TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN
--------
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LUYẾN
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Chuyên ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn:
HỒ THỊ XUÂN QUỲNH
Cần Thơ, 5 - 2012
Đề tài: Giọng điệu thơ Nguyễn Bính
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số giới thuyết chung liên quan đến đề tài
1.1 Tác gia Nguyễn Bính
1.1.1 Cuộc đời
1.1.2 Quan niệm về thơ của Nguyễn Bính
1.1.3 Sự nghiệp sáng tác
1.1.4 Đặc điểm thơ Nguyễn Bính
1.2 Lí luận chung về giọng điệu
1.2.1 Khái niệm giọng điệu
1.2.2 Giọng điệu – một biểu hiện nghệ thuật
1.2.3 Vai trò của giọng điệu
1.2.3.1 Giọng điệu – một trong những yếu tố tạo nên phong cách tác giả
1.2.3.2 Giọng điệu góp phần tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm
1.2.3.3 Giọng điệu góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm
1.3 Thơ Mới 1932 – 1945 góp phần tạo nên sự phong phú cho giọng điệu thơ Việt
Nam hiện đại
Chương 2: Thơ Nguyễn Bính giàu giọng điệu
2.1 Những giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính
2.1.1 Giọng thơ chân chất, “quê mùa”
2.1.2 Giọng thơ bâng khuâng, lưu luyến
2.1.3 Giọng thơ lấp lửng, ngập ngừng
2.1.4 Giọng thơ buồn bã, lỡ làng
2.1.5 Giọng thơ chua cay, khinh bạc
2.2 Giọng điệu chủ đạo trong thơ Nguyễn Bính
2.2.1 Giọng trữ tình đằm thắm, tha thiết, ngọt ngào.
2.2.2 Cơ sở của giọng trữ tình đằm thắm, tha thiết, ngọt ngào.
Chương 3: Những yếu tố hình thức nghệ thuật tạo nên giọng điệu thơ Nguyễn
Bính
3.1 Thể thơ
3.2 Ngôn ngữ thơ
3.3 Nhịp thơ
3.4 Hình ảnh thơ
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong dàn hợp xướng thơ Mới, Nguyễn Bính hiện lên như một hiện tượng văn
học đặc biệt. Giữa bao nhiêu giọng, bao nhiêu thanh của dàn hợp tấu ấy, Nguyễn Bính
đã tạo cho mình một “cõi riêng” hẳn hoi. Tuy sáng tác trong phong trào thơ Mới,
nhưng đa số những bài thơ của ông lại đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn
hình thức nghệ thuật. Trong bài Khối tình lỡ của người chân quê, Nguyễn Đăng Điệp
cho rằng : “Đứng từ phương diện cấu trúc mà nói, thơ Mới làm thành ba ngôi: Xuân
Diệu “mới nhất”, Hàn Mặc Tử “lạ nhất”, và Nguyễn Bính “quê nhất”. [16;355]
Sự thực thì Nguyễn Bính đã tạo được cho mình một hồn thơ ấn tượng – vừa có
nét mới mẻ, lại vừa truyền thống. Nói điều này để thấy rằng chính sự kết hợp hài hòa
đó trong thơ Nguyễn Bính đã thu hút biết bao thế hệ bạn đọc đến với thơ ông. Không
những người đương thời, mà cho đến ngày hôm nay thơ Nguyễn Bính vẫn hấp dẫn
đông đảo bạn đọc và tạo được niềm say mê đối với nhiều nhà nghiên cứu.
Từ khi Nguyễn Bính bước chân vào thi đàn những năm đầu thế kỉ trước, ông đã
trở thành mối quan tâm lớn của nhiều nhà nghiên cứu. Các nhà phê bình đã bình luận,
nghiên cứu, khám phá thơ ông ở hầu hết các khía cạnh cả về nội dung lẫn hình thức
nghệ thuật.
Trong số những vấn đề về nghệ thuật, nhiều chuyên gia nghiên cứu đã quan tâm
đến vấn đề giọng điệu thơ Nguyễn Bính – Đây là vấn đề thực sự hấp dẫn và thú vị, tuy
nhiên vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được tập trung tìm hiểu một cách toàn
diện, sâu sắc. Nhiều bài nghiên cứu vẫn chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý hoặc phân tích
một giọng điệu riêng. Chính vì vậy, “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính” vẫn là một đề tài
còn khá mới mẻ, cần nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Bởi lẽ giọng điệu “là
thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của người nghệ
sĩ” [8;11]. Thiết nghĩ, khám phá thơ Nguyễn Bính thì không thể bỏ qua yếu tố quan
trọng này.
Là một sinh viên ngành Văn, yêu thích thơ Nguyễn Bính, người viết chọn
“Giọng điệu thơ Nguyễn Bính” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Và trong
một chừng mực nhất định, với luận văn này người viết mong muốn khám phá thêm
một khía cạnh rất nhỏ trong việc tìm hiểu thơ Nguyễn Bính, cũng như hiểu thêm được
đôi nét về phong cách thơ Nguyễn Bính.
Đó là tất cả những lí do đã thôi thúc người viết đến với đề tài “Giọng điệu thơ
Nguyễn Bính”
2. Lịch sử vấn đề:
Vào những năm 30 của thế kỉ trước, ngay sau khi “trình làng” bài thơ Cô hái
mơ, Nguyễn Bính đã sớm tạo được mối quan tâm đối với đông đảo bạn đọc và nhiều
nhà lí luận, phê bình. Tiếp sau đó là những vần thơ hết sức ấn tượng Lỡ bước sang
ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941)... Cũng từ đó, xuất hiện rất
nhiều công trình nghiên cứu đời và thơ Nguyễn Bính với quy mô và hướng tiếp cận
khác nhau.
Trước cách mạng tháng Tám (1930 -1945), có khá nhiều công trình nghiên
cứu về thơ Nguyễn Bính, trong số đó phải kể đến Một lần đi (Tô Hoài), Bóng giai
nhân (Yến Lan), Hà Bắc hải đăng (Vũ Hoàng Chương)…, và thẩm định về thơ
Nguyễn Bính đáng kể hơn cả phải nhắc đến Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài
Chân. Công trình này đã góp phần rất lớn trong việc định hình và gợi ra đúng chất
giọng “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính, đồng thời Hoài Thanh cũng cắt nghĩa về sự
quan tâm chưa thích đáng của giới nghiên cứu thơ Nguyễn Bính: “Cái đẹp kín đáo của
những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc nhưng
khó lọt vào con mắt của các nhà thông thái thời nay. Tình cờ đọc thơ Nguyễn Bính, họ
sẽ bảo: “Thơ như thế này thì có gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta
không thể hiểu bằng lí trí, một điều đáng quý vô ngần “hồn xưa đất nước” [27; 371,
372]
Trong kháng chiến chống Pháp (giai đoạn từ 1946 – 1954), do sự chi phối
của hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nên vấn đề nghiên cứu thơ Nguyễn Bính có
phần bị hạn chế. Hầu như giai đoạn này những nhà xuất bản chỉ cho tái bản những tập
thơ của thi nhân. Cụ thể, năm 1951, nhà xuất bản Hương Sơn liên tiếp cho tái bản hai
tập thơ Hương cố nhân và Mây tần của Nguyễn Bính.
Đến giai đoạn từ 1955 – 1975, do điều kiện lịch sử xã hội – chiến tranh liên
tiếp, nên việc giới thiệu và nghiên cứu thơ Mới, trong đó có thơ Nguyễn Bính vẫn
chưa được chú trọng đầu tư ở miền Bắc. Tuy nhiên ở miền Nam, thơ Nguyễn Bính lại
được tái bản và được giới thiệu trong giáo trình Thế hệ 1932 của Đại học Văn khoa Sài
Gòn, đồng thời cũng được đưa vào hàng những đại diện tiêu biểu trong Việt Nam thi
nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long. Thời kì này cũng có nhiều công trình khác chú
ý đưa ra nhiều ý kiến nhận xét, phê bình, nhìn nhận tài thơ Nguyễn Bính như: Việt
Nam văn học sử - giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ, do Quốc học Tùng thư xuất
bản năm 1961, bài Cuộc đời Nguyễn Bính đi trong khói lửa chiến chinh của Sơn Nam
in trong Tập san Văn, số 60, ra ngày 14-6-1966, cũng đưa ra sự đánh giá thú vị:
“Nguyễn Bính đã thành công lớn trong giai đoạn mà ít ai thành công”. Bên cạnh đó
Vũ Bằng cũng ra mắt bạn đọc xa gần bài Nguyễn Bính, một thi sĩ suốt đời mắc bệnh
tương tư.
