bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
tr-êng ®¹i häc s- ph¹m hµ néi
-----------
ĐỖ THỊ LIỆU
GIỌNG ĐIỆU THƠ
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Chuyªn ngµnh
: Văn học Việt Nam hiện đại
M· sè
: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS. Nguyễn Thị Bình
Hµ Néi - 2014
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS-TS.
Nguyễn Thị Bình, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong chuyên ngành
Văn học Việt Nam hiện đại, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Phòng quản lý
khoa học trường Đại học sư phạm Hà Nội, đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn, người thân, gia đình và bạn bè đã quan tâm,
động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong thời gian học tập và nghiên
cứu vài hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Đỗ Thị Liệu
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 9
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM GIỌNG ĐIỆU THƠ VÀ CƠ SỞ HÌNH
THÀNH GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM.......................... 10
1.1. Khái niệm giọng điệu và giọng điệu trong thơ trữ tình ........................... 10
1.1.1 Khái niệm giọng điệu ............................................................................ 10
1.1.2 Giọng điệu trong thơ trữ tình ................................................................ 13
1.2. Cơ sở hình thành giọng điệu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. .................. 17
1.2.1 Truyền thống gia đình, quê hƣơng và cá tính nghệ sĩ. ........................... 17
1.2.2 Cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc và nhu cầu khẳng định cái tôi
công dân- chiến sĩ............................................................................................ 22
1.2.3 Sự chuyển mình khó nhọc của đất nƣớc thời hậu chiến và nhu cầu lên tiếng
của cái tôi cá nhân. ............................................................................................ 26
CHƢƠNG 2: GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM GIAI ĐOẠN
TRƢỚC NĂM 1975....................................................................................... 34
2.1. Giọng trầm hùng trang trọng từ niềm tự hào về tổ quốc, nhân dân. ........ 34
2.2. Giọng tranh biện của cái tôi thế hệ trẻ thời chống Mĩ cứu nƣớc – (thế hệ ý
thức sâu sắc vai trò trách nhiệm của mình đối với đất nƣớc, với nhân dân). . 53
3
CHƢƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1975 ...................................................................... 63
3.1. Những tiền đề của một sự chuyển đổi giọng điệu .................................... 63
3.1.1 Những biến động dữ dội của thời cuộc. ................................................. 63
3.1. 2. Sự chuyển dịch môi trƣờng sống của nhà thơ ...................................... 69
3.2. Giọng suy tƣ khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm về thế sự và nhân sinh. .. 75
3.3. Những suy tƣ chiêm nghiệm về nghệ thuật và nghệ sĩ. ........................... 81
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Nhà thơ nào tạo đƣợc giọng điệu riêng là xem nhƣ đã có đƣợc một
chỗ đứng vững vàng trong lòng bạn đọc. Những tác giả vƣợt qua thử thách
của thời gian trƣớc hết đều có giọng điệu riêng.
Nguyễn Khoa Điềm là gƣơng mặt tiêu biểu, có đóng góp đáng kể vào
diện mạo thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ. Trong dàn “đồng ca” của thơ trẻ
thời này (gồm nhiều tên tuổi: Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh
Thảo, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phƣơng, Nguyễn Duy, Ngô Văn
Phú, Hoàng Nhuận Cầm...), Nguyễn Khoa Điểm góp một chất giọng khó lẫn.
Nếu Phạm Tiến Duật có giọng thơ lính ngang tàng phóng túng, Thanh Thảo
có giọng suy tƣ, trăn trở, Nguyễn Duy ngọt ngào ru vỗ, Xuân Quỳnh thiết tha,
đằm thắm đầy nữ tính... thì thơ Nguyễn Khoa Điềm mang một chất giọng
trầm hùng vừa hào sảng vừa rành rẽ triết lí – chính luận.
1.2 Giọng điệu nghệ thuật là phần tinh túy nhất của một hồn thơ, là một
phạm trù thuộc phong cách nghệ thuật thể hiện ở các tín hiệu ngôn ngữ và siêu
ngôn ngữ. Một số công trình khoa học đã đề xuất những luận điểm có tính chất lí
thuyết cho việc nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật. Đây chính là những gợi ý để
chúng tôi thực hiện việc nghiên cứu giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1.3 Nguyễn Khoa Điềm đã trải qua hai thời kì sáng tác. Thời kì chống Mĩ
ông cho ra mắt hai tập thơ: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974).
Sau khi thống nhất đất nƣớc ông tiếp tục trình bạn đọc ba tập thơ: Đất và khát
vọng (1984), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007) và một số
bài thơ lẻ sau tập thơ Cõi lặng. Giữa hai giai đoạn, thơ ông vừa có sự tiếp nối
liền mạch về bút pháp, vừa biến đổi về cảm xúc trữ tình. Theo đó giọng điệu
thơ cũng vừa ổn định vừa vận động. Dõi theo sự vận động này, chúng tôi nghĩ
có thể góp phần lí giải một số vấn đề có ý nghĩa của văn học sử.
1
1.4 Tổng cộng Nguyễn Khoa Điềm có 200 bài thơ trong đó có hai tác
phẩm đƣợc tuyển chọn đƣa vào giảng dạy trong chƣơng trình trung học: Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ và đoạn trích Đất Nước trích trƣờng ca
Mặt đường khát vọng.
Việc nghiên cứu giọng điệu thơ Nguyễn khoa Điềm giúp chúng tôi có
thêm cơ hội bổ túc tri thức về một tác giả trong chƣơng trình nhà trƣờng, giúp
chúng tôi giảng dạy hiệu quả hơn và có thể đóng góp thêm nguồn tƣ liệu để
giáo viên và học sinh tham khảo.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ sáng tác đầu tay, Nguyễn Khoa Điềm đã thu hút đƣợc sự chú ý
của bạn bè và giới phê bình nghiên cứu văn học. Một loạt bài viết xuất hiện
khi tập thơ Đất ngoại ô (1972) ra đời và từ đó những bài nghiên cứu phê bình
luôn song hành với quá trình sáng tác của ông và khá nhiều bài đã có đề cập
đến giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm ở những mức độ đậm nhạt khác nhau.
