truyện Kiều (傳 翹)........................................................................... 47
1.2.1.
Giá trị nội dung ............................................................................................ 47
1.2.2.
Giá trị nghệ thuật......................................................................................... 50


2.

Ngôn ngữ giới thiệu một số nhân vật trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ............ 51
2.1. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật Thúy Vân- Thúy Kiều......................................... 51
2.2. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải .......................... 57
2.2.1.
Kim Trọng .................................................................................................... 57
2.2.2.
Thúc Sinh ..................................................................................................... 61
2.2.3.
Từ Hải........................................................................................................... 62
2.3. Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh ...................... 66
2.3.1.
Mã Giám Sinh .............................................................................................. 66
2.3.2.

Tú Bà ............................................................................................................ 68
2.3.3.
Sở Khanh...................................................................................................... 70
2.4. Ngôn ngữ giới thiệu của một số nhân vật khác................................................... 74
2.4.1.
Đạm Tiên ...................................................................................................... 74
2.4.2.
Hồ Tôn Hiến ................................................................................................. 76
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................. 78
PHỤ LỤC ................................................................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 92


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

PHẦN MỞ ĐẦU

1


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

1. Lý do chọn đề tài
Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương của Việt Nam và thế giới, từ lâu đã được
khẳng định là tập đại thành của ngôn ngữ thơ ca. Phạm Quỳnh khi tranh luận về Truyện
Kiều đã nhấn mạnh: “ Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta cịn, nước ta cịn” . Điều đó
cho ta thấy được vai trị của Tiếng Việt cũng như ngơn ngữ Truyện Kiều là rất quan trọng.
nó là niềm tự hào của người Việt Nam qua bao thế hệ.
Ngay từ khi ra đời cho đến mãi về sau Truyện Kiều vẫn được độc giả yêu thích.
Bởi lẽ với người Việt Nam, Truyện Kiều đã đi sâu vào lòng họ như một khúc hát ru với

lời thơ dìu dặt, giọng thơ da diết. Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hoà
trong đời sống của tồn dân tộc. Khơng riêng gì Văn học Việt Nam, mà trong Văn học thế
giới cũng hiếm có tác phẩm nào chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người
đọc, từ già đến trẻ, từ người có học đến quần chúng bình dân trước đây phần lớn bị thất
học, như Truyện Kiều. Truyện Kiều khẳng định sức ảnh hưởng của mình ngay trong ca
dao, dân ca: “Đàn ông chớ kể Phan Trần / Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều...”. Sở có sự
ảnh hưởng sâu rộng như thế là vì ngồi nội dung phong phú và sâu sắc của, Truyện Kiều
còn là một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
Bên cạnh đó Truyện Kiều cịn là một tác phẩm có giá trị như một thông điệp cho
con người giao cảm với thế giới vơ hình, dạt dào cảm xúc mơ mà như thực, lung linh
huyền ảo mà minh bạch lạ lùng. Nói đến Truyện Kiều có lẽ khơng ai khơng thừa nhận sự
thành công vô cùng rực rỡ về cả hai mặt nội dung và hình thức. Từ sau khi Truyện Kiều ra
đời cho đến nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu đi sâu vào khai thác giá trị nội dung
cũng như hình thức của tác phẩm. Trên bình diện nghệ thuật, các tác giả cố gắng khơi nên
cái hay, cái đẹp cho những dòng thơ lục bát và đã nâng nội dung Truyện Kiều lên đến độ
thăng hoa. Tuy nhiên có vài khía cạnh chỉ mới được xem xét trên bình diện tổng quát,
chưa kịp đi vào tìm hiểu cụ thể, một trong số đó là giá trị ngôn ngữ giới thiệu nhân vật
trong Truyện Kiều.

2


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Trong một tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm tự sự, xây dựng hệ thống các nhân vật là
điều vô cùng quan trọng mà địi hỏi tác giả phải bỏ cơng, dụng sức. Để xây dựng hình
tượng nhân vật thành cơng thì việc sử dụng ngôn ngữ giới thiệu nhân vật là rất quan
trọng, nhưng không phải nhà văn , nhà thơ nào cũng làm được điều đó. Chỉ ở Truyện Kiều
của Nguyễn Du ta mới thấy hết được các độc đáo trong việc vận dụng từ ngữ vào việc
giới thiệu nhân vật. Chính điều này đã góp phần khơng nhỏ tạo nên thành công của tác

phẩm. ngiên cứu về đề tài này người viết gặp phải khơng ít khó khăn trong việc tìm kiếm
tài liệu, vì đây là vấn đề ít được nhắc đến. Nhưng chính vì lịng u mến Truyện kiều cũng
như tác giả Nguyễn Du đã giúp tôi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn cố gắng đào
sâu, tiếp xúc kỹ hơn với Truyện Kiều ở nhiều khía cạnh khác nhau nhất là về mặt ngơn
ngữ. Qua đó thể hiện rõ hơn tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc thừa kế và
phát huy vốn ngôn ngữ của dân tộc.

2. Lịch sử vấn đề
Truyện Kiều ra đời đã làm dấy lên một loạt các hình thức văn học, từ phê bình đến
sáng tác một cách sâu rộng lâu dài, mang lại cho nhân dân ta một đời sống văn học mới,
phong phú và đa dạng hơn. Từ tầng lớp trí thức cho đến những người bình dân, tất cả đều
say mê nghiên cứu Truyện kiều. Các hình thức bình Kiều, đố Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều,…
diễn ra sơi nổi. Bên cạnh đó, những cơng trình nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều ra đời là
bộ phận quan trọng chứng minh cho ảnh hưởng và sức sống vĩnh cửu của tác phẩm. việc
nghiên cứu Truyện Kiều vẫn đang diễn ra và còn tiếp tục. Thư mục nghiên cứu Truyện
Kiều đã lên đến hàng mấy trăm, có cả những cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước
ngồi. Đó là chưa kể đến những bài báo, tạp chí, và cả những ý định của nhiều người vẫn
còn dang dở.
Nói về nghiên cứu Truyện Kiều, từ xưa đến nay chia thành nhiều giai đoạn với
những ý kiến khác nhau. Giai đoạn từ năm 1952 trở về trước, các tác giả chủ yếu bàn về
nội dung tác phẩm và dựa trên nền tảng đạo đức với các ý kiến khác nhau. Nhưng từ năm
1952 trở đi, khi đi vào nghiên cứu Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đã đi vào phân tích,
đánh giá tồn vẹn hơn cả về nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm. Các tác giả giai đoạn
này thể hiện tư tưởng mới mẻ hơn so với các tác giả trước đây, đó là họ khơng đặt tác
3


