Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn dấu ấn ĐƯỜNG THI TRONG THƠ hồ DZẾNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.91 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

PHÙNG NGỌC TUYỀN
MSSV: 6075393

DẤU ẤN ĐƯỜNG THI TRONG THƠ HỒ DZẾNH

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn:

PHẠM HOÀNG NGHĨA


Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc thời Đường (618-907) là một đế chế hùng mạnh, văn minh trên thế
giới. Văn học thời Đường nói chung thơ ca đời Đường nói riêng chiếm một ví trí quan
trọng trong lịch sử Trung Quốc. Đây là thời đại hoàng kim của thơ ca thời Đường, thời kì
này xuất hiện nhiều thi nhân lỗi lạc như: Đỗ Phủ, Lí Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Xương
Linh,….tạo nên sự phồn vinh cho lịch sử phát triển thơ ca trong xã hội thời phong kiến.
Thơ ca thời Đường không chỉ có hơi thở mạnh mẽ, tràn đầy sức sống mà còn ảnh hưởng
sâu rộng đến tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của nhiều thi nhân trên thế giới. Mọi thời đại,
mọi tác giả đều đánh giá cao thơ Đường. Và nếu nói đến sức ảnh hưởng mãnh liệt của
thơ Đường ta nên nói đến sự ảnh hưởng của thơ Đường đối với thơ Việt Nam. Thơ ca
Việt Nam dù ở trung đại hay hiện đại thì đều ẩn chứa đâu đó hơi hướng của Đường thi.
Sự ảnh hưởng đó như một mặt định tự nhiên đã tồn tại sâu trong tâm thức tư duy bao thế
hệ. Ở đề tài này, chúng tôi khảo sát sức ảnh hưởng ấy ở thể hiện đại. Và điều đó thể hiện


đặc biệt rất rõ nơi tâm hồn nhà thơ Hồ Dzếnh. Hồ Dzếnh tuy là nhà thơ hiện đại nhưng
xét cho cùng không vượt khỏi khuôn khổ vừa âm vang, vừa thâm thúy của Đường thi.
Đến với đề tài “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh”, chúng tôi tha thiết muốn
tìm lại, khẳng định giá trị đáng quý cần được nghiên cứu của thơ ca dân tộc. Và hơn ai
hết, người viết muốn chạm vào phần nào đó tinh hoa thơ Hồ Dzếnh tráng lệ, nguy nga,
pha lẫn hồn Đường. Khi nói đến văn học phương Đông ta biết ngay đó là nền văn học đồ
sộ về dung lượng. Cho nên không ít những tác phẩm văn chương, những tác giả tên tuổi
dần đi vào quên lãng, không được sự quan tâm, tìm tòi, nghiên cứu.
Thực thi đề tài này chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, bởi sự chi phối ở
sức nhòe của thời gian và người đời. Đây là một đề tài thú vị và rất mới mẽ, thi sĩ Hồ
Dzếnh dường như quá xa lạ với nhân loại. Hồ Dzếnh là nhà thơ tài hoa nhưng rất bình dị,
trầm lặng như chính tác phẩm của ông. Thế nhưng đằng sau sự trầm lặng ấy là một sức
vang bất diệt, rộng lớn mang đậm dấu ấn Đường thi. Tuy nhiên, ở đây ta không nên quan
niệm cũ kỉ về “dấu ấn”, vì thơ Hồ Dzếnh mang dấu ấn Đường thi nhưng đó là một dấu ấn
rất đặc biệt, rất Hồ Dzếnh mang sức sáng tạo tuyệt vời. Xét đến chừng mực nào đó, ta
thấy thơ Hồ Dzếnh không chỉ là thơ mà còn là bến bờ của sự trở về. Bến bờ ấy bày tỏ
mọi cảm xúc sâu kín, riêng tư, thường nhật rất chân thành, ý vị. Từng lời thơ đều mang