Từ sau 1975, nhất là từ khi đất nước đổi mới, cuộc đời và sự nghiệp thơ văn
của Nguyễn Bính đã chứng tỏ sức hút đối với đông đảo bạn đọc và các chuyên gia
nghiên cứu. Thơ Nguyễn Bính thực sự hồi sinh sau 1975.
Trong thời gian này hàng loạt tập thơ Nguyễn Bính được in ấn và ra mắt công
chúng như: Bức thư nhà, Đêm sao sáng, Tuyển thơ Nguyễn Bính, Thơ tình Nguyễn
Bính, Cây đàn tỳ bà, Chân quê,… Nguyễn Bính cũng đã giành được một vị trí hết sức
xứng đáng trong Từ điển văn học (NXB Khoa học xã hội, 1984) và được đánh giá cao:
“Trong khi phần lớn các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, thì
Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc…thơ ông được nhiều người yêu thích”.
[11; 49].
Bên cạnh đó, đời thơ Nguyễn Bính cũng được nhắc nhiều trong các chuyên luận
văn chương: Phong trào thơ Mới của Phan Cự Đệ (NXB Khoa học xã hội, 1966), Bốn
mươi năm văn học (NXB Tác phẩm mới, 1986), Thơ lãng mạn Việt Nam, các tác giả
tiêu biểu của Lê Bảo (NXB Hội Nhà văn 1992), Nguyễn Bính – thi sĩ của thương yêu
do Hoài Việt sưu tầm và biên soạn (NXB Hội Nhà văn, 1992), Thơ Mới – những bước
thăng trầm của Lê Đình Kỵ (NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1993), Nguyễn
Bính, đường về chân quê của Đỗ Lai Thúy, Giọng điệu trong thơ trữ tình của Nguyễn
Đăng Điệp (NXB Văn học, 2002), Nguyễn Bính, thơ và đời do Hoàng Xuân tuyển
chọn (NXB Văn học, 2005), Nguyễn Bính – Hành trình sáng tạo thi ca của Đoàn Đức
Phương (NXB Giáo dục, 2006), Nguyễn Bính, về tác gia và tác phẩm do Hà Minh Đức
– Đoàn Đức Phương tuyển chọn và giới thiệu (NXB Giáo dục, 2007)….Những công
trình này đã tạo sự thu hút lớn đối với nhiều người yêu thơ Nguyễn Bính. Đó là chưa
kể đến hàng loạt bài viết của Lại Nguyên Ân, Đoàn Hương, Phương Lan…Thơ
Nguyễn Bính cho đến nay đã trở thành đề tài nghiên cứu cho các khóa luận, luận văn,
luận án trong cả nước.
Rõ ràng, thơ Nguyễn Bính đã chiếm được một vị trí rất quan trọng trong thi đàn
dân tộc, tài thơ của thi nhân được giới phê bình trân trọng, được khám phá, tìm hiểu ở
nhiều hướng, đôi khi có những khác biệt, song, dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính cũng
được xem là nhà thơ của “chân quê”, “hồn quê”, “tình quê”.
Riêng với giọng điệu thơ Nguyễn Bính, tuy chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt thành một vấn đề chuyên sâu, cụ thể và hệ thống, nhưng trong rất nhiều
bài bình luận, trong nhiều tạp chí khoa học, trong các công trình thì vấn đề giọng điệu
thơ Nguyễn Bính ít nhiều đã được đề cập.
Nói riêng về giọng chân chất, “quê mùa” thì phải kể đến Thi nhân Việt Nam..
Khi nhận xét về yếu tố “chân quê” trong sáng tác của thi nhân, Hoài Thanh viết:
“…Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói
Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng chúng ta. Ta bỗng
thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta, và những tính tình đơn giản
của dân quê là những tính tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi
chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm”. [27; 371] Rõ
ràng, Hoài Thanh đã sớm nhận ra giọng điệu chân quê, mộc mạc trong thơ Nguyễn
Bính.
Năm 1942, trên tạp chí Tri Tân (số 54) Phạm Mạnh Phan cũng đã bước đầu
nhắc đến giọng thơ đằm thắm ngọt ngào của tiếng thơ Nguyễn Bính. Trong bài Đọc
“Hương cố nhân” của Nguyễn Bính, ông có đưa ra nhận xét: Nguyễn Bính có “tâm
hồn thi sĩ, biết cảm những cái nên thơ, biết du dương lòng mình trong những phút đau
thương bằng những vần điệu êm đềm, nhè nhẹ” [14;409]. Có thể nói tác giả bài viết
này đã bước đầu phát hiện ra chất giọng đằm thắm, sâu lắng trong thơ Nguyễn Bính.
Năm 1983, trong bài viết chuẩn bị Kỷ niệm 70 năm ngày sinh Nguyễn Bính
(1988), Đỗ Đình Thọ khi đọc thơ Nguyễn Bính đã góp lời nhận xét về giọng điệu thơ
Nguyễn Bính: “Đọc lên ta thấy chất thơ của Nguyễn Bính có cái đậm đà, tinh tế, ý nhị
của ca dao,…Thơ Nguyễn Bính mượt mà, dung dị và ít có sự ồn ào” [10;296,299]
Đến năm 1990, trong bài Nguyễn Bính – thi sĩ của thương yêu (NXB Hội nhà
văn), Hoài Việt viết: “Khó có thể tìm thấy trong thơ anh cái giọng hằn học hay rên
rẩm, bi thiết, tuy có phẫn nộ, đắng cay, chua chát. Cơ bản vẫn là của thương yêu
….Thơ Nguyễn Bính đẹp về lời, dạt dào về âm thanh nhưng trước hết và sau cùng vẫn
là tình nghĩa ” [30;198,199]. Hoài Việt đã nhận thấy bên cạnh giọng tha thiết yêu
thương, tiếng thơ Nguyễn Bính vẫn có những dư âm của giọng đắng cay, chua chát.
Năm 1991 trong bài viết về Nguyễn Bính, Lê Bảo cũng đã có lời nhận định rất
hay về giọng thơ chân quê của Nguyễn Bính, ông cho rằng: giọng điệu thơ Nguyễn
Bính “là một chân giọng riêng: dung dị, hồn nhiên, là cái đạm sau khi đã nồng, sự
trong trẻo bản năng rất xa lạ với những cầu kì, đẽo gọt. Chính là chất giọng này
chuyển tải những đam mê, khẳng định một cốt cách…một giọng đơn ca không dễ có”
[1;114]
Năm 1993, trong bài viết Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê (trích “Nhìn lại một
cuộc cách mạng trong thi ca”, NXB Giáo dục), Đoàn Thị Đặng Hương viết: “cái
giọng thơ riêng của ông rõ ràng không thể trộn lẫn vào các nhà thơ khác: cái chất, cái
hồn quê Việt Nam nguyên vẹn, đậm đà như trong các bài ca dân gian” [30;36]
Cả Đoàn Hương và Lê Bảo đều khẳng định giọng thơ Nguyễn Bính là một
“chân giọng riêng” không dễ có và cũng không thể lẫn vào đâu được. Làm nên cái
riêng ấy là bởi thơ ông có một chất giọng chân quê hồn nhiên dung dị, và cái ngọt
ngào, đậm đà bản sắc dân gian.
Giọng thơ chân chất quê mùa của Nguyễn Bính thật sự đi vào lòng đông đảo
quần chúng và đã chiếm được cảm tình sâu sắc, mà nói như Văn Tâm “Quảng đại
quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ
gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ ngữ điệu
(giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca...dịu ngọt [18;232]. Văn Tâm không chỉ thấy
được cái giọng quê mùa hồn hậu trong thơ Nguyễn Bính mà ông còn nhận ra ở tiếng
thơ này một chất giọng mượt mà, ngọt ngào thân quen.