Năm 1972 Hà Minh Đức viết bài Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm
(Đến 1977 bài viết đƣợc đƣa vào cuốn Thực tiễn Cách mạng và sáng tạo thi
ca của nhà xuất bản Văn học). Ông đánh giá tập thơ đã đóng góp “một giọng
thơ trẻ đầy nhiệt tình, cháy bỏng lí tưởng” qua cái tôi trữ tình đằm thắm. Hà
Minh Đức cũng khẳng định nét riêng của ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm ở chỗ
“Thơ anh có lúc thiên về lí trí và luôn khát suy nghĩ”. Nhà phê bình cũng
thẳng thắn chỉ ra những yếu tố hạn chế của tập thơ “Anh chưa có những suy
nghĩ sâu sắc về nhiều mặt của một đời sống từng trải, cảm xúc chưa tự nhiên,
đôi khi còn nặng nề, khiến cho nhiều dòng thơ khô khan, mang nặng suy nghĩ
và bình luận.”
Khi tập thơ thứ hai của Nguyễn Khoa Điềm ra mắt, Nguyễn Xuân Nam
viết bài Mặt đường khát vọng, tiếng hát xuống đường của thanh niên sinh
viên các đô thị Miền Nam (Báo Văn nghệ số 568, ngày 20 -9 – 1974). Bài
2
viết khẳng định “Mặt đường khát vọng không phải là một bài thơ ca ngợi,
đúng hơn là một bài thơ về quá trình nhận thức để hành động, nó có giọng
trầm trầm của sự phân tích, nhận định...”, bài viết cũng dành cho tập thơ lời
đánh giá trân trọng “Tác giả có ý định khá lớn, có cách diễn đạt mới, có sức
sáng tạo dồi dào, lấy trực tiếp từ cuộc đấu tranh của quê hương đất nước
mình”. Bài viết cũng chỉ ra những biểu hiện chƣa đạt của tập thơ “Thơ
Nguyễn Khoa Điềm không đặc sắc để tạo hình, về màu sắc”. [35]
Nguyễn Văn Long trong bài viết Nguyễn Khoa Điềm với “Mặt đường
khát vọng (Báo Văn nghệ quân đội số ra 4-1975) cũng khẳng định sự tìm tòi
và ý thức sáng tạo mới mẻ ở cách thể hiện những cảm xúc chân thực trong
lòng nhà thơ đã tạo nên tiếng vang lớn cho tác phẩm này “Có thể thấy những
dấu ấn rõ rệt của một vốn văn hóa nhà trường và sách vở, một ảnh hưởng của
cách suy tưởng trong thơ người này hay người khác... Nhưng đoạn thơ Đất
nước này cũng như nhiều chỗ khác trong cả bài Mặt đường khát vọng có
được sức rung động âm vang chính là bởi tác giả đã thực sự sống với những
cảm xúc của mình - dù có khi là những điều không mới lạ, và nhất là anh đã
có được điều này: ấy là từ một góc độ của mình, từ những từng trải riêng
trong cuộc sống, chiến đấu gay go, sống chết ở một vùng chiến tranh mà suy
nghĩ, khám phá, xúc cảm về quê hương đất nước. Vì thế anh có thể nói những
điều khái quát suy tưởng mà không rơi vào chung chung, trừu tượng, mờ
nhạt, nói những điều khái quát mà không sợ ồn ào, sáo rỗng”.
Năm 1976, Tôn Phƣơng Lan viết bài Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có
nhiều triển vọng đã khẳng định tiềm năng của một nhà thơ trẻ. Bà nhìn khái
quát bao trùm cả Đất ngoại ô và Mặt đường khát vọng để nhận ra cái riêng
của Nguyễn Khoa Điềm giữa các gƣơng mặt khác. Đó là cảm nhận rất riêng
của nhà thơ về Huế với “cách nhìn riêng qua phong cách của mình, qua tấm
lòng vốn đã gắn bó với Huế từ buổi ấu thơ”. Những nét riêng đó góp phần
3
hình thành phong cách nhà thơ. Bà nhận định “Một phong cách Nguyễn Khoa
Điềm đã khá rõ. Bạn đọc ghi nhận ở anh một cách suy nghĩ và diễn đạt có âm
hưởng riêng”. Trong cuốn Nhà thơ hiện đại, Tôn Phƣơng Lan lại có thêm một
bài viết thể hiện sự đánh giá tổng quan về chân dung nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm. Tác giả nhận xét khá kĩ thành công cũng nhƣ hạn chế ở thơ Nguyễn
Khoa Điềm nhƣ thuyết phục bạn đọc ở sự cân bằng giữa trữ tình và hiện thực,
bằng sự kết hợp giữa trữ tình và cảm xúc, ở sự hòa quyện cái khỏe khoắn của lí
tƣởng tuổi trẻ và nỗi buồn xót xa trƣớc hi sinh mất mát. Nhƣợc điểm là sự cầu
kì trong diễn đạt, cảm xúc dàn trải, chƣa làm chủ đƣợc cảm xúc...
Bài viết của Mai Quốc Liên Nguyễn Khoa Điềm và những bài thơ viết
từ chiến trường Trị Thiên (1979) đã tiếp tục làm rõ thêm đƣờng nét chân
dung thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Nguyễn Khoa Điềm không bắt đầu thơ mình
từ sách vở, từ phòng văn mà từ hiện thực cuộc sống và chiến đấu của nhân
dân, của đất nước... thơ anh vừa có cái thắm tươi của tâm hồn trẻ, vừa có cái
hào hùng vang dội, có cái dịu ngọt của đất Huế, người Huế”. Tác giả cũng
chỉ ra hạn chế của nhà thơ là cảm xúc dàn trải, cách diễn đạt thiếu tự nhiên.
Năm 1987, tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm của Nguyễn Khoa Điềm
với 25 bài thơ đã đoạt giải thƣởng Hội nhà văn Việt Nam, và đã đƣợc dƣ luận
dành cho nhiều thiện cảm.
Trong bài Nguyễn Khoa Điềm từ Mặt đường khát vọng đến Ngôi nhà
có ngọn lửa ấm, Vũ Tuấn Anh nhận xét: “Triết lí, trữ tình cuộn chảy và lắng
đọng, sự già dặn của suy nghĩ đan lẫn nét tinh tế, tài hoa… Sự hợp chuyển
hài hòa những yếu tố ấy là kết quả của nhận thức lý tính của sự mẫn cảm của
thơ với nhịp đập thời đại mà đời và thơ anh nhập cuộc”. Nhà nghiên cứu đã
đánh giá cao sự kết hợp hài hòa giữa lí trí và cảm xúc trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm, coi đó là dòng cảm xúc rất chân thật, không cầu kì, sáo rỗng, không tô
vẽ bởi màu hồng, một lối viết có nhiều đổi mới: điềm đạm và sâu lắng, tách
4
lớp các vỏ của sự vật để tìm cái cốt lõi bên trong, khơi gợi từ đấy những triết
lí đạo đức và nhân sinh.