hương thơm của sự kết tinh, chắc lọc những gì tinh túy nhất của trời đất. Thế nên, tác
phẩm của Hồ Dzếnh không dành riêng cho bất cứ ai, bất cứ thời đại nào, mà dành cho tất
cả.
Tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này, người viết mong muốn có thể hiểu sâu sắc hơn,
khoa học hơn về thơ ca Hồ Dzếnh, cũng như sự đóng góp quý báu của ông cho nền văn
học dân tộc. Đồng thời, người viết hi vọng góp một phần nhỏ để khẳng định tài hoa hiếm
có của Hồ Dzếnh. Thơ Hồ Dzếnh mang dấu ấn Đường thi, hay đó chính là dấu ấn dân
tộc, dấu ấn của một con người ngời lên nhân cách cao quý, trang nhã. Hồ Dzếnh đáng
được bao thế hệ nhìn nhận và tôn vinh.

2. Lịch sử vấn đề

Văn học là sự kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sự phát triển hoàn thiện
của từng thời đại. Ở Việt Nam, có thể nói sự phát triển đó chẳng những phải trải qua một
quá trình phấn đấu gian khổ mà còn nhờ vào việc vay mượn, tiếp thu, học hỏi tri thức của
lớp người đi trước cả trong lẫn ngoài nước. Và đó là sự học hỏi cần tư duy cao độ, vừa kế
thừa, cách tân để làm phong phú thêm vốn văn học nước nhà.
Suốt ngàn năm Bắc thuộc, nhân dân đã kiên cường đấu tranh chống lại chính sách
thống trị của chế độ phong kiến Trung Quốc, để bảo toàn quyền lợi dân tộc và tiếng nói
dân tộc. Tuy nhiên, qua quá trình tiếp xúc với các thứ tiếng khác như: Hán, Ấn,
Âu,…Tiếng Việt đã tích lũy được lượng từ ngữ rất lớn làm giàu cho kho từ ngữ dân tộc.
Ban đầu chính sách của bọn phong kiến thời Đường bắt nhân dân ta phải học chữ Hán.
Do đó, tiếng Hán thời Đường du nhập vào nước ta một cách có hệ thống. Tiếng Hán thời
Đường đã vào Việt Nam từ trước dạng ngữ âm tiếng Hán trong giai đoạn trước (Hán cổ),
lại được nhập vào nước ta một lần nữa dưới dạng ngữ âm thời Đường. Các chiều đại
phong kiến Việt Nam vẫn lấy chữ Hán thời Đường để học hành, thi cử. Mặt khác đã chọn
lọc cải biên, sáng tạo ra chữ Nôm- loại chữ dựa trên chữ Hán để tạo nên.
Có thể nói, văn học Việt Nam từ bao đời đã tiếp nhận tinh hoa văn học Trung
Quốc cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Giữa văn học Việt Nam và văn
học Trung Quốc có sự gặp gỡ rất nhiều. Vì thế, văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất nhiều
đến văn học Việt Nam, nhất là thơ ca thời Đường. Các tác giả Việt Nam như: Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Hàn Mặc Tử, Xuân


Diệu, Hồ Dzếnh….ít nhiều đã kế thừa, phát huy hình thức thơ văn Trung Quốc thời
Đường rất nhiều.
Đường thi là một đỉnh cao nghệ thuật đã có những thành tựu rực rỡ. Vì thế, đã có
rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, khám phá giá trị vô bờ của nó cũng như sức ảnh
hưởng sâu rộng của Đường thi vào văn chương thế giới. Trần Trọng Kim trong Đường
thi đã từng nhận định: “Nói về thơ Hán văn thì thơ Đường là hơn cả, tình ý cao nhã, ý
nghĩa sâu xa, có thể nuôi được cái khí hạo nhiên của con người ta tức là di dưỡng được
cái tính tình cao thượng và chân chính” [Hồ Sĩ Hiệp- Thơ Đường- trang 125]. Hay Ngô