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

phẩm trong mối quan hệ với đạo đức để đánh giá phẩm chất nhân vật, hay tư tưởng của

Nguyễn Du trong tác phẩm mà xốy sâu vào từng câu chữ để tìm cái hay trong nội dung
và cái độc đáo trong nghệ thuật. Và từ giai đoạn này trở đi nội dung và nghệ thuật của
Truyện Kiều được nhìn nhận trong sự nhất trí của hầu hết tác giả.
Cả về nội dung lẫn nghệ thuật, hầu hết các cơng trình nghiên cứu đều khẳng định
những đóng góp to lớn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Về nội dung đó là giá trị nhân
đạo và giá tri hiện thực của tác phẩm, còn về nghệ thuật luôn thu hút được sự chú ý của
rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong cơng trình nghiên cứu Truyện Kiều của mỗi người, bao
giờ các tác giả cũng dành những trang viết về những thành công trong nghệ thuật của
Nguyễn Du như: nghệ thuật xây dựng nhân vật, tả cảnh ngụ tình, diễn biến tâm lí nhân
vật, phương pháp sáng tác,… và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ Truyện Kiều. Nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một thành công tiêu biểu và đặc sắc, góp
phần nâng tác phẩm lên hàng kiệt tác. Đồng thời còn là sự khẳng định tài năng của
Nguyễn Du. Các bài nghiên cứu của rất nhiều tác giả đều chứng minh cho ngơn ngữ
Truyện Kiều ở các khía cạnh; “sự phong phú về từ vựng, đa dạng về lớp từ; ngơn ngữ
trong sáng giàu hình ảnh, giàu sức gợi, truyền cảm; ngôn ngữ được sử dụng một cách
cân nhắc có chọn lựa; cú pháp câu thơ cũng mang tính chất thơ ca rõ rệt” [19; 85,86].
Chính sự đặc sắc ở nhiều khía cạnh của ngơn ngữ Truyện Kiều đã góp phần làm lên sự
thành cơng của tác phẩm, mà nghệ thuật giới thiệu nhân vật của Nguyễn Du trong tác
phẩm là một minh chứng cụ thể.
Trong bài viết Về ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều Lý Tồn
Thắng khẳng định “Đối với ngơn ngữ của tồn bộ một tác phẩm. cái phần ngôn ngữ giới
thiệu nhân vật mới vào chuyện này cũng thể hiện không phải là ít ỏi tài năng của người
cầm bút: và cũng không phải là khơng có vấn đề để các nhà văn học và ngôn ngữ học
quan tâm nghiên cứu. Nhất lại là một tác phẩm thiên tài cổ điển như Truyện Kiều.”
[33;53] . Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng ngơn ngữ một cách tài tình để giới thiệu
những nhân vật lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm. Các truyện thơ khác như “Hoa
Tiên”, “Phan Trần”, “Nhị Độ Mai”,…có rất nhiều nhân vật được đưa vào truyện một
cách đột ngột, làm cho người đọc không biết nhân vật từ đâu ra, thậm chí có nhân vật khi
4



Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

mới xuất hiện phải thêm lời trích dẫn ở dưới. Nhưng ở Truyện Kiều, Nguyễn Du không
những thành công ở ngôn ngữ xây dựng nhân vật hay ngôn ngữ kể chuyện mà Truyện
Kiều của Nguyễn Du được biết đến như thiên tuyệt bút về nghệ thuật ngơn từ. Chính vì
vậy ngay cả việc sử dụng ngôn ngữ để giới thiệu nhân vật Nguyễn Du cũng thể hiện sâu
sắc tài năng của mình. Bỏ qua qui luật vần điệu của truyện thơ, Truyện Kiều đã có nhiều
nhân vật được giới thiệu rất thành cơng. Cũng trong bài viết của mình một lần nữa Lý
Toàn Thắng đưa nhận xét: “mặc dù Truyện Kiều là một truyện thơ cần phải đảm bảo
những qui luật âm vận nhất định, nhưng hầu hết tất cả các nhân vật trong tác phẩm từ
chính đến phụ đều được Nguyễn Du dẫn dắt vào truyện một cách có chuẩn bị, một cách
tự nhiên và lạ lùng ”[33; 54]
G.S Trần Đình Sử trong cơng trình Thi pháp Truyện Kiều cũng đã khẳng định tài
năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ở bài viết “Nguyễn Du - nghệ
sĩ ngôn từ”. G.S đã gọi Nguyễn Du là “nhà nghệ sĩ ngơn từ” và cịn khái qt nên “cơng
việc” của nhà nghệ sĩ ấy: “Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông đã
đập vỡ cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật”(28; 308). Chính
sự gọt giũa của bàn tay nghệ sĩ khéo léo ấy đã làm cho những trang Truyện Kiều trở thành
bất hủ.
Ngồi ra cịn một số ý kiến khác của các nhà nghiên cứu về Truyện Kiều. Điển
hình như tác phẩm Truyện Kiều những lời bình của Hồi Hương. Đó là tuyển tập những
bài viết của các tác giả, trong đó tập trung, xốy sâu vào nghiên cứu, đánh giá nội dung
tác phẩm, tác phẩm được đánh giá bình luận và nhìn nhận trên nhiều phương diện cũng
như nhiều góc độ khác nhau. Bài viết khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong cách diễn
đạt từ, ngữ, câu và nghệ thuật thể hiện tâm lí nhân vật. Hay ý kiến của Lê Xuân Lít trong
200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều. Tác giả đã bỏ cơng tổng hợp tồn bộ những
bài viết, những bài phê bình, bình luận trong khoảng 200 năm nghiên cứu về Truyện kiều.
đó là những bài viết tiêu biểu nhất, nghiên cứu Truyện Kiều một cách gần như toàn diện
nhất ở rất nhiều quan điểm khác nhau. Các bài viết chủ yếu tập trung thể hiện những phát

hiện mới, những nội dung cụ thể giúp người đọc hiểu sâu hơn về Truyện Kiều ở những
phương diện cụ thể như: ngôn ngữ, vấn đề dị bản, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật…,
5