Và trong số nhiều bài nghiên cứu bàn về giọng điệu thơ Nguyễn Bính, có lẽ
công trình nghiên cứu “Giọng điệu trong thơ trữ tình” (NXB Văn học, HN, 2002) của
Nguyễn Đăng Điệp là ấn tượng hơn cả. Trong công trình này, Nguyễn Đăng Điệp dành
cho giọng điệu thơ Nguyễn Bính một vị trí hết sức xứng đáng, ông đánh giá Nguyễn
Bính rất cao, và xem nhà thơ là một trong “tứ bất tử” (cùng với Xuân Diệu, Huy Cận,
Hàn Mặc Tử), làm nên những giọng điệu riêng biệt và nổi bật nhất trong phong trào
thơ Mới. Ông nhận ra trong thơ Nguyễn Bính giọng điệu nổi trội hơn cả chính là giọng
thơ “quê mùa”, “có thể nói, giọng điệu quê mùa đã giúp Nguyễn Bính thể hiện được
chiều sâu của hồn quê…Đi đến tận cùng tình yêu hồn quê, chạm vào kí ức văn hóa dân
tộc, Nguyễn Bính đã tạo nên giọng quê mùa độc đáo. Cái chất giọng ấy không ồn ào
mà lặng lẽ thấm vào tâm linh người đọc”[8;334]
Trong những bài nghiên cứu Những mặt tích cực và tiến bộ của phong trào
“thơ Mới” lãng mạn, (2002) Phan Cự Đệ cũng nhận thấy “Nguyễn Bính mang đến cho
thơ Mới cái hương vị đậm đà của làng quê và ít nhiều không khí quen thuộc trong ca
dao” [6;134]
Hầu hết các ý kiến, nhận xét đã góp phần phát hiện một điều hết sức quan trọng
khi bàn đến giọng điệu thơ Nguyễn Bính: Giữa phong trào thơ Mới rộn ràng, Nguyễn
Bính vẫn giữ riêng cho mình một lối thơ. Thơ Nguyễn Bính không quá Tây, không quá
mới lạ, cũng không phải “đào nguyên lạc lối”, mà lại đậm đà phong vị quê hương.
Chất giọng “quê mùa” hồn hậu, mộc mạc là tất cả cái đặc sắc của thơ Nguyễn Bính..
Và nổi bật lên giữa cái chân quê dung dị ấy là chất giọng ngọt ngào, sâu lắng mà hầu
hết các nhà nghiên cứu đều đã phát hiện và nói đến, khiến ta có cảm tưởng mỗi bài
thơ, lời thơ của Nguyễn Bính như một khúc hát tình quê đằm thắm, thiết tha.
Tựu trung lại, các nhà nghiên cứu đều đã “bắt trúng” những sắc điệu thơ
Nguyễn Bính: chân chất, mộc mạc và đằm thắm, tha thiết . Tuy vậy hầu như những
nhận xét của họ về giọng thơ chân quê và giọng trữ tình ngọt ngào chưa có sự tách
bạch, vẫn thấy nhập nhằng giữa hai sắc thái giọng điệu này. Bên cạnh đó, chất giọng
lưu luyến, bâng khuâng hay lấp lửng, ngập ngừng vẫn chưa được phát hiện và nói đến.
Tuy nhiên không chỉ có giọng “quê mùa”, giọng ngọt ngào, thơ Nguyễn Bính
còn man mác bởi giọng thơ buồn bã lỡ làng. Lịch sử nghiên cứu thơ Nguyễn Bính đã
minh chứng điều này:
Năm 1968, Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng), Nguyễn Tấn
Long đã thấy được “Nguyễn Bính đã đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời
ngang trái, dở dang, phân cách, bẽ bàng. Có thể nói, với ngòi bút thi nhân, Nguyễn
Bính đã tả chân được một nỗi u buồn trầm lặng, giải tỏa được tiếng kêu bi thương của
những tâm hồn mộc mạc”. [tr.315]
Năm 1991, khi bình một bài thơ của Nguyễn Bính – Xa cách, Chu Văn Sơn đã
thấy được “Hồn thơ Nguyễn Bính là sự đồng thể theo một kiểu nào đó của hồn quê
(yếu tố dân gian) với khối tình lỡ (yếu tố thơ mới) đó. Sự hòa quyện này làm cho nỗi
tủi hờn phổ biến trong các câu ca dao than thân thuở trước nhập vào nỗi tủi sầu hiện
đại, nó cứ nghẹn ngào, da diết suốt mọi tiếng thơ của nhà thơ mới chân quê này”
[10;490]
Trong Khối tình lỡ của người chân quê in trên Tạp chí Văn học số 5, 1994,
Nguyễn Đăng Điệp cũng chỉ ra trong thơ Nguyễn Bính còn có một “giọng thơ buồn
chán, lỡ làng”. Khi Nguyễn Bính “Đem rắc cái khối tình lỡ kia vào sự trinh bạch,
nguyên sơ của những mối tình quê, Nguyễn Bính đã làm bật lên những âm điệu nghẹn
ngào của hồn quê những năm 30” [16;357].
Có thể thấy, chất giọng buồn bã, lỡ làng với những âm điệu nghẹn ngào đã
được thẩm định một cách tinh tế. Mỗi nhà nghiên cứu như lần lượt phát hiện và định
hình chất giọng ấy ở một góc độ, một sắc thái, một cung bậc:
Trong Nguyễn Bính – thi sĩ của đồng quê (NXB Giáo dục, H. 1998), Hà Minh
Đức viết “ở Nguyễn Bính dường như có nhiều giọng điệu thi ca, có niềm vui với khung
cảnh tươi đẹp của làng quê và cũng có nhiều nỗi buồn, phần ở cuộc đời, phần là của
riêng mình. Nhưng có lẽ giai điệu buồn ở Nguyễn Bính gây ấn tượng hơn cả. Những
cô gái lỡ làng duyên phận, những bi kịch trong đời sống gia đình và tình yêu đôi lứa
được kể lại và biểu hiện với một giọng điệu thi ca gợi cảm và ai oán”... “Tác giả nói
đến những đau khổ trong tâm trạng nhân vật nhưng nhiều khi đẩy đến mức cực đoan.
Nguyễn Bính đã khéo léo tạo tình huống bi kịch, giọng điệu thơ ca của ông trong
nhiều bài là giọng than vãn.”[18;41]
Thanh Việt trong “Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính” (Trích Thơ Nguyễn Bính –
Những lời bình, 1999) đã viết: “Thơ tình Nguyễn Bính – chính là những tình duyên lỡ
dở của bản thân ông rất chân thật và xúc động. Có lẽ vì lỡ dở nên bao trùm lên hầu
hết là giọng điệu buồn…Thơ Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của một trái
tim đang thổn thức yêu đương.” [30;162].
Đặt biệt với “Nguyễn Bính, hành trình sáng tạo thi ca” (2005), Đoàn Đức
Phương đã dành hơn hai trang sách để bàn về giọng điệu thơ Nguyễn Bính, ông nhận
thấy “Bất cứ nói đến điều gì, thơ Nguyễn Bính cũng phảng phất giọng điệu buồn, buồn
vì tình yêu, buồn vì tha hương, buồn vì cuộc đời dâu bể…”, ngoài ra còn có “những
câu thơ mang giọng điệu than vãn ai oán, não nùng….”, và “đáng phải nhấn mạnh là
giọng điệu ca dao dân ca trong thơ Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính đến với người mỗi
người Việt Nam như một người bạn tri âm trước hết có lẽ là do kiểu tư duy và giọng
điệu dân gian”[25;102-104]
Những nhận định trên đây cho thấy các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được nhiều sắc
thái trong giọng điệu của thơ Nguyễn Bính, và hầu hết họ đều gặp nhau ở những phát
hiện về các giọng điệu cơ bản: đó là những giọng thơ rất riêng thuộc về Nguyễn Bính
– Có chất giọng mượt mà, ngọt ngào, đằm thắm; có giọng chất phác “quê mùa”, có
giọng buồn bã, lỡ làng đến mức bi phẫn chua cay.