Tất Tố từng ý kiến về Đường thi như sau: “Muốn tìm những thơ hoàn toàn xứng đáng với
tiếng mĩ thuật chỉ có thơ Đường” [ Hồ Sĩ Hiệp- Thơ Đường- trang 126]. Hai nhận xét
trên cho ta thấy được sức ảnh hưởng tâm lí quá độc đáo của Đường thi. Dưới con mắt của
nhân loại Đường thi lấp lánh như một “hòn ngọc” huyền bí.
Lý Duy Côn từng nói đến thơ ca Trung Hoa có mối quan hệ với hội họa Trung
Hoa, tạo nên nhiều tác phẩm tuyệt tác [Trung Quốc nhất tuyệt- tập 2, Nhóm dịch NXB
văn hóa thông tin Hà Nội, 1997]. Nguyễn Thị Bích Hải trong công trình Thi pháp thơ
Đường, G.S Lương Duy Thứ viết Thi pháp thơ Đường, Quách Tấn với Thi pháp thơ
Đường đã cho ta thấy được cách tiếp cận cũng như sức tác động về bề rộng lẫn bề sâu
của Đường thi là quá lớn ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Việt Nam. Thơ Đường
đã đi sâu vào tâm thức văn hóa Việt Nam. Biểu hiện rực rỡ nhất về sự gặp gỡ ấy trong
thời hiện đại là nhân cách văn hóa lớn Hồ Chí Minh. Bác đã cho ra đời văn chính luận,
truyện kí bằng tiếng Pháp nhưng lại làm thơ bằng chữ Hán theo thể Đường thi, in trong
Nhật kí trong tù, được nhà thơ Quách Mạt Nhược đánh giá là “đặt lẫn vào các tập thơ
Đường Tống cũng không phân biệt được” [Nay ở trong thơ nên có thép, Tạp chí Thi San,
Bắc Kinh, 1960]. Chính vì thế, bóng dáng thơ Đường đã tồn tại một cách đường hoàn
trong phong trào Thơ Mới(1932-1945). Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh- nhà bình
luận thơ xuất sắc của thời hiện đại đã viết:… “Huống chi trong hàng thanh niên chịu ảnh
hưởng thơ văn Pháp, nhiều người lại quay về thơ Đường. Thanh thế thơ Đường ở nước ta
xưa nay bao giờ cũng lớn. Nhưng vì cái học khoa cử, những bài viết kiệt tác ngâm đi
giảng lại gần thành vô nghĩa. Nó chỉ còn là những cái máy để đúc ra hàng vạn bài thơ dở.
Đến khi khoa cử bỏ, chữ Nho không còn là con đường tiến thân. Song thiếu niên Tây học
vẫn có người xem sách Nho, họ chỉ cốt tìm nguồn sống tinh thần. Họ di tới thơ Đường
với một tấm lòng trong sạch và mới mẽ, có điều kiện cần thiết để hiểu thơ. Cho nên dầu


dốt nát, dầu nghĩa câu nghĩa chữ lắm khi họ rất mờ, họ đã hiểu thơ Đường hơn nhiều
khoa tay bảng.
Hồn thơ Đường vắng đã lâu, nay trở về trong thơ Việt”
[Thi nhân Việt Nam].