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

nhưng cũng chưa có bài viết nào đi vào nghiên cứu một cách cụ thể và sâu sắc ngôn ngữ
giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều.
Nhìn chung, viết về ngơn ngữ Truyện kiều đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu và
hầu hết đều ca ngợi Truyện kiều. Tài năng của Nguyễn Du được khẳng định là ông đã rất
khéo léo khi vận dụng ngơn ngữ một cách tài tình trong tác phẩm của mình, đặc biệt là
Truyện Kiều. Chính điều đó đã góp một phần lớn tạo lên sự thành cơng của tác phẩm. vận
dụng ngôn ngữ trong việc diễn biến tâm lí nhân vật, trong việc xây dựng hình tượng nhân
vật hay trong cách giới thiệu nhân vật,… tất cả đều rất tài tình. Truyện Kiều đã đánh dấu
một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Tiếng Việt, nó góp phần làm cho Tiếng Việt thêm
giàu đẹp, thêm uyển chuyển và trở nên chính xác và xúc tích lạ thường. Tuy nhiên, việc đi
vào tìm hiểu ngơn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều hầu như chưa có một cơng
trình thật sự chun sâu, có chăng cũng chỉ là một số nhận xét lẻ tẻ để góp phần nghiên
cứu ngơn ngữ Truyện kiều.
3. Mục đích, u cầu
Khi thực hiện đề tài này, người viết vươn tới đạt được những mục đích – u cầu
sau:
- Trình bày những quan niệm về ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn chương
trong Truyện kiều, và đặc biệt cố gắng đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ giới thiệu nhân
vật.
- Khái quát tác giả Nguyễn Du, về cuộc đời cũng như các sáng tác của ơng.
Đồng thời khái qt một cách chính xác nhất về tác phẩm Truyện Kiều để thấy được tài
năng kiệt xuất của Nguyễn Du.
- Phân tích các phương thức giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều.

- Góp phần nghiên cứu một cách cụ thể hơn về ngôn ngữ giới thiệu nhân vật
trong Truyện kiều. Qua đó giúp người đọc có cái nhìn tồn diện hơn về tài năng nghệ
thuật của Nguyễn Du.

6


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện
Kiều”. Từ những gợi ý của các nhà nghiên cứu, người viết sẽ chọn ra những phương thức
giới thiệu nhân vật để nghiên cứu và làm nổi bật vấn đề.
Và để thực hiện đề tài này, người viết dựa trên văn bản Truyện Kiều của hai tác giả
Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính, trong quyển Nguyễn Du - tác phẩm và lịch sử
văn bản - NXB TP Hồ Chí Minh- 2000 và người viết căn cứ vào chú giải ở quyển Nguyễn
Du- Truyện Kiều (chú thích, chú giải và những tư liệu gốc) - NXB văn hóa thơng tin Hà
Nội- 2000 của hai tác giả Hà Huy Giáp và Nguyễn Thạch Giang.
Do hạn chế về thời gian và tài liệu tham khảo cho nên người viết chỉ phân tích một
cách khái quát, chưa được sâu sắc lắm về “ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong truyện
kiều”, chỉ mong góp phần làm phong phú thêm các nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều
để thấy được tài năng kiêt xuất của Nguyễn Du.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đi vào nghiên cứu đề tài “ngôn ngữ giới thiệu nhân vật của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều” người viết phải sử dung rất nhiều phương pháp như: phương pháp lịch sử,
thống kê, hệ thống, đối chiếu so sánh, tổng hợp,…
-

Phương pháp lịch sử
Để đi vào nghiên cứu ngôn ngữ văn chương cũng như ngôn ngữ giới thiệu


nhân vật trong Truyện Kiều. Theo người viết trước hết chúng ta phải tìm hiểu đơi nét về
ngơn ngữ văn chương, về nguồn gốc lịch sử- xã hội để hình thành nên ngôn ngữ văn
chương cũng như ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong một tác phẩm, các phương thức
được sử dụng để giới thiệu nhân vật, vị trí của ngôn ngữ văn chương trong kho ngôn ngữ
của Tiếng Việt,… Phương pháp lịch sử giúp người viết nắm bắt được nội dung cơ bản của
yếu tố này.
-

Phương pháp phân tích

7


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Phương pháp phân tích được người viết sử dụng để đi vào phân tích các
phương thức ngơn ngữ được Nguyễn Du sử dụng để giới thiệu nhân vật trong Truyện
Kiều. Qua đó làm nổi bật giá trị nghệ thuật cũng như giá trị nội dung của tác phẩm, đồng
thời khẳng định tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du.
-

Phương pháp đối chiếu so sánh
Trong quá trình nghiên cứu người viết sử dụng phương pháp này để đối

chiếu so sánh nhiều ý kiến của các tác giả để có được những đánh giá chính xác nhất về
ngơn ngữ văn chương cũng như ngơn ngữ giới thiệu nhân vật. Bên cạnh đó người viết cịn
đối chiếu so sánh việc sử dụng ngơn ngữ để giới thiệu nhân vật của Nguyễn Du so với các
tác gia cùng thời.
-


Phương pháp thống kê

Người viết sử dụng phương pháp này để thống kê một số nhân vật trong Truyện
Kiều là cơ sở để làm rõ các phương thức giới thiệu nhân vật trong tác phẩm
-

Phương pháp hệ thống
Số lượng nhân vật trong Truyện Kiều khá nhiều, gần 30 nhân vật. Người

viết khơng thể đi vào phân tích ngôn ngữ giới thiệu của từng nhân vật được. Do đó người
viết hệ thống lại theo từng phương thức ngơn ngữ mà Nguyễn Du đã sử dụng. Chẳng hạn
như sử dụng ngôn ngữ của tác giả, ngôn ngữ của nhân vật, lớp từ Hán Việt, Thuần
Việt,… để giới thiệu nhân vật.
-

Phương pháp tổng hợp
Sau khi phân tích, chọn lọc, so sánh đối chiếu, người viết tổng hợp để khẳng

định lại vấn đề mà mình đã trình bày.