Vũ Quân Phƣơng trong bài viết Ngôi nhà có ngọn lửa ấm – Nguyễn
Khoa Điềm cũng đã khẳng định ở tập thơ này chất thơ đƣợc gợi ra từ những
gì gần gũi thân thuộc trong cuộc sống thƣờng ngày, giản dị, mộc mạc, sâu
lắng và giàu cảm xúc. Bằng việc phân tích một số bài thơ, ông đã khái quát
những thành công về nội dung và nghệ thuật của tập thơ: dùng cái đạm để vẽ
nên cái nồng, không cao giọng lâm ly mà dùng giọng nói thƣờng để chấm phá
khêu gợi, tiết kiệm chữ nghĩa…tạo nên những câu thơ cô đọng, dồn nén cảm
xúc đạt đến độ uyên thâm.
Chu Văn Sơn khi phân tích đánh giá Đất nước đã chứng minh tƣ duy thơ
Nguyễn Khoa Điềm là tƣ duy trữ tình - triết luận: “Nét chủ đạo trong tư duy
triết luận trữ tình là đào sâu vào cái bản chất của sự vật dưới dạng những
biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên mạch logic biện
chứng với những mối liên hệ thật bất ngờ kỳ thú” [44]. Nhà phê bình khẳng
định: sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố triết luận và trữ tình đã góp
phần định hình phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Ở bài viết Bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Xuyền
đã đánh giá “Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất
liệu của văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ
phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của
nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi,
quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ diệu đủ sức gợi lên cái hồn thiêng của non sông,
đất nước” [55]
Với bài viết Gương mặt quê hương – gương mặt nhà thơ, Võ Văn Trực
đã có những phát hiện khá tinh tế về thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa
Điềm. Theo ông “Thơ Nguyễn Khoa Điềm từ không gian cho đến con người
5
đều chan chứa cảm xúc về Huế, lịch sử Huế, nền văn hóa Huế, hơi thở đời
sống hàng của cố đô đã thấm vào máu thịt anh… tâm hồn Huế dịu dàng sau
mỗi dòng thơ” [52]. Huế trở thành đối tƣợng tạo nên cảm xúc, từ vùng ngoại ô
nghèo đến đại lộ uy nghi cổ kính, từ dòng sông Hƣơng đến những mảnh vƣờn
xinh xắn… tất cả đã đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm trở thành những hình ảnh
thân thuộc. Chất Huế đã tạo nên nét độc đáo trong phong cách thơ ông.
Tác giả Hoài Anh có một phát hiện khá độc đáo khi cho rằng sự nghiệp
sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm nằm trọn vẹn trong chủ đề Thơ sóng đôi:
Đất và Khát vọng. Hoài Anh dùng hai tín hiệu thẩm mĩ này để mở cửa thế
giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm: “Cái thế giới miền Nam sống dưới
chế độ Mỹ - Ngụy này mà Nguyễn Khoa Điềm đã phản ảnh trong “Đất ngoại
ô” là cái thế giới không thể chịu nổi, khát vọng đem lại sức mạnh cho ước mơ
lớn của mỗi người vùng lên đấu tranh để giải thoát khỏi thế giới tàn bạo và
ngột ngạt đó, để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc được thể hiện trong
biểu tượng “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” [1]
Vũ Văn Sĩ trong Tạp chí văn học số 11-2002 có bài Nguyễn Khoa Điềm – một
giọng trữ tình giàu chất sử thi đã khẳng định giá trị bền vững của thơ
Nguyễn Khoa Điềm “Thế kỉ XX, thế kỉ của những sự kiện trọng đại của dân
tộc ta đã qua đi, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm ta vẫn được xúc động trước
những giá trị thẩm mỹ của một thời. Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp
vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi
và cá tính, một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn sống, vốn tri
thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy” [41]
Bẵng đi một thời gian dài, từ 1986 (có lẽ do bận công tác quản lý) mãi
đến năm 2007, Nguyễn Khoa Điềm mới lại cho ra mắt bạn đọc tập thơ Cõi
lặng. Vừa ra đời Cõi lặng đã đƣợc dƣ luận quan, có rất nhiều ý kiến, nhiều
đánh giá khác nhau nhƣng đa số độc giả và các nhà phê bình nghiên cứu văn
6
học đã có chung một cảm nhận: đây là tiếng lòng tha thiết của một trái tim
giàu cảm xúc, giàu trách nhiệm với đất nƣớc với nhân dân; là những suy tƣ
của anh đối với nhân dân, đất nƣớc; những chiêm nghiệm của anh về đời sống
xã hội, nhân tình thế thái… và một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng mà
khá hiện đại.
Bên cạnh những bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình trên sách báo
còn có một số công trình nghiên cứu của sinh viên, học viên trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội yêu thơ Nguyễn Khoa Điềm nhƣ:
- Luận văn Thạc sĩ Cảm hứng trữ tình công dân trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm của Quách Công Chấp (1998).
- Luận văn Thạc sĩ Phong cách trong thơ Nguyễn Khoa Điềm của
Nguyễn Thị Thu Thủy (2002).
- Luận văn thạc sĩ Đặc sắc cái tôi trữ tình trong phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm (2002) của Nguyễn Thị Thu Hà.
- Luận văn Thạc sĩ Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm của
Nguyễn Thị Chín (2008) .
Các luận văn trên tiếp cận tác giả Nguyễn Khoa Điềm ở một số phƣơng
diện nhƣ cái tôi trữ tình, cái tôi công dân, thế giới nghệ thuật thơ…, hầu hết
không trực diện khảo sát giọng điệu thơ. Riêng luận văn của Nguyễn Thị Chín
có một mục đề cập đến giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm nhƣng nằm trong
hệ thống thế giới nghệ thuật nên cũng mới chỉ nêu vài cảm nhận chung. Tác
giả luận văn khái quát “Kế tiếp những dòng thơ giầu chính luận của Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm mang giọng điệu chính luận”; “Trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm ta còn bắt gặp giọng trầm tư, suy nghĩ ”; “Trong thơ
nguyễn Khoa Điềm giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư giàu sức khái quát về
cuộc sống và chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc đã tạo nên phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm”
7
Nhìn chung các bài nghiên cứu đã tập trung vào một số vấn đề cụ thể của
thơ Nguyễn Khoa Điềm nhƣ bút pháp, chất trữ tình, chất triết lí, cái tôi trữ
tình, thế giới nghệ thuật…Giới nghiên cứu ghi nhận thơ ông có sự vận động
trong tƣ duy nghệ thuật qua hai giai đoạn sáng tác trƣớc và sau năm 1975.