Nhìn suốt những chặng đường thơ Nguyễn Bính có thể thấy, sự uyển chuyển
linh hoạt của các giọng điệu trong thơ ông. Bao trùm toàn bộ tiếng thơ ấy là giọng điệu
trữ tình, đằm thắm, dẫu có “quê mùa” hay “buồn bã lỡ làng” thì giọng thơ ấy vẫn
thuần hậu, vẫn dạt dào, tha thiết. Riêng với giọng điệu buồn bã lỡ làng, nếu “Dõi theo
hành trình thơ Nguyễn Bính, ta nhận thấy hai chặng rất rõ: trước 1940, thơ Nguyễn
Bính buồn hiu hắt, trong sáng; sau 1940, tiếng thơ ông nghiêng về não nề, bi phẫn”
[8;334] Và có lẽ, buồn ảm đạm nhất vẫn phải kể đến giọng thơ của Nguyễn Bính giai
đoạn trước cách mạng (1932 -1945). Giọng điệu buồn này đã hòa vào cái buồn chung
của những nhà thơ Mới cùng thời làm thành nỗi buồn thời đại.
Tóm lại các bài viết của những tác giả kể trên đã có những phát hiện, nhận định
mới mẻ về các khía cạnh thuộc giọng điệu thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên, hầu hết các
nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến giọng điệu thơ Nguyễn Bính như là để minh họa, dẫn
chứng cho những phát hiện về các vấn đề lớn như thế giới nghệ thuật thơ, phong cách
thơ, bản sắc thơ…chưa có công trình nào dành riêng cho việc nghiên cứu giọng điệu
thơ Nguyễn Bính một cách cụ thể, có hệ thống.
Trên cơ sở đó, lựa chọn đề tài “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính”, người viết sẽ cố
gắng đi sâu tìm hiểu giọng điệu thơ Nguyễn Bính một cách có hệ thống và làm bật nổi
giọng điệu chủ đạo và các giọng điệu khác trong thơ Nguyễn Bính.
3. Mục đích, yêu cầu:
Tìm hiểu “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính”, đòi hỏi người viết:
- Nhận diện được các giọng điệu trong thơ Nguyễn Bính.
- Chỉ ra được đâu là giọng điệu chủ đạo trong di sản thơ Nguyễn Bính.
- Đi sâu phân tích để làm rõ các sắc thái giọng điệu.
- Phân tích và làm rõ các yếu tố hình thức nghệ thuật góp phần tạo nên giọng
điệu thơ Nguyễn Bính.
Việc thực hiện những yêu cầu nêu trên giúp người viết hiểu nhiều về phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Bính, đi sâu vào các tác phẩm cụ thể thấy được những
biểu hiện cụ thể của giọng điệu và vai trò của giọng điệu đối với thơ Nguyễn Bính.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu thơ Nguyễn Bính từ lúc nhà thơ bước chân vào thi đàn
cho đến những sáng tác cuối đời nhà thơ, tuy nhiên do thời gian và điều kiện tư liệu có
hạn nên người viết chủ yếu tìm hiểu thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám,
giai đoạn sáng tác sung sức nhất, dồi dào nhất của đời thơ Nguyễn Bính.
Riêng phần thơ Nguyễn Bính sáng tác sau cách mạng tháng Tám, người viết chỉ
khảo sát những bài thơ được chọn lọc đưa vào tuyển tập Nguyễn Bính.
Từ đó thấy được sự giống và khác nhau trong giọng điệu thơ Nguyễn Bính ở
từng thời kì, cũng như những đóng góp của thi sĩ vào vào phong trào thơ Mới nói riêng
và thơ ca dân tộc nói chung.
Ngoài ra ở một số phần, người viết có khảo sát thêm những tác phẩm của các
tác giả cùng thời như: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá
Lân…cùng một vài tác giả trước và sau Nguyễn Bính, để so sánh, đối chiếu và có cái
nhìn tổng quát hơn, nhằm làm rõ vấn đề muốn hướng đến.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu vấn đề “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính”, người viết thực hiện các
phương pháp:
- Phương pháp lịch sử: nghiên cứu thơ Nguyễn Bính trong mối quan hệ với xã
hội, với cuộc đời nhà thơ, và với hoàn cảnh sáng tác để có cái nhìn toàn diện khi lí giải
giọng điệu thơ Nguyễn Bính.
- Phương pháp so sánh: trong quá trình phân tích các giọng điệu thơ Nguyễn
Bính, người viết vận dụng phương pháp so sánh thơ Nguyễn Bính với một số tác phẩm
của các tác giả khác để làm nổi bật giọng điệu thơ Nguyễn Bính, đồng thời thấy được
những đóng góp của Nguyễn Bính cho nền văn học nước nhà.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: người viết vận dụng phương pháp này để
phân tích các đặc điểm, sắc thái giọng điệu, những yếu tố hình thức góp phần làm nên
giọng điệu thơ Nguyễn Bính, trên cơ sở đó tổng hợp để đưa ra những nhận định.
Kết hợp với việc vận dụng các thao tác bình luận, phân tích,…người viết rút ra
những nhận xét chung nhất để làm sáng rõ vấn đề “Giọng điệu thơ Nguyễn Bính”.
Chương 1: Một số giới thuyết chung liên quan đến đề tài
1.1 Tác gia Nguyễn Bính
1.1.1 Cuộc đời:
Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, sinh vào cuối xuân đầu hạ
năm 1918, tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Cha là Nguyễn Đạo
Bình (ông cả Biền), làm nghề dạy học, mẹ là Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá
giả. Thuở nhỏ, Nguyễn Bính đã được học với cha và cậu ruột là Bùi Trình Khiêm. Nhà
thơ may mắn được tắm mình trong chiếc nôi truyền thống:
“Nhà ta coi chữ hơn vàng
Coi tài hơn cả giàu sang ở đời”
Nguyễn Bính sớm mồ côi mẹ, từ lúc mới sinh được vài ba tháng, ông đã từng
viết: “Còn tôi sống sót là may - Mẹ hiền mất sớm trời đày làm thơ”. Dường như chính
việc thiếu vắng tình mẫu tử thiêng liêng đã góp phần không nhỏ làm nên những vần
thơ trữ tình tha thiết về người mẹ:
“Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều
Mẹ tôi lo liệu đã trăm chiều
…
Xong ba ngày Tết mẹ tôi lại
Đầu tắt mặt tối nuôi chồng con.”
(Tết của mẹ tôi)
Và hình ảnh người mẹ vẫn cứ trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của ông như:
Mưa xuân, Lòng mẹ, Lỡ bước sang Ngang,…
Tuổi thơ Nguyễn Bính gắn với quê mẹ, thôn Vân - một vùng đồng chiêm trũng
với đủ mọi thứ, mọi thức như chính Nguyễn Bính đã từng viết:
“Thôn Vân có biếc có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lăm lắm, có nhiều chim bay
Quả lành trĩu nặng từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen
Hiu hiu gió quạt giăng đèn…
Quê mẹ yên ả, thanh bình chính là chiếc nôi êm đềm nuôi dưỡng tâm hồn thơ
Nguyễn Bính. Ấn tượng về cuộc sống sinh hoạt làng quê về sau đã được Nguyễn Bính
đưa vào những trang thơ thật bình dị, thân thuộc.
Truyền thống gia đình và truyền thống quê hương đã góp phần không nhỏ hun
đúc nên hồn thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính có năng khiếu thơ từ rất sớm, năm 13 tuổi đã được giải nhất trong
một cuộc thi thơ đầu xuân ở hội làng.
Vì gia cảnh túng thiếu nên từ khi mới hơn 10 tuổi, Nguyễn Bính đã rời quê đi
kiếm sống. Trước tiên là theo một người bạn lên Thái Nguyên dạy học, trong thời kì
kinh tế khủng hoảng 1932 – 1933. Sau đó, Nguyễn Bính rời Đồng Hỷ (Thái Nguyên)
trở về Hà Nội sống với anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác (tức Trúc Đường). Có lúc
Nguyễn Bính đã đi bán báo ở phố Hàng Bồ.