8


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

PHẦN NỘI DUNG

9



Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Chương 1

VÀI NÉT VỀ NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG VÀ NGÔN NGỮ GIỚI
THIỆU NHÂN VẬT

1. Ngơn ngữ văn chương
1.1. Tìm hiểu khái niệm về ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ là công cụ chuyển thể ý tưởng của một cá thể này đến cá thể khác. Cho
nên ngơn ngữ chỉ hình thành trong một quần thể. Giả thiết chỉ có một cá thể tồn tại thì ta
khơng cần và cũng khơng có ngơn ngữ. Căn bản để có được ngơn ngữ là mối quan hệ
sống giữa người và người, tự thân ngơn ngữ nói lên mối gắn kết sống cịn này. Ngay khi
thầm nói với chính mình, ta khơng thể dùng một tín hiệu tự tạo, lẻ loi và độc lập nhưng
phải dựa trên ngơn ngữ và bằng ngơn ngữ, tức là có và nhờ người khác cấu tạo được
phương tiện này. Vì thế, ngơn ngữ nói hay viết là nói với người khác hay viết cho người
khác. Khi nói với chính mình cũng có nghĩa là đặt mình thành "người khác" để suy nghĩ
hay trần tình . Vậy, dù bất cứ ở hình thức nào, ngơn ngữ là một thể hiện tính kết nối cao
nhất giữa người với người. Vắng bóng mối liên kết này, ngôn ngữ sẽ bị triệt tiêu ngay từ
khởi điểm, hay nói khác đi, ngơn ngữ khơng có được và khơng tồn tại được. Khơng có
được là vì khơng đủ điều kiện để hìmh thành ngơn ngữ. Và khơng tồn tại được là vì
khơng ai để giao tiếp.
Từ khái niệm trên, chúng ta trở lại vấn đề về hiện tượng trong ngôn ngữ văn
chương để thấy rõ nét hơn. Nhà văn hay thi nhân thường mã hố hình tượng, cảm nghĩ
của họ thông qua ngôn ngữ viết . Bởi vì hiện tượng mà họ muốn mã hố vơ cùng phong
phú và còn đầy ẩn số mời gọi họ vén màn cho nên lúc nào họ cũng bị “nhiễu” trong cách
sử dụng ngơn ngữ. Mỗi lần tri giác nó, dường như họ khám phá thêm một hiện tượng, một
điều mới lạ và mãi mãi như thế, không bao giờ vét cạn ý nghĩa của đối tượng được.
10



Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Những rung cảm, góc nhìn, ý tưởng v.v… của họ khơng sao mã hố trọn vẹn qua ngơn
ngữ . Vì thế, niềm vui, nỗi buồn, thẩm mỹ, tình yêu…. Là những hiện tượng muôn thưở
phơi bày diện mạo mới lạ mà nhà văn khơng bao giờ viết cạn, vẽ đủ. Chính vì lối mịn
chật chội của ngơn ngữ mà họ ln ln nỗ lực sáng tạo ra những “mã” mới để tránh bị
“nhiễu” . Và “nhiễu” là điều mà họ không bao giờ thoát được. Nếu họ đã vét cạn được
hiện tượng mà họ muốn chuyển tải thì đối tượng đã dừng lại trong dòng thời gian, nghĩa
là đã chết trong đầy đủ và cạn kiệt, khơng cần phải nói thêm điều gì nữa vì khơng cịn là
ẩn số mời gọi khám phá thêm điều gì mới mẻ.
Những nhà văn hay thi sĩ q lớn thường mã hố hiện tượng bằng hình tượng
ngơn ngữ vượt lên lối sáo mịn cũ và có thể thay đổi cả dòng văn học sau này. Họ là
người sáng tạo “mã” mới và làm giàu cho ngôn ngữ. Chẳng hạn như người Anh thường
đặt ra vấn đề văn chương sau Shakespeare. Cũng thế, ta có thể đặt ra vấn đề thi ca sau
Nguyễn Du. Nói thế khơng có nghĩa là thi nhân đi sau phải xếp hàng bước theo đúng dấu
chân của Nguyễn Du nhưng qua hình tượng ngôn ngữ, Nguyễn Du chỉ cho họ cách mã hoá
hiện tượng phong phú hơn, trọn vẹn hơn và giảm thiểu được “nhiễu” trong mã hố nó
nhiều hơn.
Ngơn ngữ trong tất cả tính chất thẩm mĩ của nó là chất liệu, là phương tiện biểu
hiện mang tính đặc trưng của văn học. Khơng có ngơn từ thì khơng thể có tác phẩm văn
học (phi ngôn ngữ bất thành văn). Trong tác phẩm văn học, ngôn từ là phương tiện để cụ
thể hoá và vật chất hoá sự biểu hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm, tính cách nhân vật và
cốt truyện v.v... Nguyễn Tuân đã định nghĩa về nghề văn như sau: "Nghề văn là nghề của
chữ - chữ với tất cả mọi nghĩa mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó là
cái nghề dùng chữ nghĩa mà sinh sự để sự sinh". Bàn về ngôn từ trong văn học, M.Goocki
cho rằng: "Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học".
Bên cạnh đó, ngơn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn từ tồn dân đã
được nghệ thuật hố. Ngơn từ đã được chọn lọc, gọt dũa, trau chuốt,... và đặc biệt ngôn từ

ấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ, xúc cảm được nhận biết thông
qua những rung động tình cảm. Điều đó khác hẳn với những xúc cảm khoa học - những

11


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

rung động thơng qua suy lý và chứng minh. Ví dụ bài thơ "Lũ ngẩn ngơ" (Hồ Xuân
Hương); "Núi đôi" (Vũ Cao), v.v...
Ngôn từ của tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Bất kỳ một tác
phẩm văn học nào cũng đều được viết hoặc được kể bằng lời (văn học viết hoặc văn học
dân gian - truyền miệng). Ở phương diện thể loại văn học có lời thơ, lời văn. ở phương
diện chức năng và các thành phần cấu tạo của lời văn nghệ thuật có lời tác giả, lời nhân
vật, lời trực tiếp, lời gián tiếp... nói chung gọi là lời văn. Lời văn là hình thức ngơn từ
nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Lời văn thực chất là một dạng ngôn từ tự nhiên đã được nhà văn tổ chức theo quy
luật nghệ thuật về mặt nội dung, phương pháp, phong cách, thể loại, được đưa vào hệ
thống giao tiếp khác mang chức năng khác (không phải giao tiếp thơng thường như lời
nói thơng thường).