Nhiều bài viết cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc đến giọng điệu thơ
Nguyễn Khoa Điềm, nhƣng chƣa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu nó
một cách kĩ lƣỡng, toàn diện. Luận văn của chúng tôi sẽ khảo sát sự vận động
trong giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm qua hai giai đoạn trƣớc và sau 1975
nhƣ một cách tiếp cận mới để có thể nắm bắt phong cách cũng nhƣ quá trình
vận động của thơ Nguyễn Khoa Điềm.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ mô tả những biểu hiện của giọng điệu thơ Nguyễn Khoa
Điềm, lý giải cội nguồn hình thành và quá trình vận động của nó, qua đó
khẳng định đóng góp của nhà thơ đối với thơ chống Mĩ và nền thơ đƣơng đại,
đồng thời hiểu sâu hơn tiến trình thơ Việt Nam trƣớc và sau năm 1975.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm về giọng điệu, đề tài, tiến hành khảo sát
các yếu tố tạo giọng điệu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, nghệ thuật biểu hiện
giọng điệu ấy và ý nghĩa của nó trong hành trình thơ thế hệ thơ trẻ từ thời
chống Mĩ đến thời hiện tại.
Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu là cả năm tập thơ đã đƣợc xuất bản của
Nguyễn Khoa Điềm:
- Đất ngoại ô (1972)
- Mặt đường khát vọng (1974)
- Đất và khát vọng (1984)
- Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
- Cõi lặng (2007)
- Một số bài thơ sáng tác sau tập sau tập Cõi lặng
8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài “Giọng điệu nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm”
chúng tôi vận dụng đồng thời các phƣơng pháp cơ bản của thi pháp học hiện
đại, thi pháp tác giả. Đồng thời kết hợp các thao tác: hệ thống, thống kê, phân
loại, so sánh, phân tích tác phẩm theo thể loại.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong đó phần nội dung có 3 chƣơng
Chƣơng 1: Khái niệm giọng điệu thơ và cơ sở hình thành giọng điệu thơ
Nguyễn Khoa Điềm
Chƣơng 2: Giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn trƣớc năm 1975
Chƣơng 3: Giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn sau năm 1975
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM GIỌNG ĐIỆU THƠ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH GIỌNG
ĐIỆU THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
1.1. Khái niệm giọng điệu và giọng điệu trong thơ trữ tình
1.1.1 Khái niệm giọng điệu
Giọng điệu trong cuộc sống hàng ngày đƣợc hình dung nhƣ một tín hiệu
âm thanh có âm sắc, có trƣờng độ, cao độ. Khái niệm giọng chủ yếu nói về
giọng nói của con ngƣời khi phát âm trong ngôn ngữ giao tiếp. Giọng nói
không chỉ tồn tại nhƣ một âm thanh mà nó còn hàm chứa thái độ, tình cảm, cá
tính của ngƣời nói.
Theo Từ điển tiếng Việt giọng là: bản sắc của âm trong tiếng nói phản
ánh tình cảm. Chất lƣợng của âm trong tiếng nói phụ thuộc vào cấu tạo, sự
phát âm… của thanh quản, cách phát âm của một ngƣời, một địa phƣơng [9]
Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ biên soạn năm 2000 viết: giọng
điệu là “giọng nói, lối nói biểu lộ một thái độ nhất định”. Nhƣ vậy “giọng” là
yếu tố mang đậm tính vật lí trong khi “giọng điệu” lại đƣợc nhìn từ góc độ
tâm lí.
Cả hai định nghĩa về “giọng điệu” đều có điểm chung là “giọng điệu”
biểu lộ thái độ của ngƣời nói. Vậy nên trong thực tế giao tiếp, tùy vào hoàn
cảnh giao tiếp, vào nhân vật giao tiếp mà có các biểu hiện của giọng điệu. Có
giọng khinh miệt, bỡn cợt, chế giễu, có giọng vui sƣớng hể hả, có giọng
chanh chua đanh đá, có giọng hiền hậu nhu mì, có giọng trịch thƣợng, có
giọng cung kính… Giọng điệu thƣờng thể hiện tính cách và tâm trạng của con
ngƣời. Ngƣời sâu sắc thƣờng có giọng thâm trầm, ngƣời nông nổi thƣờng có
giọng chao chát, ngƣời nhu mì có giọng từ tốn… khi buồn thì giọng lắng lại,
10
khi vui thì giọng sôi nổi, khi tự hào thì giọng hào sảng… Giọng điệu không
chỉ hàm chứa thái độ, tình cảm, tính cách của ngƣời nói mà nó còn in dấu ấn
nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác của chủ thể phát ngôn. Có giọng trẻ con, có
giọng ngƣời lớn, có giọng nam, giọng nữ…
Tuy nhiên trong giao tiếp thƣờng nhật, giọng điệu thƣờng mang tính nhất
thời. Hôm nay giọng thế này mai lại có thể giọng khác. Còn giọng điệu trong
tác phẩm văn học, giọng điệu của tác giả mang tính nhất quán. Nó không phải
là ngẫu hứng mà giọng điệu đƣợc tổ chức một cách công phu, là kết quả của
một quá trình sáng tạo. Giọng điệu là cơ sở để hình thành phong cách nghệ sĩ.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ mang bản chất giao tiếp.
Giao tiếp giữa văn học với bạn đọc không phải là cuộc giao tiếp thông thƣờng
mà là nhà văn đối thoại với bạn đọc qua một tác phẩm nghệ thuật. Trong cuộc
giao tiếp ấy, nếu nhà văn muốn chinh phục bạn đọc thì tác phẩm của anh ta
không chỉ phải sâu sắc về tƣ tƣởng, nội dung có những khám phá mới mẻ, kết
cấu sáng tạo phải làm sao tạo đƣợc một giọng điệu riêng độc đáo.