Sách Việt Nam Văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, trình bày các cứ liệu về
luật bằng trắc, định nghĩa thơ tứ tuyệt, thơ bát cú hệ thống niêm luật… Trong chương nói
về ảnh hưởng thơ Tàu, ông có nêu những thi sĩ đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam như:
Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Lí Bạch, Hoàn Dũ, Tô Đông Pha…Vấn đề ảnh hưởng của văn
chương Tàu, đặt biệt là thơ Đường chỉ lướt qua bằng sự ảnh hưởng từ Nho, Phật, Lão
thông qua hình thức truyền bá và học hỏi của người xưa. Ngô Văn Phú trong quyển Thơ
Đường ở Việt Nam, có chương viết về sự có mặt của thơ Đường ở Việt Nam, trình bày sự
tồn tại của nhà Đường song song với lịch sử văn học Việt Nam. Chương viết về ảnh
hưởng của Đường thi đối với Hồ Chí Minh, các nhà thơ mới với thơ Đường cho thấy thơ
Đường vẫn không thể thiếu được trong món ăn tinh thần của các nhà thơ từng “tuyên
chiến” với nó.
Đến với quyển Tìm hiểu các thể thơ cổ phong đến thơ Đường luật của Lạc Nam,
tác giả trình bày cấu trúc và hệ thống niêm luật của thơ Đường, đưa ra các bài thơ do
người Việt sáng tác. Hay Một số đặc trưng của thơ tứ tuyệt đời Đường Nguyễn Sĩ Đại
nói đến những ảnh hưởng của phong vị Đường thi vào các bài thơ tứ tuyệt Việt Nam,
chẳng những ở thơ trung đại mà ngay cả ở khi thơ mới phát triển (1932-1942). Ta bắt gặp
những bài thơ mang hơi hướng của Đường thi của các tác giả như: Huy Cận, Tú Mỡ,
Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…
Tất cả những công trình nghiên cứu đó cho ta thấy được sự chú tâm rất đặc biệt và
ưu ái của thời đại đối với thơ Đường. Thế nhưng khi nói đến “Dấu ấn Đường thi trong
thơ Hồ Dzếnh” thì hình như chưa có một công trình nào đề cập đến. Đây là một đề tài
hoàn toàn mới lạ, hiện lên với cái chất tinh khôi, tươi trẻ đầy ý vị. Theo khảo sát của
chúng tôi tài liệu nói về nhà thơ Hồ Dzếnh, hay mối quan hệ giữa Hồ Dzếnh và Đường
thi là con số rất ít. Ông được đề cập rất mờ nhạt trong đội ngũ nhà thơ hiện đại Việt Nam,
mặc dù cống hiến của ông đáng phải được nói lên rất nhiều. Trong Thi sĩ Hồ Dzếnh
[Ngô Văn Phú, Lại Nguyên Ân biên soạn, NXB Hội nhà văn, 1993] có đi vào khai thác
cuộc đời sự nghiệp, sáng tác của nhà thơ Hồ Dzếnh. Vũ Bằng ca ngợi vè Hồ Dzếnh Một
hồn thơ đẹp [Văn, số đặc biệt về Hồ Dzếnh, NXB, Nguyễn Đình Vượng. Sài Gòn, 1973].



Thạch Lam với bài viết Đề tựa Chân trời cũ [trong tập “Chân trời cũ”, NXB Á Châu, Hà
Nội, 1942] đã khẳng định với chúng ta một thi sĩ “đã vượt qua nỗi khó khăn một cách
đáng vinh hạnh cho tài của ông… tác giả còn trẻ và tài của ông còn hứa hẹn cho chúng ta
nhiều”. Hay Kiều Thanh Quế Phê bình Chân trời cũ, tập truyện ngắn của Hồ Dzếnh
[Tạp chí Tri ân, Hà Nội, số 67, 1942]. Rồi đến Mai Thảo Hai nhánh sông tâm hồn trong
thơ Hồ Dzếnh [Văn, số đặc biệt về Hồ Dzếnh, NXB, Nguyễn Đình Vượng, Sài Gòn,
1973]. Trần Hữu Tá Hồ Dzếnh một hồn thơ đẹp [Tạp chí Kiến thức Ngày Nay, Thph
HCM, tháng 7. 1988]….Qua nhiều bài viết đó, chúng tôi nhận thấy chưa có nhà phê bình,
nghiên cứu nào đặc biệt quan tâm đến “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh”. Những
quá trình nghiên cứu đó chỉ điểm nhìn về một góc độ, một khía cạnh trong mênh mông
giá trị tinh thần nơi thơ Hồ Dzếnh.
Vì thế, những gì gọi là “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh” vẫn còn trong
trạng thái là một “hang động bí hiểm, mơ hồ”. Hang động ấy đang nội tại nhiều giá trị
siêu nhiên, hữu tình cần được sự lui tới của giới nghiên cứu. Tóm lại đây là một đề tài vô
cùng hấp dẫn, mang sắc thái trinh nguyên, hoa mĩ, tạo nên sự lí thú cho việc nghiên cứu.
Tự thân đề tài đã toát ra một lời khẳng định sâu sắc về giá trị tinh hoa văn học dân tộc
từng ngày, từng giờ luôn rất cần sự quan tâm, khai thác, để từ đó tìm tòi, tích góp ra nhiều
ý nghĩa sống, đang ngùn ngụt, tuôn chảy. Điều đó góp phần làm cho những sản phẩm tinh
thần không riêng gì của Hồ Dzếnh mà là của cả dân tộc sẽ sống mãi, âm vang mãi với
thời gian.