1.2. Một số đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học
1.2.1. Tính hình tượng từ trong nội dung của lời nói
Tính hình tượng khơng phải chỉ có trong ngơn từ văn học mà cịn có cả
trong ngơn từ thực tế đời sống. Song đặc trưng này thể hiện hoàn tồn khác nhau giữa
ngơn từ văn học và ngơn từ trong thực tế đời sống.
Trong thực tế, tác giả lời nói và chủ thể lời nói là một, là đồng nhất và
người nghe phải hiểu nó một cách rất thực tế nghĩa là phải chú ý xem tác giả lời nói đó là
ai, nói trong trường hợp nào, nhằm mục đích gì. Như vậy, tác giả lời nói giữ vai trị quan
trọng, quyết định, cho nên dân gian có câu: "Miệng người sang có gang có thép" hoặc

"Vai mang túi bạc kè kè. Nói ấm nói ớ người nghe ầm ầm", tức là địa vị xã hội cao hoặc
thấp, tình trạng giàu hoặc nghèo của tác giả lời nói có ý nghĩa quyết định.
Trong văn học, tác giả lời nói và chủ thể lời nói khơng phải là một và điều
quan trọng là chủ thể lời nói (khơng phải tác giả lời nói như lời thực tế trong đời sống).
Tính hình tượng của ngơn từ văn học bắt nguồn từ lời của chủ thể hình tượng, chủ thể tư
tưởng thẩm mỹ xã hội có tầm khái quát, có ý nghãi đại diện cho tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng... của một tầng lớp giai cấp, của một thế hệ nào đó. Ngay cả khi nhà thơ xưng "ta"
12


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

hoặc "tôi" đấy nhưng cũng không phải là lời của tác giả, của một người thực tế mà là lời
của chủ thể hình tượng, chủ thể tư tưởng thẩm mỹ mang ý nghĩa đại diện. Ví dụ khi Lê
Anh Xuân viết: "Tay cầm nắm đất cha ông. Nghe thiêng liêng ngọn lửa hồng trong tay"
(Về Bến Tre) thì đây khơng phải là lời của một Lê Anh Xuân trong thực tế mà là lời của
nhân vật trữ tình có ý nghĩa đại diện cho tư tưởng, tình cảm của hàng nghìn thanh niên
sau khi tập kết từ miền Bắc được trở về quê hương miền Nam tiếp tục chiến đấu, suy nghĩ
sâu xa về lẽ sống, về trách nhiệm của mình đối với q hương đất nước, với dân tộc.
Tính hình tượng của ngôn từ văn học không chỉ biểu hiện ở các biện pháp tu
từ, các phương thức chuyển nghĩa (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hoá, ngoa
dụ...) mang tính chất cục bộ bề ngồi mà cịn nằm sâu trong bản chất hình tượng của sáng
tác. Trong khi tái hiện đời sống, ngôn từ văn học không chỉ miêu tả sự "vận động" và
"động tác" của các sự vật, hiện tượng mà còn tái hiện trạng thái tinh thần của toàn bộ sự
vật và con người trong những thời khắc nhất định. Theo A.Tônxtôi, mọi vật trên thế giới
đều có cái động tác hành động và vận động riêng của nó trong một thời điểm nào đó,
khơng chỉ là tác động của cơ thể mà còn là tác động của tâm hồn, của tình cảm.

1.2.2. Tính tổ chức cao
Nói chung, ngơn từ trong các loại hình văn bản đều địi hỏi phải có tính tổ

chức cao. Song do đặc thù của mỗi loại văn bản, tính tổ chức cao thực hiện những chức
năng khác nhau.
Văn bản khoa học, lời văn khoa học tổ chức cao để đảm bảo nội dung, khái
niệm của từ trong tư duy lơgíc chính xác, chặt chẽ.
Văn bản nghệ thuật, lời văn nghệ thuật tổ chức cao để giải phóng tính hình
tượng của từ. Tính tổ chức cao của lời thơ thể hiện rõ ở vần nhịp, niêm đối chặt chẽ. Tính
tổ chức cao của lời văn xuôi thể hiện ở cách dùng từ, sắp xếp các từ ngữ vừa chặt chẽ, vừa
linh hoạt, uyển chuyển nhưng khơng phải rời rạc, xi xi. Tính tổ chức cao trong ngôn
từ văn học không chỉ thể hiện ở việc sử dụng từ ngữ mà còn thể hiện ở cả dấu câu - một
yếu tố tưởng chừng rất nhỏ trong sử dụng ngơn từ cũng có ý nghĩa rất quan trọng

13


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Trong một hội thảo khoa học, khi nói về dấu câu, nhà văn Tơ Hồi rất có lý
khi cho rằng: "Dấu câu là hình thức của chữ, của từ. Thật ra khơng phải chỉ có dấu câu
mà ngay cả cách ngắt nhịp cũng cần được xem là một từ đa nghĩa, một từ đặc biệt (khơng
có vỏ âm thanh) trong vốn ngơn từ chung của nhân loại".
Tính tổ chức cao của ngơn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học còn thể
hiện ở sự linh hoạt, uyển chuyển đặc biệt là ngôn từ tiểu thuyết - một thể loại văn học mới
mẻ, hiện đại, luôn luôn biến chuyển cho phép nhà văn vận dụng linh hoạt, sáng tạo tất cả
các loại hình ngơn từ, các cách diễn đạt khác nhau. Đó là những lối nói khẩu ngữ, thành
ngữ, tục ngữ, những từ địa phương, những từ nước ngoài, những từ mới phát sinh. Thậm
chí ngơn từ tiểu thuyết có thể dung nạp được cả ngơn từ của các loại hình văn bản khác
như nhật ký, thư từ, những tư liệu sự kiện có tính chất báo chí... thể hiện trạng thái đa ngữ
của thế giới hiện thực, của cuộc sống và con người trong thời hiện đại, nói như nhà
nghiên cứu văn học Xơ viết M.Bakhtin thì đó là hiện tượng "phá rào" của ngơn từ tiểu
thuyết, nó có thể bước qua mọi ranh giới, đặc trưng của văn học nghệ thuật.

Riêng đối với ngơn từ địa phương có một vấn đề mà nhà văn cần phải quan
tâm. Đó là vấn đề sử dụng ngôn từ địa phương như thế nào, ở mức độ nào trong mỗi tác
phẩm. Tác dụng của tiếng địa phương là nêu bật được hình tượng, sự kiện, con người...
tạo ra được những sắc thái địa phương trong tác phẩm, đóng góp cho sự phong phú chung
của ngơn từ dân tộc. Song người viết vẫn phải hết sức chú ý bên cạnh những từ địa
phương được sử dụng rộng rãi với tần số xuất hiện rất lớn đã gần như được phổ thơng
hố, ai cũng có thể hiểu được cịn có nhiều từ ngữ địa phương chỉ được sử dụng trong một
phạm vi hạn hẹp, một vùng miền nào đó. Do vậy, khi sử dụng từ ngữ địa phương cần phải
có sự cân nhắc thận trọng. Chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết và cũng không
nên dùng quá nhiều từ ngữ địa phương trong một tác phẩm. Nếu lạm dụng từ ngữ địa
phương sẽ dễ tạo ra những cản trở trong tâm lý tiếp nhận của cơng chúng độc giả, khơng
những khơng giúp ích gì cho việc cảm thụ thẩm mỹ tác phẩm mà ngược lại còn làm hạn
chế phạm vi ảnh hưởng của tác phẩm.