Đã có rất nhiều nghiên cứu bàn về giọng điệu tác phẩm văn học. Trong
Mĩ học phương Đông, các nhà lí luận phƣơng Đông nhắc đến giọng điệu và
phong cách nhà văn qua các khái niệm gần gũi nhƣ: “hơi văn”, “khí văn”,
“tình điệu” … Lƣu Hiệp cho rằng: “có những nguyên nhân cơ bản làm cho
“văn mỗi người mỗi khác. Thứ nhất do tình cảm và tài năng trời phú từng
người, thứ hai do khí lực, cá tính và sự nỗ lực của từng cá nhân khác nhau,
thứ ba do môi trường sống và môi trường văn hóa tác động, ảnh hưởng”
[36;70-71]. Chính từ mối quan hệ giữa văn và ngƣời mà ngƣời bình văn nhận
ra: “Văn như con người của nó. Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà
tĩnh; Văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa; văn cao khiết thì con
người của nó đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó cương mà
nhanh; văn uyên sâu thì con người của nó thuần túy mà đứng đắn” [10; 74].
11
Về đại thể, trong lí luận văn học phƣơng Đông, khái niệm giọng điệu
mới chỉ đƣợc lí giải ở cấp độ nhận thức cảm tính mà chƣa đƣợc nghiên cứu
toàn diện và thấu đáo. Đến thế kỉ XX giới nghiên cứu phê bình văn học cả
Đông lẫn Tây mới thực sự quan tâm đến giọng điệu nghệ thuật, coi đó là yếu
tố hàng đầu của phong cách nhà văn.
M. Bakhtin đã nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống về giọng điệu
trong tiểu thuyết. Ông nói “Giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ lập
trường của chủ thể”.
M.B.Khravchenko cũng đặc biệt quan tâm đến giọng điệu. Trong công
trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học đã chứng
minh giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật, một nhà văn
tài năng bao giờ cũng phải tạo ra đƣợc một giọng điệu độc đáo. Ông khẳng
định “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường và
giọng điệu nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau
của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành động kịch, của lời lẽ
trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc trưng của tác
phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh” [ 33; 167- 168)].
Theo Nguyễn Đăng Điệp, các ý kiến của M.B.Khravchenko đã đề cập đến ba
vấn đề chính: thứ nhất, giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp
phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chƣơng; Thứ hai, trong
một tác phẩm, có giọng điệu chủ đạo và của các sắc điệu bao quanh với tƣ
cách là bè đệm; Thứ ba, giọng điệu thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau (từ
ngữ, kết cấu, cách thức tạo nhịp, gieo vần, cách sử dụng mô típ và xây dựng
hình tƣợng …). Đây có thể coi là một cái nhìn khá đầy đủ và xác đáng về vấn
đề giọng điệu trong tác phẩm văn học nói chung.
Giới nghiên cứu phê bình văn học trong nƣớc thời kì sau năm 1975 cũng
tỏ ra quan tâm nhiều đến giọng điệu nghệ thuật. Họ coi giọng điệu là yếu tố
12
hàng đầu của phong cách nhà văn, là phƣơng tiện biểu hiện quan trọng nhất
trong tác phẩm văn học, là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của
hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Trong cuốn Lí luận và văn học Lê
Ngọc Trà viết “Trong văn học, giọng điệu vừa liên kết các hình thức khác
nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung một
khuynh hướng nhất định, vừa có chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy
tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh thể
giọng ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy đủ hơn, thậm chí mới mẻ hơn” [51]
Ở công trình Giọng điệu trong thơ trữ tình Nguyễn Đăng Điệp đã bàn
bao quát về giọng điệu trong văn học nghệ thuật và đi khá sâu vào trong Thơ
Mới nói riêng. Tác giả khẳng định: “Giọng điệu được tổ chức một cách công
phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo. Giọng điệu là cơ sở để hình thành
phong cách nhà văn. Giọng điệu biểu lộ thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể
phát ngôn qua lời văn nghệ thuật” [17; 34]. “Giọng điệu là sự thể hiện lập
trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, sở trường ngôn ngữ của tác
giả. Nó gắn chặt với đối tượng giao tiếp và cách thức tổ chức lời lẽ diễn đạt”
[17; 35]. Ta có thể nói trong các tác phẩm nghệ thuật có giá trị nghệ thuật cao
thì “giọng điệu bao giờ cũng mang tính chất lượng” (Nguyễn Đăng Điệp), là
sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Sự giả giọng, mƣợn giọng không có sự sáng
tạo cái riêng thì không chỉ gƣợng gạo mà còn không có chỗ đứng trong lòng
bạn đọc.
1.1.2 Giọng điệu trong thơ trữ tình
Theo nhiều học giả “Thơ là hình thức nảy sinh đầu tiên của nghệ thuật
ngôn từ”. Ở văn học Hi Lạp – La Mã cổ đại, ở văn học châu Âu trung đại,
phục hƣng và chủ nghĩa cổ điển, câu thơ là đơn vị kiến tạo cơ sở của những
tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau ( sử thi, bi kịch, hài kịch, các thể tài
trữ tình).
13
Thơ là hình thức tổ chức ngôn từ đặc biệt. Dƣờng nhƣ muốn tỏ ra rằng
phát ngôn thơ không giản đơn là một thông báo hoặc một phán đoán lô gíc mà
là một hành vi ngôn từ tự tại. So với văn xuôi, thơ có tính hàm súc cao; từng
câu thơ đều có tính độc lập, nội tại, hƣớng tới tính chất và cấu trúc của những
cách ngôn nảy sinh nhƣ một sự phân lập khỏi ngôn ngữ của thực tại, hình
thức câu thơ nhƣ là một tín hiệu của việc đƣa thế giới nghệ thuật khỏi khuôn
khổ tính xác thực thƣờng ngày.
Câu thơ là tổ chức ngữ âm mang tính hoàn chỉnh trọn vẹn về nhịp điệu,
quan niệm truyền thống gắn tính hoàn chỉnh này với cái đẹp. Cách tổ chức
ngôn từ đặc biệt ở câu thơ cũng tạo cho nó khả năng trở nên đa nghĩa. Thơ có
khả năng tái tạo giọng nói sống động và sắc thái cá nhân của tác giả. Điều này
cũng đƣợc vật chất hóa trong kiến tạo của câu thơ.