Năm 1937, bài thơ Cô hái mơ được chú ý cũng là thời điểm Nguyễn Trọng
Bính kí tên là Nguyễn Bính và bắt đầu theo đuổi nghiệp văn chương.
Năm 1943, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài, Vũ Trọng Can vào Nam Bộ.
Đầu năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, nhà
thơ hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng yếu. Theo
Chu Văn, trên tập san Văn số 60 (14/6/1964), thì chính Nguyễn Bính đã “khởi xướng
việc thành lập đoàn Văn hóa cứu quốc tỉnh Rạch Giá” và sau đó trở thành người phụ
trách Hội này – tức Hội văn nghệ cứu quốc tỉnh Rạch Giá.
Nguyễn Bính giữ chức Phó chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá, sau
làm ở ban văn nghệ thuộc phòng tuyên huấn Quân khu Tám.
Vào khoảng 1952, Nguyễn Bính trở về rừng U Minh, cưới vợ là Hồng Châu và
mở tiệm làm đại lí sách báo. Ông có hai người con gái là Hồng Cầu và Mai Hương.
Tháng 11 năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, để lại vợ con trong niềm đau
chia cắt.
Năm 1956, Nguyễn Bính làm chủ bút tuần báo Trăm hoa.
Đầu năm 1964, Nguyễn Bính về công tác ở Ty văn hóa Hà Nam.
Trong dịp đến thăm nhà một người bạn ở xã Hòa Lí, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà
Nam, Nguyễn Bính mất đột ngột vào một ngày cuối năm Ất Tỵ, tức ngày 20/01/1966,
khi chưa kịp bước sang tuổi 49.
Có thể nói sau Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính là người thực hiện nhiều chuyến
“giang hồ vặt” ấn tượng hơn cả. Cuộc đời nhà thơ là sự song hành giữa cuộc hành
trình cách mạng và hành trình lao động nghệ thuật không ngừng nghỉ. Riêng với hành
trình lao động nghệ thuật, trong suốt 30 năm, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại
như thơ, kịch, truyện thơ... Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho
sự nghiệp thi ca. Ông được đông đảo độc giả công nhận là một trong các nhà thơ xuất
sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại.
1.1.2 Quan niệm về thơ:
Cuộc đời Nguyễn Bính đã khép lại trên thi đàn nhưng cho đến mãi hôm nay,
tình của ông, thơ của ông vẫn còn mãi và sáng ngời những “chân giá trị”. Hơn 30 năm
cầm bút, một khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng không quá ngắn, đủ để
Nguyễn Bính làm say lòng người và nêu lên những quan niệm nghệ thuật đáng trân
trọng.
Nguyễn Bính từng nói: “tôi chủ trương thơ Việt viết cho người Việt, trước hết
phải mang sắc thái và phong cách Việt, do đó, ngôn từ dân tộc là một điểm rất quan
trọng. Điều cốt lõi là phải giản dị, giản dị không đồng nghĩa với dễ dãi, tầm thường”
[1;10], Nguyễn Bính ý thức về tinh thần dân tộc rõ ràng trong thơ. Với Nguyễn Bính,
thơ phải thể hiện được tinh thần dân tộc, không cần phải cầu kì, đẽo gọt, cốt lõi chỉ là
giản dị, mà giản dị ở đây không đồng nghĩa với tầm thường. Trong hầu hết các sáng
tác của mình, Nguyễn Bính đã thể hiện được điều ông nói, thơ ông - mỗi bài, mỗi câu
đều đượm tinh thần dân tộc cả về nội dung lẫn thi pháp. Trong khi phần lớn các thi sĩ
thơ Mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây thì Nguyễn Bính vẫn thiết tha với
điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng, ý nhị mà mộc mạc của ca dao, nên thơ ông
được nhiều người yêu thích”. [11;49]
Nguyễn Bính thấy được rằng: “thơ là tiếng lòng phát đi từ trái tim mình, nhất
thiết phải tới trái tim người khác. Nếu trái tim người khác hờ hững, thì dù cho là
“tiếng lòng” của mình chăng nữa cũng không phải là thơ” [1;129]. Sự thật thì đấy
cũng là điều mà Tố Hữu về sau cũng nhận thấy, thơ chính là “điệu tâm hồn đi tìm
những tâm hồn đồng điệu”. Nguyễn Bính đã đúng khi chọn cho mình một hướng đi,
ông đã đi trên con đường lớn của thơ, từ trái tim đến với trái tim, chọn đúng và làm
được điều đó, nên thơ ông đã tìm được những tiếng yêu mến đồng vọng của bao thế hệ
bạn đọc.
Với Nguyễn Bính, ngoài sự tài năng của nhà thơ, sự đồng điệu của người tiếp
nhận thơ với trái tim thi sĩ, yêu cầu cần thiết phải nhắc đến là yêu cầu về thơ. Nguyễn
Bính khẳng định “thơ phải mang tính chân thật, càng chân thật càng tốt” [1;10]. Nhà
thơ cho rằng chân thật là yêu cầu đầu tiên đối với thơ. Nguyễn Bính đã chủ trương thơ
phải chân thật, và chính ông cũng tâm sự “toàn bộ thơ tôi từ trước tới nay và chắc
chắn sau này cũng vậy, sẽ mãi mãi trung thực với lòng mình” [1;10]. Lời tâm sự của
nhà thơ cũng chính là tâm huyết cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của ông.
Theo nhiều tài liệu thì Nguyễn Bính không hề phát biểu công khai hay tham gia
bất cứ một cuộc tranh luận về thơ nào trong sự náo nhiệt một thời, nhưng nhà thơ đã
có một quan niệm rõ ràng nhất quán, đáng để học hỏi.
1.1.3 Sự nghiệp sáng tác:
Tuy bước vào “làng thơ” với vẻ khiêm tốn của một “người nhà quê” nhưng
Nguyễn Bính lại nhanh chóng chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc.
Ngay từ khi mới 13 tuổi, Nguyễn Bính đã bộc lộ tài thơ trong cuộc thi thơ ở hội
làng, tiếp sau đó vào năm 1937, lại “trình làng” thi phẩm Cô hái mơ. Bài thơ ra đời
tạo nên tên tuổi Nguyễn Bính, và cũng từ khi ấy, Nguyễn Bính chọn văn chương là
nghiệp của cuộc đời mình.
Năm 19 tuổi, Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi dự thi và nhận giải khuyến
khích của Tự lực văn đoàn.
Nguyễn Bính trở nên thật sự nổi tiếng khi bài thơ Lỡ bước sang Ngang được
đăng trên Tiểu thuyết thứ Năm. Và tựa đề bài thơ này về sau cũng trở thành tên một
tập thơ của Nguyễn Bính, xuất bản năm 1940. Sau đó thì hàng loạt các bài thơ của
Nguyễn Bính lần lượt xuất hiện trước công chúng.
Năm 1941, Nguyễn Bính cho ra mắt hai tập thơ Một nghìn cửa sổ và ấn tượng
hơn cả là tập Hương cố nhân.
Năm 1942 đánh dấu sự ra đời của ba tập thơ liên tiếp: Người con gái ở lầu hoa,
Mười hai bến nước, Mây tần. Đây cũng là năm có một sự kiện đáng nhớ: Vở kịch thơ
Bóng giai nhân của Nguyễn Bính được dựng và biểu diễn ở nhà hát Lớn Hà Nội, Hải
Phòng, Huế.
Có thể nói, Nguyễn Bính đã bộc lộ được tài năng thơ của mình một cách ấn
tượng và là cây bút sung sức nhất thời bấy giờ - Trong vòng 3 năm, từ 1940 – 1942, đã
có bảy tập thơ ra đời.
Thơ luôn là người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời Nguyễn Bính.
Từ 1943, trong sáng tác của Nguyễn Bính đã có sự xuất hiện của nhiều thể loại:
kịch thơ Nguyễn Trãi, truyện thơ Cô gái Ba Tư, thơ Xuân tha hương, Anh về quê cũ…
Năm 1944, Nguyễn Bính chuyển mạnh sang truyện thơ và văn xuôi, trong đó có
Thạch xương bồ, Không đất cắm dùi, truyện thơ Cây đàn tỳ bà.