14


Ngơn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

1.2.3. Tính hàm súc
Xuất phát từ yêu cầu về mặt thông tin của tác phẩm văn học, với tư cách là
một văn bản thông tin, bằng một lượng ngôn từ hạn hẹp, tác phẩm văn học cần phải cung
cấp cho người đọc những lượng thơng tin lớn nhất, khơng có độ dư thừa. Nếu hiểu hàm
súc là súc tích, ngắn gọn hàm chứa nhiều ý nghĩa thì tính hàm súc là khả năng của ngơn từ
văn học có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cơ đọng, ít lời mà nói
được nhiều ý, ý ở ngồi lời, "ý tại ngôn ngoại". Một từ trong ngôn ngữ văn học có khả
năng gợi được một ý nghĩa lớn hơn nó, tràn ra ngồi nó.
Hiện nay, nhu cầu gia tăng thơng tin đang đặt ra như một đòi hỏi tất yếu và
chính đáng trong thời đại bùng nổ thơng tin liên quan đến cả nhịp điệu của cuộc sống hiện
đại. Nhu cầu gia tăng thông tin trong ngôn từ văn học hay nói cách khác là rút ngắn con

đường dẫn đến thông tin là một trong những nhu cầu mới của cơng chúng văn học ngày
hơm nay.

1.2.4. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm là khả năng của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học
có thể biểu hiện cảm xúc của đối tượng được miêu tả trong tác phẩm. Có thể tác động tới
tình cảm của người đọc, truyền đạt được những tình cảm, xúc cảm tới người đọc, người
nghe. Nghệ thuật là quy luật của tình cảm. Văn học là một loại hình nghệ thuật nên ngơn
từ văn học khơng thể thiếu tính biểu cảm. Văn học tác động tới cuộc sống bằng con
đường tình cảm, con đường của trái tim. Để dẫn dắt người đọc tới những bến bờ xa xơi
của lý trí thì trước hết văn học phải tác động tới trái tim người đọc, có những câu văn, câu
thơ có khẳ năng "làm tổ" trong trái tim người đọc, để giúp người đọc, người nghe cảm thụ
đời sống một cách mới mẻ hơn theo quy luật của cái đẹp. Ví dụ: "Bên đường chiến
tranh", "Cỏ lau" (Nguyễn Minh Châu), "Ánh trăng" (Nguyễn Duy) v.v...

1.2.5. Tính chính xác
Một yêu cầu rất quan trọng của văn học là phản ánh hiện thực một cách
chân thực, như nhà bác học Lê Q Đơn nói: “văn muốn hay trước hết phải đúng”. Nói
một cách chính xác, đây chính là khả năng của ngơn ngữ văn học có thể biểu hiện đúng
15


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

điều nhà văn muốn nói, miêu tả đúng hiện thực mà nhà văn cần tái hiện. Một từ bình
thường được dùng đúng lúc, đúng chỗ sẽ đem lại hiệu quả thẩm mĩ và giá trị hiện thức rất
cao cho người đọc, giúp người đọc tưởng tượngvà cảm thụ một cách đúng đắn về đối
tượng được miêu tả.
Tính chính xác trong văn học khác với trong khoa học. Trong văn bản khoa
học, tính chính xác của ngơn từ dựa trên tính đơn nghĩa của từ ngữ, thuật ngữ. Ngược lại

trong tác phẩm văn học tính chính xác của ngơn từ dựa trên tính hình tượng, giàu tính
hàm ẩn. Chính xác trong văn nghệ thuật là vẽ đúng nét sinh động của đối tượng miêu tả
theo quan niệm của tác giả và theo yêu cầu riêng của văn học. Có nghĩa là phải chọn đúng
từ, đặt đúng chỗ,…có như thế mới đạt được hiệu quả trong miêu tả. Chẳng hạn trong
Truyện Kiều vẫn là miêu tả diễn biến tâm trạng Thúy Kiều song mỗi hồn cảnh Kiều lại
có diễn biến tâm trạng khác nhau, những nỗi niềm khác nhau: tâm trạng kiều gặp Thúc
Sinh ở màn báo ân báo oán khác với lúc gặp Kim Trọng ở màn đoàn viên. Hay trong tác
phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Lý là một nhân vật có tính cách rất
phong phú, đầy cá tính, dễ đổi thay thì ngơn ngữ của Lý ln thay đổi giọng điệu, sắc thái
biểu cảm thể hiện đúng tính cách của chị: lúc thì đay nghiến, cay nghiệt,… nhưng có lúc
lại hết sức mượt mà, tình cảm, đầm ấm,…Nghĩa là hình tượng nhân vật như thế nào thì
ngơn ngữ thể hiện phải như thế. Ngơn ngữ chính xác sẽ tạo cơ hội cho nhà văn dựng lên
được những chân dung sinh động, khắc họa được những tính cách điển hình, sắc nét, góp
phần đưa tác phẩm gặt hái được nhiều thành công.

2. Ngôn ngữ văn chương trong Truyện Kiều
Trong các vấn đề tranh luận về Truyện kiều xưa nay, dường như một ý kiến duy
nhất khơng có mấy ý kiến trái ngược. Đó là vấn đề những thành tựu về ngôn ngữ của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đa số các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều
khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn ngữ dân tộc, là tập đại thành về ngôn ngữ
của thời đại ông, là người đã nâng ngôn ngữ dân tộc lên một đỉnh cao chói lọi. Đào
Nguyên Phổ đánh giá Truyện Kiều là “một khúc Nam âm tuyệt xướng”. Đặng Thai Mai
cho Truyện Kiều chỉ kém Kinh Thánh trong việc chinh phục lòng tin của độc giả. Ngay
trong Lời đầu sách Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh viết: "Trong lịch sử ngôn ngữ và
16