Ở thơ trữ tình hiện đại, câu thơ thực hiện một nhiệm vụ kép: “Tương ứng
với vai trò đã có từ khởi thủy, nó đưa một thông báo về một thông điệp sống
thực của tác giả vào lĩnh vực nghệ thuật, tức là biến một dữ kiện kinh nghiệm
thành một sự kiện nghệ thuật; đồng thời câu thơ lại cho phép tái tạo bằng
giọng điệu trữ tình một sự thật trực tiếp thể hiện sự sống cá nhân, một giọng
người thật sự riêng biệt – giọng nói của nhà thơ.” [5; 314]
Thơ trữ tình biểu hiện trực tiếp cảm xúc và suy tƣ của nhà thơ trƣớc các
hiện tƣợng đời sống. Dấu hiệu tiêu biểu của nó là tính chất cá thể hóa của cảm
nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện. Các nhà lí luận nổi tiếng trên
thế giới đã chỉ ra: thơ ca mang bản chất “độc bạch”,“trinh nguyên” và “khép
kín” (Bakhtin) nên “bao giờ cũng có một tính chủ quan trong giọng điệu”
(Pospelov). Pospelov còn khẳng định: “trữ tình không dung hợp được thứ
giọng điệu thuần túy miêu tả không thiên vị vốn là giọng điệu thường gặp ở
các tác phẩm tự sự”. Giọng điệu thơ ca có thể ổn định ở một bài, một tập thơ
hay cả chặng đƣờng sáng tác của nhà thơ.
14
Nhìn chung, giọng điệu thơ trữ tình ít đƣợc nghiên cứu hơn giọng điệu
văn xuôi, nhƣng ở thế kỉ XX, nó cũng đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đề cập
đến ở nhiều góc độ (thể loại, văn bản ngôn từ, tâm lí sáng tạo).
Ở nƣớc ta, Hoài Thanh là ngƣời sớm chú ý đến giọng điệu và ông có
những nhận xét rất tinh tế về giọng điệu Thơ Mới và có sự nhận diện chính
xác giọng điệu của các cây bút thời đó “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha rạo
rực băn khoăn như Xuân Diệu” [47]. Nhƣng trong công trình nghiên cứu của
mình, Hoài Thanh chƣa giải thích giọng điệu trên cơ sở tƣ duy lý thuyết mà
mới chỉ dựa vào trực cảm nghệ thuật.
Theo Nguyễn Đăng Điệp thì giáo sƣ Trần Đình Sử là ngƣời đầu tiên nhìn
giọng điệu bằng cái nhìn hệ thống theo tinh thần thi pháp học hiện đại. Trần
Đình Sử đã phân biệt hiện tƣợng giọng điệu trong đời sống và giọng điệu
trong nghệ thuật “coi giọng điệu văn chương là một phương diện cấu thành
hình thức của văn học”. Nguyễn Đăng Điệp đã đánh giá : “Đây là một phân
biệt đích đáng – trên quan điểm loại hình lịch sử, nhà nghiên cứu cũng đã chỉ
ra sự vận động của văn học thông qua phạm trù giọng điệu. Theo Trần Đình
Sử, giọng điệu nhà thơ là sự biểu thị lập trường tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là
nguyên tắc lí giải và chiếm lĩnh hiện thực của thi nhân. Giọng điệu gắn với
các hiện tượng ngôn ngữ được biểu hiện qua lời văn nghệ thuật nhưng về bản
chất, đó là một hiện tượng siêu ngôn ngữ. Nó không tồn tại riêng lẻ ở một yếu
tố cô lập nào mà toát ra từ bản thân tác phẩm và mang nội hàm tư tưởng
thẩm mĩ. Gắn liền với giọng điệu là hình tượng giọng điệu” [17; 23].
Cùng với Trần Đình Sử, những nhà nghiên cứu khác nhƣ Lê Ngọc Trà,
Hoàng Ngọc Hiến, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh và Xuân Diệu, Tố
15
Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Anh Hiền, Lê Lƣu Oanh, Lã Nguyên vv… cũng
đã nghiên cứu giọng điệu thơ ca từ nhiều góc độ khác nhau và mỗi một ngƣời
đều có thành tựu riêng, thí dụ nhƣ Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết “Giọng
điệu trong văn chƣơng” giải thích mối quan hệ giữa giọng điệu và cảm
hứng, Hà Minh Đức quan tâm đến giọng điệu thơ ở góc độ cái tôi trữ tình,
Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định giọng điệu từ cảm hứng chủ đạo, từ các
yếu tố lặp lại, Lê Lƣu Oanh chú ý đến giọng điệu của câu thơ…Công trình
“Giọng điệu trong thơ trữ tình” của Nguyễn Đăng Điệp (xuất bản năm
2002) là sự tổng hợp và bổ sung khá phong phú cho các tác giả đi trƣớc.
Ông đã nghiên cứu cơ sở lí luận của giọng điệu, nghiên cứu giọng điệu
trong văn chƣơng và trong thơ ca nói riêng, từ đó nghiên cứu sâu về giọng
điệu câu Thơ Mới.
Theo Nguyễn Đăng Điệp, giọng điệu trong thơ trữ tình có thể nhận diện
ở các cấp độ: giọng điệu tác phẩm thơ trữ tình, giọng điệu nhà thơ và giọng
điệu thời đại.
Trong thơ trữ tình, chủ thể phát ngôn thƣờng xuất hiện ở ba tƣ thế chính:
hoặc trực tiếp, hoặc thông qua nhân vật trữ tình, hoặc ẩn sau cách miêu tả, tái
hiện. Giọng điệu của chủ thể đƣợc thể hiện qua lời văn nghệ thuật và cách tổ
chức ngữ lƣu trong tác phẩm, ở cách tạo dáng câu thơ, ở các xây dựng và tổ chức
nhạc điệu, nhịp điệu, qua các môtip và hình tƣợng. Giọng điệu nhà thơ còn bắt
đầu từ cảm hứng, cốt lõi của cảm hứng là tƣ tƣởng, là thái độ yêu ghét. Khảo sát
giọng điệu nhà thơ, phải chú ý đến kiểu tác giả, kiểu nhà thơ, thân phận của họ
và cách thức trữ tình của nhà thơ ấy. Đặt nhà thơ trong một kiểu tác giả nào đó
sẽ cho phép chúng ta khu biệt đƣợc sự độc đáo của nhà thơ và tìm thấy bóng
dáng của thời đại hiện lên trong những đứa con tinh thần của họ. Giọng điệu nhà
thơ còn thể hiện ở sự lặp lại của những yếu tố hình thức, trong “bí mật” dùng từ
của nhà thơ. Mỗi nhà thơ có khuynh hƣớng sử dụng trƣờng từ ngữ riêng.