Từ những năm 46 , trong hành trình đi cùng Cách mạng, Nguyễn Bính cho ra
mắt Tập thơ yêu nước. Khi về làm việc ở Quân khu Tám, Nguyễn Bính sáng tác Sóng
biển cỏ và bài thơ Tiểu đoàn 307 (sau được Hữu Trí phổ nhạc).
Năm 1953, nhà thơ tiếp tục cho ra đời các tập: Ông lão mài gươm, Trăng kia đã
đứng ngang đầu, Dòng tâm huyết, Mừng Đảng ra đời.
Năm 1955, Nguyễn Bính sáng tác: Đồng Tháp Mười, Trả ta về, Gửi người vợ
miền Nam.
Năm 1958 đánh dấu sự ra đời của hai truyện thơ: Tiếng trống đêm xuân và
Trong bóng cờ bay. Đồng thời Nguyễn Bính cũng giới thiệu đến đông đảo bạn đọc tập
Nước giếng thơi. Tiếp sau đó là Tình nghĩa đôi ta (1960) và Đêm sao sáng (1962) –
hai tập thơ này chủ yếu hướng về khát vọng thống nhất đất nước.
Năm 1965, Nguyễn Bính viết Bài thơ quê hương – chuẩn bị cho một cuộc khởi
sắc “về chân quê”. Sau đó không lâu, nhà thơ viết Kính gửi cụ Nguyễn Du với truyện
Kiều – Đây cũng chính là bài thơ cuối cùng khép lại trang thơ trang đời Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính đã lao động nghệ thuật một cách chăm chỉ đến miệt mài, ông đã
sống hết mình và viết rất đều tay.
Các tác phẩm:
Thơ:
- Lỡ bước sang Ngang (1940)
- Tâm hồn tôi (1940)
- Hương cố nhân (1941)
- Một nghìn cửa sổ (1941)
- Mây tần (1942)
- Người con gái ở lầu hoa (1942)
- Mười hai bến nước (1942)
- Tập thơ yêu nước (1947)
- Sóng biển cỏ (1947)
- Ông lão mài gươm (1947)
- Trăng kia đã đứng ngang đầu (1953)
- Những dòng tâm huyết ((1953)
- Mừng Đảng ra đời (1953)
- Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
- Trả ta về (1955)
- Gửi người vợ miền Nam (1955)
- Nước giếng thơi (1957)
- Tình nghĩa đôi ta (1960)
- Đêm sao sáng (1962)
Truyện thơ:
- Cô gái Ba Tư (1943)
- Cây đàn tỳ bà (1944)
- Trong bóng cờ bay (1957)
- Tiếng trống đêm xuân (1958)
Truyện:
- Ngậm miệng (1940)
- Thạch xương bồ (1944)
- Không đất cắm dùi (1944)
- Sang máu (1947)
Kịch thơ:
- Bóng giai nhân (Viết chung với Yến Lan - 1942)
- Nguyễn Trãi (1943)
Kịch bản chèo:
- Cô Son (1961)
- Người lái đò sông Vị (1964)
Lý luận sáng tác: Cách làm thơ lục bát (1955)
Nhìn tổng quát, các sáng tác của Nguyễn Bính trải ra trên nhiều thể loại nhưng
dễ thấy rằng Nguyễn Bính có duyên với thơ ca hơn cả và đã bộc lộ được tài năng của
mình trên lĩnh vực này. Dù có đến hai chặng đường sáng tác, trước và sau Cách mạng,
nhưng hai chặng đường ấy vẫn thể hiện một tài năng – Nguyễn Bính.
1.1.4 Đặc điểm thơ Nguyễn Bính :
Nguyễn Bính luôn thể hiện sâu sắc nỗi day dứt đến không yên của tâm hồn thiết
tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ mai một. Nhà thơ thấy được thực tại:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
(Chân quê)
Và không ngừng mong mỏi “van em, em hãy giữ nguyên quê mùa” .
Chính vì vậy, thơ Nguyễn Bính luôn thể hiện vẻ đẹp chân quê và phảng phất
hồn xưa đất nước. Trong thời kì 1930 – 1945, hiếm có một nhà thơ nào viết về làng
quê, và càng hiếm người viết hay như Nguyễn Bính. Hình ảnh làng quê, người làng
quê trong thơ Nguyễn Bính mang những nét điển hình, tiêu biểu cho làng quê, người
quê ở mọi thời. Nguyễn Bính viết về những sinh hoạt văn hóa truyền thống với tất cả
sự trân trọng, quý mến.
Không chỉ viết về vẻ đẹp văn hóa làng quê, mà những mối quan hệ truyền
thống trong gia đình, làng xóm, tình yêu…tất cả đều được Nguyễn Bính ghi lại trong
những trang thơ dạt dào tình đời.
Về thể thơ, có thể thấy có rất nhiều thể thơ được Nguyễn Bính sử dụng để sáng
tác, song Nguyễn Bính thành công nhất vẫn ở thể lục bát truyền thống. Mạch thơ luôn
gắn liền với dân tộc, với đất nước, với quê hương. Và cảm hứng về dân tộc lại được
thể hiện bằng hình thức thơ truyền thống – thơ lục bát. Chính vì vậy thơ của Nguyễn
Bính rất gần với ca dao, gần với lời ăn tiếng nói của người làng quê.
Tuy trở về với thi pháp ca dao nhưng thơ Nguyễn Bính có sự sáng tạo, cách tân
về nhiều mặt. Ngôn ngữ thơ vốn là ngôn ngữ đời thường nhưng đi vào thơ Nguyễn
Bính một cách mượt mà, duyên dáng, chân chất mà điêu luyện. Nguyễn Bính luôn có
cách nói ví von, ngẫu hứng, ông thường sử dụng nhiều điệp từ, điệp ngữ, cách ngắt
nhịp linh hoạt, tạo sự luyến láy…. Có thể nói, “ông là người đầu tiên trên thi đàn thơ
hiện đại của thế kỉ này đã dùng hình thức của thơ ca dân gian để chuyển tải nội dung
thẩm mĩ của thơ Mới.” [23;26]
1.2 Lí luận chung về giọng điệu:
1.2.1 Khái niệm giọng điệu:
Từ lâu, khái niệm giọng điệu đã được nhắc đến trong mĩ học phương Đông qua
các khái niệm gần gũi như hơi văn, điệu văn, khí văn…Đây là một yếu tố nghệ thuật
có ý nghĩa quan trọng đối với thi pháp nhưng lại khó xác định về mặt lí thuyết. Trong
giao tiếp, giọng điệu cũng rất quan trọng nhiều khi có vai trò quyết định ý nghĩa câu
nói hơn cả từ ngữ. Với những thái độ khác nhau người ta lại có những giọng điệu khác
nhau mặc dù có cùng một nội dung thông báo. Lấy ví dụ “hai từ “cám ơn”, “xin lỗi”
vốn để diễn tả sự biết ơn, một thái độ lịch sự…nhưng chỉ cần phát ra với một ngữ điệu
nào đó, chẳng hạn, nhấn giọng hay kéo dài ra…là lập tức nó sẽ trở thành mỉa mai hay
khinh bỉ” [21; 52]. Như vậy, đủ có thế thấy, giọng điệu rất quan trọng trong giao tiếp.
Trong văn chương, giọng điệu đặc biệt quan trọng, “phân tích tác phẩm văn
chương mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần rất quan trọng tạo nên bản sắc
độc đáo của tác phẩm” [21; 53]. Chính vì vậy, trong không ít các công trình, nhiều
nhà nghiên cứu văn chương đã đề cập đến vấn đề “giọng điệu”.
Trần Đình Sử trong Thi pháp truyện Kiều ( Chuyên luận, NXB Giáo dục, H,
2001), quan niệm “giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với
đời sống” [tr. 248], và “đối với các sự vật, hiện tượng thấp kém, tầm thường, người ta
có giọng điệu mỉa mai, cười cợt; đối với các sự việc đáng tiếc, mất mát, thương tổn,
người ta có giọng điệu buồn thương ngậm ngùi” [tr.248]. Trần Đình Sử xem “giọng
điệu” là một đơn vị của văn học hiện đại khi ông cho rằng: “đối với văn học hiện đại,
để phù hợp với một sự diễn tả mới mẻ, sống động, đầy ắp, ngôn ngữ phải là tiếng nói.