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

lịch sử văn học VN, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho

ngơn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho
ngơn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng
ngơn ngữ VN đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ
và sâu sắc... Nguyễn Du sinh quán ở Thăng Long, tổ quán ở Nghệ-Tĩnh, mẫu quán ở Bắc
Ninh, đã nhờ những điều kiện ấy mà dựng lên được một ngơn ngữ có thể nói là gồm được
đặc sắc của cả ba khu vực quan trọng nhất của của văn hóa nước ta thời trước".[1; 16]
Thành cơng của Nguyễn Du về phương diện ngơn ngữ có một ý nghĩa hết sức to
lớn đối với lịch sử, cùng với Nguyễn Trãi trước kia, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều,
Nguyễn Công Trứ,….cùng thời. Nguyễn Du đã khẳng định đầy sức thuyết phục sự phong
phú và khả năng to lớn của ngơn ngữ dân tộc qua sáng tác văn học. Chính nhờ những tác
gia cùng với những tác phẩm của mình như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến,… mà trong suốt tám mươi năm dưới ách thống trị đô hộ của thực
dân Pháp, tiếng Pháp vẫn không thay thế được tiếng Việt trong đời sống văn hóa cũng
như các sáng tác văn học của dân tộc. Nền văn học của chúng ta vẫn là nền văn học sáng
tác bằng tiếng Việt. Đó là điều hầu hết các nước có cảnh ngộ như chúng ta khơng có
được.
Truyện Kiều đã đem lại lòng tin cho mọi người về khả năng phong phú của tiếng
Việt, và Truyện Kiều đã có cơng khai sáng cho nhiều nhà văn, nhà thơ đời sau về phương
diện sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương.
Cũng giống như tất cả các tác phẩm văn học đương thời, ngôn ngữ trong Truyện
Kiều gồm hai thành phần thuần Việt và Hán Việt. Dùng từ Hán Việt một cách phổ biến
trong tác phẩm văn học giai đoạn này là một phong cách có tính chất thời đại. Theo thống
kê của tổ tư liệu Viện Ngôn ngữ thì trong số 3412 từ của Truyện Kiều, có 1310 từ Hán
Việt, tức là từ Hán Việt chiếm tỉ lệ 35% trong tổng số từ của tác phẩm. Một tỉ lệ như thế
so với tác phẩm cùng thời không phải là cao. Nhưng vấn đề quan trọng không phải là tỉ lệ
cao hay thấp mà là cách nhà văn sử dụng như thế nào? Sự phát truyển ngôn ngữ của bất
cứ nước nào cũng vậy, để làm phong phú cho mình, nó sẵn sàng vay mượn khơng những
từ của tiếng nước ngoài mà cả cấu trúc ngữ pháp nữa, sự vay mượn như thế có khả năng
17



Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

làm giàu cho ngôn ngữ nếu đi đúng hướng và ngược lại có thể làm cho ngơn ngữ trở
thành lai căng, hỗn tạp. Thời đại Nguyễn Du chưa có những lý thuyết về tiếp thu ngơn
ngữ nước ngồi, nhưng với sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ dân tộc, và một sự nhạy bén
có tính chất ngơn ngữ học, thực tiễn việc sử dụng từ Hán Việt của Nguyễn Du trong
Truyện Kiều, chứng tỏ nhà thơ đi đúng hướng. Chỉ riêng việc Truyện Kiều được truyền bá
hết sức rộng rãi, được thuộc lòng trong quần chúng lao động, đủ để chứng tỏ khơng
những sức sống của Truyện Kiều nói chung, mà chứng tỏ cả sức sống của ngôn ngữ
Truyện Kiều; chứng tỏ ngôn ngữ của Truyện Kiều là gần gũi, quen thuộc đối với họ.
Việc sử dụng điển cố lấy từ văn học cổ Trung quốc cũng có thể coi như một khía
cạnh của việc sử dụng từ Hán Việt. Trong Truyện Kiều, chúng ta thấy những điển cố mà
Nguyễn Du sử dụng nếu không phải là quen thuộc đối với mọi người, thì nhà thơ thường
bố trí nó vào những văn cảnh nhất định, mà người đọc dù không hiểu điển cố, do tương
quan về văn cảnh vẫn có thể hiểu câu thơ. Chẳng hạn như những câu:
“ Khen tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này.”
Hay
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.”
Dù khơng ai biết nàng Ban, ả Tạ là những cô gái nào. Tống Ngọc, Tràng Khanh là
ai, nhưng xét theo văn cảnh của câu thơ vẫn có thể hiểu và rung cảm được.
Ngồi những phương diện vừa nói trên, việc dùng từ Hán Việt của Nguyễn Du cịn
do một nhu cầu có tính chất tu từ học trong thơ. Trong Truyện Kiều không hiếm những
hiện tượng dùng song song những từ thuần Việt với những từ Hán Việt có cùng một ý
nghĩa. Cùng với khái niệm “bố mẹ”, trong Truyện Kiều có những từ: hai thân, song thân,
18



Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

hai đường; cùng một khái niệm “người mối lái”, Truyện Kiều có những từ: nhà băng,
băng nhân, mối; cùng với khái niệm “mặt trăng”, Truyện Kiều có những từ: vành trăng,
cung trăng, cung Quảng, gương nga, bóng nga, chị Hằng,…Trong những trường hợp này,
rõ ràng Nguyễn Du hồn tồn có thể dùng từ thuần Việt thay cho từ Hán Việt, hoặc có thể
Việt hóa từ Hán Việt. Nhưng Nguyễn Du lại dùng tất cả các kiểu, vừa thuần Việt, vừa
Hán Việt, vừa Hán Việt được Việt hóa bằng cách dịch, là để làm giàu thêm kho từ vựng
của mình. Đó cũng là một biểu hiện về sự phong phú của ngôn ngữ Nguyễn Du, nó có ý
nghĩa quan trọng trong sáng tác nói chung, đặc biệt là sáng tác thơ. Với một khối lượng
phong phú những từ đồng nghĩa bao gồm từ thuần Việt, từ Hán Việt, và từ Hán Việt được
Việt Hóa bằng cách dịch, nhà thơ có thể tránh được bệnh trùng lặp, đơn điệu, có thể gieo
vần một cách uyển chuyển, có thể làm cho âm hưởng của câu thơ được dồi dào sinh động.
Bên cạnh từ Hán Việt, từ thuần Việt cũng được Nguyễn Du sử dụng không kém
phần đặc sắc. Bộ phận từ thuần Việt trong Truyện Kiều thường xuất hiện từ hai nguồn:
một nguồn từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, nghĩa một thứ ngôn ngữ đã được trau truốt, đúc
kết, ngôn ngữ của quần chúng. Và một nguồn lấy trực tiếp từ lời ăn tiếng nói hằng ngày. ở
phương diện này, Nguyễn Du đã có những tìm tịi, những đóng góp hết sức độc đáo.
Xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng Nguyễn Du lại rất chú ý ca dao, dân ca, đến
ngôn ngữ của quần chúng. Điều đó có thể là do nhà thơ chịu ảnh hưởng của mẹ từ bé với
những bài hát ru, những khúc dân ca quan họ. Về sau lớn lên lăn lộn trong cuộc sống, nhà
thơ lại có dịp gần gũi quần chúng, tham gia sinh hoạt văn hóa, văn nghệ với họ. Thơ ca
dân gian và những hình thức văn nghệ quần chúng có một ảnh hưởng to lớn đối với sự
hiểu biết và sự hình thành tài năng của Nguyễn Du.
Ngay từ những sáng tác đầu tiên, khuynh hướng học tập ca dao, dân ca, học tập
ngôn ngữ quần chúng ở Nguyễn Du thể hiện khá rõ. Đặc biệt trong hai bài Thác lời con
trai phường nón và Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, nhà thơ có ý sử dụng ngơn ngữ
quần chúng, cách nói của quần chúng, dùng những tiếng địa phương để phản ánh tâm tư

sinh hoạt của họ.