16
Giọng điệu thời đại là giọng điệu chung của các nhà văn (thơ) gắn với
quan niệm nghệ thuật của thời đại. Sự thay đổi của mỗi thời đại trƣớc hết hiện
ra qua sự thay thế của các kiểu nhà thơ, bởi kiểu nhà thơ “là một quan hệ đối
với đời sống”, qua hệ thống hình tƣợng, biểu trƣng mà họ thƣờng sử dụng.
Giọng điệu tác phẩm, giọng điệu tác giả, giọng điệu thời đại luôn có tác động
qua lại. Là một hiện tƣợng nghệ thuật, giọng điệu nhà thơ thực sự là một sản
phẩm của một quá trình sáng tạo, tự nó là một hệ thống trong một hệ thống
lớn hơn. Các yếu tố trong hệ thống ấy có tác động qua lại mật thiết nhằm bộc
lộ chiều sâu của cái nhìn thái độ của nhà văn với thế giới. Giọng điệu của thời
đại có ảnh hƣởng tới giọng điệu của nhà thơ bởi chính giọng điệu cá nhân là
yếu tố tạo nên sự phong phú và âm hƣởng chung của giọng điệu thời đại.
1.2. Cơ sở hình thành giọng điệu trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1.2.1 Truyền thống gia đình, quê hƣơng và cá tính nghệ sĩ.
Quê hƣơng, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn với kí ức tuổi thơ sẽ trở thành
tình yêu máu thịt trong con ngƣời, ăn sâu vào nếp nghĩ, vào tình cảm của
chúng ta. Đặc biệt đối với những ngƣời nghệ sĩ thì vẻ đẹp thiên nhiên, tập
quán văn hóa luôn là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành cảm quan
nghệ thuật của họ. Nguyễn Khoa Điềm sinh ra và trƣởng thành trên đất Huế,
một miền đất có vẻ đẹp nên thơ, trữ tình và có nền văn hóa lâu đời. Ông sinh
ra lại thôn Ƣu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
Dải đất miền Trung quê hƣơng ông trải qua bao biến động của lịch sử, là nơi
hứng chịu sự khắc nghiệt của thiên nhiên, hứng chịu bao tấn bom đạn của kẻ
thù trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Mảnh đất “gió Lào cát trắng” ấy lại là
nơi chung đúc nên những bậc anh hùng hào kiệt nhƣ Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh. Dải đất ấy cũng là nơi sinh thành và quy tụ những ngôi sao văn
hóa lớn của dân tộc: Hải Triều, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Thanh Tịnh, Lƣu Trọng Lƣ, Tố Hữu… Mạch ngầm văn
17
hóa quê hƣơng tiếp tục nuôi dƣỡng những tài năng thơ ca thời chống Mỹ cứu
nƣớc, trong đó có Nguyễn Khoa Điềm.
Nói đến quê hƣơng Nguyễn Khoa Điềm ta không thể không nói riêng về
Huế - một trung tâm văn hóa của đất nƣớc. Cố đô Huế nổi tiếng với các lăng
tẩm thâm nghiêm, huyền bí, là một vùng non xanh nƣớc biếc, nơi có dòng
sông Hƣơng hiền hòa, êm dịu đã khơi nguồn cảm hứng thi ca bất tận cho các
văn nhân, thi nhân. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng đã từng viết “Có một dòng thi ca
về sông Hương… là Dòng sông trắng – lá cây xanh trong cái nhìn tinh tế của
Tản Đà, như Kiếm dựng trời xanh trong thơ của Cao Bá Quát, là nỗi Quan
hoài vạn cổ và bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ bà Huyện Thanh Quan,
nó trở thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ của Tố Hữu” (Ai đã
đặt tên cho dòng sông). Dòng sông Hƣơng còn là cái nôi sản sinh ra những
câu hò mái nhì mái đẩy tha thiết, lắng sâu:
- Thuyền từ Đông Ba thuyền qua Đập Đá
Thuyền từ Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sình
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh
Tiếng hò xa vọng nhắn tình nước non.
- Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Con ngƣời xứ Huế sống trong gian khổ nhƣng thủy chung son sắt nghĩa
tình. Vẻ đẹp tâm hồn họ phổ vào những câu hò mộc mạc:
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Xư Huế mình một dạ thủy chung
Dẫu méo tròn trong đục vẫn tươi son màu cờ.
18
Huế đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng những hình ảnh chân thực,
sinh động qua vùng đất ngoại ô nghèo, qua phận ngƣời mong manh trong
chiến tranh: ngƣời mẹ, ngƣời chị, ngƣời em, bạn bè đồng chí những đêm
không ngủ những ngày xuống đƣờng tranh đấu, những con lộ, dòng sông
Hƣơng và lăng tẩm cổ kính cũng theo vào cuộc chiến đấu. Huế không chỉ là
nguồn thi liệu phong phú mà còn kiến tạo hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ
tình sâu lắng, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc. Đặc biệt chất Huế đằm thắm
ngọt ngào hiện diện nơi giọng điệu tâm tình đôi lứa của thơ ông. Hoài Anh đã
phát hiện “Đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm tôi liên tưởng đến một khúc đàn tranh
của một nhạc sĩ Huế” [1]. Đọc thơ ông bạn đọc nhận ra đƣợc linh hồn của núi
Ngự, sông Hƣơng, của miền đất cố đô giầu truyền thống văn hóa. Quê hƣơng
miền Trung đã khơi nguồn cảm hứng cho bao thi sĩ tiền bối, đến lƣợt mình
Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần khẳng định: “Tính chất hội tụ của một vùng
văn hóa nằm gọn giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân, vừa có sức hút vừa có sự
lan tỏa, vừa biết nảy nở, vừa biết đón mời, đối với nhiều người viết được sinh
ra hoặc tình nguyện đến với mảnh đất này” [6].