Từ đó xuất hiện một đơn vị nghệ thuật mới: giọng điệu. Như vậy chất liệu của văn học
không chỉ là từ, là giọng, là lời của văn bản.” [tr. 137]. Và đơn vị nghệ thuật ấy thuộc
về hình thức nghệ thuật. Từ đó, ông đưa ra nhận xét chung nhất: “Thực chất giọng
điệu của nhà thơ không phải giản đơn là chất giọng trời phú tự nhiên của một danh
ca, cũng không phải chỉ là giọng quê hương mang theo từ nơi chôn nhau cắt rốn mà
là…do chính nhà thơ tạo ra mang một tầm khái quát xã hội nhất định.”[tr.229].
Ở một công trình khác, Trần Đình Sử cho rằng: Giọng điệu “là một hiện tượng
nghệ thuật, không nên đồng nhất với giọng điệụ tác giả vốn có ngoài đời”, và “Giọng
điệu thể hiện ở cách xưng hô, cách dùng từ ngữ nhằm biểu hiện thành kính, thân mật
hay xa lạ, khinh bỉ, châm biếm, giễu nhại. Một tiếng “chàng”, “nàng” trong văn hay
một tiếng xưng hô “hắn”, “thị” trong truyện đã tạo ra cả một trường từ vựng tương
ứng và đặt người đọc vào cái không khí đặc trưng do tác giả tạo ra. Trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, nổi bật lên giọng cảm thương, than oán, đau xót. Nổi bật trong
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là giọng trào lộng, hài hước. Nổi bật trong
truyện Thạch Lam là giọng đồng cảm, trữ tình...” [26;64]
Như vậy, Trần Đình Sử đã cho chúng ta hình dung phần nào về giọng điệu
trong văn chương. Giọng điệu trong văn chương rõ ràng không phải tự nhiên mà có,
tác giả phải tài năng, tâm huyết mới tạo được giọng điệu độc đáo. Muốn thật sự hiểu
tác phẩm người đọc không thể bỏ qua yếu tố “giọng điệu”.
Nguyễn Thị Dư Khánh lại quan niệm: “Trong văn học, khái niệm giọng điệu
vừa được biểu hiện ở phương diện ngữ âm: trầm, bổng, trong, đục, nhanh, chậm, dài
ngắn,…vừa được biểu hiện ở phương diện phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương; khoan
thai hay dồn dập, sôi nổi; trân trọng hay mỉa mai, khinh bỉ; phê phán hay ca ngợi; yêu
thương hay căm giận; mềm mại, dịu dàng hay cứng cỏi, kiên quyết; tha thiết gắn bó
hay thờ ơ lãnh đạm…” [21; 52]. Và đứng ở bình diện thi pháp, chủ yếu chúng ta tìm
hiểu “Giọng điệu gắn liền với…cái giai điệu, cái hồn chi phối toàn bộ tác phẩm”.
[21;53]. Tác giả công trình nghiên cứu này cũng cho rằng giọng điệu “Chính là yếu tố
quan trọng nhất để phân biệt cái “cổ họng” – nét bút của nhà văn này so với nhà văn
khác để tạo thành phong cách nhà văn”[21;53].
Ngoài những cách hiểu trên đây, các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học định
nghĩa giọng điệu là “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức của nhà văn đối
với hiện tượng được miêu tả trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,
sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ…”[13; 111]. Thêm vào đó, giọng điệu có tác dụng
“Phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ, có vai trò rất lớn
tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [13;111] Giọng
điệu trong tác phẩm thường đa dạng và “có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu
cơ bản chủ đạo” [13;111].
Trong Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp đã trình bày một cách
có hệ thống và chặt chẽ về “giọng điệu”. Theo Nguyễn Đăng Điệp, nói đến giọng điệu
là nói đến một “hiện tượng nghệ thuật”, một “yếu tố cơ bản tạo thành phong cách
nghệ thuật”, bởi “giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn
qua lời văn nghệ thuật” [8;34], và là “kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ”
[8; 31]. Nguyễn Đăng Điệp cũng khẳng định “một tác phẩm có thể có nhiều giọng
điệu” [8;51], và ông chỉ rõ “giọng điệu bài thơ, một mặt, chi phối cách lựa chọn từ
ngữ, khẩu khí, ngữ điệu, cách tổ chức lời văn, mặt khác, được thể hiện qua những yếu
tố này”. [8;73]. Đáng lưu ý là bản thân giọng điệu thuộc về một hệ thống và “tự nó
cũng là một hệ thống, một “tổ hợp” bao gồm nhiều yếu tố” [8;40]. Vì vậy mà giọng
điệu toát lên từ toàn bộ tác phẩm, nó không nằm riêng rẽ ở một thành tố nào.
Trong công trình này, Nguyễn Đăng Điệp cũng đề cập đến các cấp độ của giọng
điệu: giọng điệu tác phẩm, giọng điệu nhà văn, giọng điệu thời đại. Trong số đó, giọng
điệu nhà văn phải được coi là đơn vị cơ bản nhất, vì “giọng điệu tác phẩm là biểu hiện
cụ thể của giọng điệu nhà văn, và đến lượt mình, giọng điệu nhà văn là cơ sở tạo nên
âm hưởng chung của một thời đại văn học.”[8;342].
Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Đăng Điệp cũng đi sâu làm rõ sự khác nhau
giữa giọng điệu và các yếu tố hình thức nghệ thuật khác mà nhiều người vẫn lầm
tưởng với giọng điệu như: ngữ điệu, nhịp điệu, nhạc điệu (nhất là ngữ điệu).
Với công trình này, người đọc có thể có cái nhìn hoàn chỉnh hơn về giọng điệu.
Qua phân tích trên đây, có thể thấy đã có nhiều ý kiến từ những góc nhìn khác
nhau của các nhà nghiên cứu bàn về “giọng điệu”. Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến
chưa hoàn toàn thống nhất với nhau. Điều này cho thấy sự phức tạp trong việc nghiên
cứu lí thuyết giọng điệu. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu đã nói được những nét cơ bản
về giọng điệu. Và người viết luận văn này cũng dựa trên cách hiểu của PGS. TS
Nguyễn Đăng Điệp về giọng điệu mà triển khai, làm rõ vấn đề.
Giọng điệu thể hiện thái độ, cảm xúc, lập trường, cách nhìn, tư thế của chủ thể
phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà nhà văn hướng tới.[8;341]
Tóm lại, giọng điệu là một phạm trù thi pháp học, gắn liền với nhiệm vụ miêu
tả nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm rất đa dạng,
độc đáo và mang tính tính tổng hợp cao. Giọng điệu còn thể hiện cả nhận thức, thái độ
và cả nội lực của nhà thơ. Và chính giọng điệu sẽ chi phối trực tiếp cách lựa chọn từ
ngữ, tổ chức lời thơ trong tác phẩm. Có thể nói, giọng điệu đóng một vai trò rất quan
trọng trong tác phẩm. Khi tiếp xúc với tác phẩm, nếu ta hiểu sai giọng điệu thì đã xem
như hiểu sai ý đồ nghệ thuật của tác giả.
1.2.2 Giọng điệu – một biểu hiện nghệ thuật:
Giọng điệu thực ra là một khái niệm trừu tượng, “giọng điệu không nằm trong
một thành tố nào, đọng lại trong một khu vực cục bộ nào mà được toát lên từ toàn bộ
tác phẩm” [8;342]. Không giống như như ngôn ngữ thơ, nhịp điệu, hình ảnh,…có thể
tìm thấy ngay trên bề mặt văn bản, trên bề mặt câu chữ, nghiên cứu giọng điệu thực
chất là tìm hiểu sự hô ứng của nhiều yếu tố cấu thành. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu qua
những yếu tố cấu thành như thể thơ, ngôn ngữ thơ, nhịp điệu, hình ảnh,…tất cả những
yếu tố này hô ứng tạo nên một hiện tượng giọng điệu trong tác phẩm.