19


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Và trong Truyện Kiều, ca dao được Nguyễn Du sử dụng một cách đặc sắc, như một
thứ chất liệu nghệ thuật, chứ khơng phải như những trích dẫn. Khơng có câu nào dùng lại
nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn, cấu tạo lại cho phù hợp với phong cách chung trong
tác phẩm. Có thể nói, việc học tập thơ ca dân gian ở Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu
và Thác lời con trai phường nón làm cho nhà thơ ở chừng mực nào bị đồng hóa vào thơ
ca dân gian, thì với Truyện kiều trái lại thơ ca dân gian hồn tồn bị nhà thơ đồng hóa.
Truyện Kiều có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận ra
ảnh hưởng của ca dao.
“Xót thay hun cõi xn già,
Tấm lịng thương nhớ biết là có ngi?
Chốc đà mười mấy năm trời,
Cịn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng.
Dun em dù nối chỉ hồng
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia lối nọ ngổn ngang bời bời.”
Bên cạnh đó Nguyễn Du sử dụng rất nhiều tục ngữ và thành ngữ. Nguyễn Du sử
dụng cách tổ chức ngôn ngữ trong thành ngữ và tục ngữ để tạo ra những thành ngữ, tục
ngữ mới. Có trường hợp thật khó phân biệt đâu là thành ngữ, tục ngữ Nguyễn Du lấy từ
dân gian, và đâu là thành ngữ, tục ngữ nhà thơ tạo ra. Kết cấu của thành ngữ, tục ngữ
thường chặt chẽ, điều đó quy định cách sử dụng của nó trong tác phẩm, thường là phải

dùng liền một khối. Trong Truyện Kiều, có trường hợp Nguyễn Du cũng dùng như vậy
mà câu thơ vẫn uyển chuyển:
“Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào…
20


Ngơn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Bề ngồi thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người khơng dao.
Ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.”
Nhưng nhiều trường hợp, nhà thơ thường tách Tục ngữ, Thành ngữ ra từng bộ
phận và xen vào những yếu tố phụ, hoặc để nhấn mạnh ý nghĩa của Thành ngữ, Tục ngữ,
hoặc để làm cho nó phù hợp với vần điệu của câu thơ. Những Thành ngữ: trong ấm ngồi
êm, tình sơng nghĩa bể, khổ tận cam lai, đau như dần, ai khảo mà xưng, rút dây động
rừng,… được dùng rất khéo léo trong những câu thơ sau:
“Nàng rằng: “non nước xa khơi”
Sao cho “trong ấm thì ngoài mới êm”.
Một nhà sum hợp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sơng.
Tẻ vui bởi tại lịng nay,
Hay là khổ tận đến ngày cam lai.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng.
Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi…”
Do đặc điểm của ngôn ngữ tiếng Việt, không những ca dao, mà ngay cả tục ngữ,
thành ngữ là những tổ hợp ngôn ngữ chặt chẽ, thường cũng được cấu tạo có vần có nhịp

điệu. Vì vậy học tập ca dao, tục ngữ, thành ngữ và đưa nó vào thơ, xét ở mức độ nào đó
có những thuận lợi nhất định. Cái khó hơn đối với một nhà thơ là đưa lời ăn tiếng nói
hàng ngày của quần chúng nhân dân vào tác phẩm. Công khai sáng của Nguyễn Du có lẽ
đáng chú ý hơn là về phương diện này.
21


Ngôn ngữ giới thiệu nhân vật trong Truyện Kiều

Cũng giống như Hồ Xuân Hương, đối với Nguyễn Du, thơ ca khơng tự bó mình
trong một vương quốc của ngơn ngữ. Khơng có sự phân biệt nào về ngun tắc giữa ngôn
ngữ thơ vầ ngôn ngữ đời sống. Đối với ông bất cứ một từ ngữ nào cũng có thể trở thành
từ ngữ của thơ, miễn là phải dùng nó một cách có nghệ thuật. Trong Truyện Kiều có biết
bao tiếng nói thơng thường, những cách nói trên của miệng của quần chúng, mà vẫn rất
thơ, rất nghệ thuật. Trong khuôn khổ của thơ lục bát ơng vẫn có thể viết những câu hết
sức giản dị và gần gũi:
“Nàng rằng: “Thôi thế thì thơi,
Rằng khơng thì cũng vâng lời rằng khơng.”
Hay:
“Nàng rằng: “Trời hỡi có hay,
Quyến anh rủ yến sự này tại ai?
Đem người đẩy xuống miệng thơi,
Nói rồi rồi lại ăn lời được ngay.
Cịn tiên Tích Việt trên tay,
Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai…”
Điều dễ nhận thấy là ngôn ngữ trong Truyện Kiều hết sức phong phú và điêu luyện.
Bên cạnh việc vận dụng cao dao, tục ngữ, thành ngữ một cách sáng tạo và tài tình thì việc
vận dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày nhà thơ cũng có những sáng tạo độc đáo. Bắt nguồn
từ vốn sống dân gian trực tiếp và kế thừa tinh hoa văn hố của dân tộc, Nguyễn Du có ý
thức sử dụng giá trị biểu đạt của vốn từ địa phương Nghệ Tĩnh. Thống kê số liệu cho thấy

ông đã sử dụng 197 lượt từ địa phương xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm.
Như vậy, vốn từ địa phương là một trong những phương tiện nghệ thuật giúp Nguyễn Du
thể hiện tối ưu nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều bên cạnh Thành ngữ, Tục ngữ,
điển cố, từ Hán Việt…Điều đó cũng là một cứ liệu chứng tỏ ơng là bậc thầy về ngôn ngữ
đời thường và đầy sức sáng tạo trong việc gắn kết một cách nhuần nhuyễn chữ Nôm với
chữ Hán. Tài năng của ông đã đưa tiếng nói bình dân lên tầm bác học, rất tinh nhạy trong
22


×