Truyền thống gia đình cũng ảnh hƣởng sâu sắc tới thơ Nguyễn Khoa
Điềm. Gia đình ông có truyền thống yêu nƣớc và hiếu học. Dòng họ Nguyễn
Khoa là một dòng họ nhiều đời có nhiều ngƣời đỗ đạt làm quan. Dòng họ này,
vốn có gốc gác ở Hải Dƣơng, đến đời Nguyễn Khoa Đăng thì chuyển vào
Huế. Nguyễn Khoa Đăng làm quan đến chức Nội Tán kiêm Án sát sứ, Tổng
Tri Quân Quốc Trọng Sự, đƣợc nhân dân ngợi ca, biết ơn: Thương em anh
cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang/ Phá Tam Giang ngày
rày đã cạn/ Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm. Cụ nội Nguyễn Khoa Điềm
từng làm quan đến chức Bố Chánh trong triều Nguyễn, sau theo Cần Vƣơng
rồi từ quan về nhà. Ông nội Nguyễn Khoa Điềm là một nhà nho có tinh thần
yêu nƣớc, từng đƣợc bầu vào viện dân biểu Trung Kì do cụ Huỳnh Thúc
19
Kháng làm viện trƣởng. Bà nội Nguyễn Khoa Điềm là bà Nữ sử Đạm Phƣơng
(cháu nội vua Minh Mạng), là nhà báo, nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa - xã
hội nổi tiếng đầu thế kỷ 20. Bà viết nhiều bài báo in trên nhật báo Trung Bắc
Tân văn, trên tạp chí Nam phong …chủ yếu bênh vực quyền lợi của phụ nữ
và trẻ em, thể hiện cái nhìn tiến bộ về ngƣời phụ nữ. Cha Nguyễn Khoa Điềm
là Nguyễn Khoa Văn – tức Hải Triều, là một nhà lí luận Marxist, nhà báo, nhà
phê bình văn học nổi tiếng hồi đầu thế kỉ XX, nhà lí luận tiên phong trong
nền báo chí cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua hai cuộc tranh luận gây đƣợc
tiếng vang lớn vào thập niên 1930: Duy vật hay duy tâm và Nghệ thuật vị
nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh. Truyền thống gia đình, nhất là tƣ
tƣởng dân chủ của bà nội và ngƣời cha marxist ảnh hƣởng không nhỏ đến thơ
của Nguyễn Khoa Điềm một hồn thơ yêu nƣớc thâm trầm giầu tính triết luận.
Điều quan trọng nhất làm nên cái riêng trong mỗi con ngƣời là tƣ chất, là
cá tính. Giọng điệu thơ phụ thuộc vào cá tính, tâm hồn của chủ thể sáng tạo.
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “mỗi nhà văn có
một cái tạng riêng, nó tạo nên một thứ nam châm riêng để bắt lấy những gì
thích hợp với nó”. Cái riêng trong tâm hồn thi nhân có thể do thiên bẩm có thể
do khổ luyện mà thành. Bản thân Nguyễn Khoa Điềm ngay từ nhỏ đã đam mê
văn chƣơng. Từ khi còn là học sinh Nguyễn Khoa Điềm đã rất hứng thú tìm
hiểu nghiền ngẫm về văn chƣơng, điều đó đã giúp nhà thơ tích lũy cho mình
vốn kiến thức sách vở phong phú. Đam mê sáng tạo, Nguyễn Khoa Điềm
cũng là một thanh niên sống có lí tƣởng, có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của
bản thân, của thế hệ mình với quê hƣơng đất nƣớc. Năm 1964, sau khi tốt
nghiệp khoa văn trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về
quê hƣơng tắm mình trong cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trƣờng Bình Trị
Thiên. Trong thƣ gửi Ban phụ trách Đồng hƣơng Huế ngày 20 tháng 3 năm
1971, ông viết “Được trở lại chiến trường quê nhà, góp một phần nhỏ bé của
20
mình vào sự nghiệp chống Mĩ giải phóng quê hương cháu thấy đó là vinh dự
và trách nhiệm to lớn của mình”. Ba lô trên vai, nhà thơ đã trực tiếp cầm súng
chiến đấu, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù, thấu hiểu tâm tƣ nguyện vọng
của thế hệ trẻ đô thị miền Nam, thấu hiểu cuộc chiến đấu gian khổ bất khuất
đồng bào mình. Chính sự hiểu biết đó khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt và đem
đến chất liệu hiện thực phong phú trong sáng tác của ông. Bên cạnh việc làm
báo, xây dựng cơ sở cho phong trào học sinh sinh viên trên thành phố quê
hƣơng và thực hiện nhiệm vụ chính trị do cấp trên giao phó, Nguyễn Khoa
Điềm vẫn luôn dành thời gian để làm thơ. Khát vọng sáng tạo mang lại cho
ông nghị lực và sức lực. Nhà văn Trần Phƣơng Trà đã ghi lại hình ảnh
Nguyễn Khoa Điềm trong những ngày tháng vất vả ấy: “Nguyễn Khoa Điềm
ít nói, lặng lẽ làm việc nhưng bên trong cái dáng dong dỏng, gầy xanh ấy là
sự suy nghĩ, nung nấu, kiếm lời giải đáp cho những vấn đề mà Điềm đang băn
khoăn tìm tòi. Nhiều lần gùi gạo lên dốc cao, Điềm vừa lẩm nhẩm làm thơ.
Một lần, về đến nhà, chỉ kịp đặt gùi gạo xuống, vớ chiếc khăn mặt lau mồ hôi
Điềm ngồi vào bàn nghi ngay bài thơ Khúc hát những em bé lớn trên lưng
mẹ”. Trƣờng ca Mặt đường khát vọng đƣợc viết trong khoảng yên tĩnh ngắn
ngủi giữa hai đợt bom. Theo Trần Phƣơng Trà kể lại, mùa thu năm 1969 Đại
hội thành lập Chi hội Văn nghệ giải phóng khu Trị Thiên Huế, ngày 31 tháng
10 năm 1971 khai mạc trại sáng tác của văn nghệ khu Trị Thiên Huế. Cuộc
sống ở trại sáng tác thật khó khăn và vất vả. Để đến đƣợc trại, Nguyễn Khoa
Điềm phải đi xuyên rừng cả tuần liền, rồi lại phải cùng anh em trại viên gùi
gạo, gùi thịt hộp, mỡ và rau cho trại trong mƣa lũ suốt cả hai ngày. Các trại
viên phải ngủ tại hầm chữ A có sạp nứa và thƣờng xuyên bị bom B52 oanh
tạc. Có lần bom B52 thả xuống ngay chỗ nhà thơ và đồng nghiệp ngồi viết,
bản thảo trƣờng ca bay tứ tung, sau đợt bom lại nhặt lên viết tiếp. Ý chí nghị
lực phi thƣờng đã giúp Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành trƣờng ca Mặt đường
21