Giọng điệu là một yếu tố thuộc bình diện nghệ thuật nhưng lại có vai trò quan
trọng trong việc bộc lộ tư tưởng, tình cảm của tác giả cũng như nội dung tác phẩm.
Câu chữ trong tác phẩm có thể khó hiểu, thậm chí người đọc không hiểu hoàn toàn
nhưng qua giọng điệu, chúng ta có thể nắm bắt nội dung, hiểu được ý đồ nghệ thuật
của tác giả. Nói như vậy để thấy rằng các hình thức nghệ thuật luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nội dung của tác phẩm, chúng ta không thể tách rời hai bình diện để phân
tích. Phân tích tác phẩm thực chất là đi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức của tác phẩm. Và “Thực tế cho thấy là chỉ trên cơ sở nắm vững
những vấn đề nội dung thời đại, của thế giới quan, nhân sinh quan nhà văn…ta mới có
thể khai thác các vẻ đẹp về nghệ thuật một cách phù hợp và đúng hướng. Ngược lại,
chính việc đi sâu phân tích các thủ pháp nghệ thuật, giúp ta chiếm lĩnh nội dung tác
phẩm sâu sắc hơn” [21;51].
Đồng thời, chúng ta cần phân biệt giọng điệu và ngữ điệụ, giọng điệu có quan
hệ với ngữ điệu nhưng hai khái niệm này không phải là một. Giọng điệu là một phạm
trù của thi pháp học, trong khi ngữ điệu là một phạm trù của ngôn ngữ học. Như vậy,
nếu ngữ điệu thuộc phạm vi câu, thì giọng điệu lại “phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật
của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại” [8;40]. Rõ ràng
ngữ điệu sẽ góp phần biểu lộ giọng điệu.Giọng điệu sẽ chi phối sự lựa chọn ngữ điệu.
Mối quan hệ giữa ngữ điệu là mối quan hệ chi phối và phụ thuộc. Việc đồng nhất hai
khái niệm này hoàn toàn không hợp lí.
Giọng điệu chịu ảnh hưởng không chỉ của tâm hồn nghệ sĩ, sở trường ngôn ngữ,
phương thức thể hiện, mà còn ảnh hưởng bởi đối tượng được nói đến và cũng ít nhiều
chịu áp lực của thể loại.
Do cấu trúc và đặc điểm thể loại, giọng điệu trong thơ khác với giọng điệu văn
xuôi. Nếu giọng điệu trong văn xuôi thường mang tính khách quan, lạnh lùng thì giọng
điệu thơ ca lại thấm đẫm tính chủ quan. “Đọc một bài thơ ta thường bắt gặp một tiếng
nói độc bạch “thầm thì”, trong khi đó đọc một tác phẩm văn xuôi ta thường bắt gặp
một tổng phổ giọng điệu với nhiều tiếng nói khác nhau” [8; 341, 342] – mà nhiều
người vẫn gọi là hiện tượng đa thanh.
Thêm vào đó, không phải bất kì tác phẩm nào cũng có một giọng điệu riêng
biệt, hẳn hòi. Có khi trong một tác phẩm lại có sự đan dệt từ nhiều giọng điệu khác
nhau. Ví như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, giọng thơ cảm thương đối với thân
phận nàng Kiều – kiếp tài hoa mệnh bac, là giọng nổi bật, giọng chủ đạo ấy thể hiện
qua những lời than thống thiết, qua sự ưu ái, trân trọng của tác giả với nhân vật chính –
Thúy Kiều, song song đó, trong tác phẩm còn có sự xuất hiện của giọng đay nghiến, đả
kích khi nói về mụ Tú Bà, Sở Khanh, những kẻ lưu manh, xảo quyệt và những hành
động của bọn họ, lại còn có giọng mỉa mai châm biếm…Chỉ có thể nói, trong tác phẩm
sẽ có một giọng điệu chủ đạo, nổi bật và những giọng điệu phụ làm nên “dải phổ
giọng điệu” (Chữ dùng của Nguyễn Đăng Điệp) cho tác phẩm đó. Chính vì vậy mà
việc phân chia rạch ròi ranh giới giữa các giọng điệu không phải là điều giản đơn.
Thiết nghĩ sự tương hỗ nhau của các giọng điệu sẽ khiến việc phân chia này mang tính
tương đối.
1.2.3 Vai trò của giọng điệu:
1.2.3.1 Giọng điệu – một trong những yếu tố tạo nên phong cách tác giả:
Bàn về phong cách tác giả, cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến tồn tại. Phan Ngọc
trong Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều (NXB Thanh niên, 2001) đã
xác định “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu,
hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận
diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả” [tr.31], thêm vào đó,
Phan Ngọc cũng cho biết “hiện tượng phong cách tác giả lại càng hiếm hơn nữa”.
Một người nghệ sĩ có được phong cách riêng khi đọc một vài câu, người ta đã đoán
biết tác giả là ai, và điều cần thiết là người nghệ sĩ phải có cái gan thoát ra cái truyền
thống và trên cơ sở đó xây dựng một truyền thống mới cho riêng mình.Với nhiều tác
giả trong Thường thức lí luận văn học (NXB Giáo dục, 1976) thì “Phong cách là chỗ
độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ thể hiện trong sáng
tác của những nhà văn ưu tú”[tr.130]. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ trước hết phải đem lại
tiếng nói mới cho văn học, tiếng nói của riêng mình. Mà nếu người nghệ sĩ không tạo
được tiếng nói riêng biệt ấy cho tác phẩm thì tác phẩm hẳn sẽ rơi vào quên lãng. Vì lẽ
đó mà Nguyễn Đình Thi đã từng khẳng định “Nghệ sĩ tìm đến cuộc sống không phải
để chép lại mà để nói một điều gì mới mẻ, để gửi tới mọi người một tiếng nói”.[tr.130]
Có thể nói, điều cơ bản nhất trong phong cách tác giả là khả năng tạo được nét
riêng, tiếng nói riêng, điều đó bắt nguồn từ cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ, tính chủ
thể của người nghệ sĩ trong sáng tác, kinh nghiệm và sở trường nghệ thuật của họ. Và
lẽ đương nhiên thì phong cách tác giả được thể hiện ở nhiều yếu tố trong tác phẩm
như: cách lựa chọn và xây dựng hình tượng, cách tổ chức, vận dụng các phương tiện
nghệ thuật, cách miêu tả, cách kết cấu tác phẩm,… trong đó không thể bỏ qua yếu tố
giọng điệu, bởi nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng
điệu riêng thì đó là một “sự tự sát” trong văn học. Nhiều tác giả trong Từ điển thuật
ngữ văn học cũng đã đề cập đến vấn đề này khi khẳng định “Giọng điệu phản ánh lập
trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn” [13;111]. Khi phân tích một tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu
cũng đồng nghĩa với việc tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của tác
phẩm. Và tùy theo quan điểm, tư tưởng, thị hiếu, tình cảm khác nhau của tác giả với
đối tượng sẽ làm nên những chất giọng - giọng điệu khác nhau. Chẳng hạn, có biết bao
bài thơ về mẹ, về bầm nhưng chúng ta vẫn nhận ra được giọng điệu thơ của Tố Hữu:
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
(Bầm ơi)
Thơ Tố Hữu xúc động chúng ta cố nhiên trước hết là bởi ý thơ dạt dào tình đời
và nó còn xúc động chúng ta vì cái giọng riêng của ông. Chất trữ tình chính trị trong
tiếng thơ Tố Hữu đã cảm được nhiều tâm hồn yêu thơ, và được biết đến như một đặc
điểm nổi bật của hồn thơ này. Một số bài thơ thật nhuần nhuyễn của Tố Hữu hình như
nếu đọc nhỏ lại thì hiệu quả thẩm mĩ sẽ cao hơn:
“Không gì thương bằng đôi mắt đen
Của người yêu nhìn ta đăm đăm
Không gì thân bằng những ngọn đèn
Trên đường đêm canh trời thăm thẳm…
…Đã mấy đêm rồi, xuân lại đông
Ngọn đèn như mắt của ai trông
Ngọn đèn như trái tim thương nước