3. Mục đích yêu cầu
Nghiên cứu đề tài “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh”, người viết nhằm vào
củng cố kiến thức, không chỉ về thơ Hồ Dzếnh mà còn về thơ dân tộc. Đồng thời người
viết có dịp tiếp cận mối liên hệ giữa Đường thi và thơ Hồ Dzếnh có sự tương đồng, dị biệt
trong sự tương quan đối chiếu.
Nhiệm vụ được đặt ra trong đề tài này là:
-

Khám phá được dấu ấn Đường thi nơi thơ Hồ Dzếnh trong sự tương quan

giữa thơ Hồ Dzếnh và thơ Đường.

-

Tìm ra ở dấu ấn đó có gì mới, có gì là tinh túy làm cho thơ Hồ Dzếnh. vượt
thời đại, sống một cách bền bỉ trong lòng độc giả.


Tuy người viết gặp không ít khó khăn ở đề tài này, nhưng đây là một đề tài thú vị,
mới lạ, tạo hứng thú, say mê, tìm tòi đặc biệt cho người viết. Tiếp nhận đề tài này người
viết sẽ giúp cho tất cả mọi người có cái nhìn mới mẽ hơn về con người và sự nghiệp sáng
tác của nhà thơ Hồ Dzếnh. Điều đáng chú ý là trong suốt quá trình sáng tác thơ, Hồ Dzếnh
vừa có sự kế thừa, tiếp thu, vừa có sự phát huy, sáng tạo. Đề tài không chỉ giúp chúng ta
hiểu thêm về một tác giả văn học đầy tài năng, mà còn giúp ta ý thức được là ở tận cùng
sâu thẳm của tất cả công trình nghệ thuật nào, dù nhỏ bé hay ít ỏi đến đâu thì đều có một
giá trị riêng của nó. Và giá trị ấy đáng phải được mọi người dày công tìm hiểu và trân
trọng.

4. Phạm vi nghiên cứu
Văn chương nghệ thuật là thế giới tinh hoa vô cùng, vô tận. Các ý nghĩa tư tưởng
luôn tiềm ẩn, phong phú. Ở đề tài này, với khả năng hiểu biết có hạn chúng tôi chỉ có thể
nghiên cứu về “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh” ở một vài khía cạnh tiêu biểu qua
một số bài thơ cụ thể. Trước tiên, người viết đi vào tìm hiểu lí luận so sánh văn học, sự tiếp
cận, ảnh hưởng của Đường thi với văn học Việt Nam, bối cảnh xã hội thời Hồ Dzếnh, đặc
trưng của Đường thi và các tác phẩm thơ Hồ Dzếnh. Người viết sẽ hướng người đọc thấy
được nét phong cách riêng của tác giả mang đến giá trị đích thực cho thơ ca văn học dân
tộc.
Theo đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ tập trung vào những vấn đề liên quan
tới đề tài. Tất nhiên, trong quá trình tiến hành, chúng tôi cũng cố gắng mở rộng, liên hệ tới
một số tác phẩm Đường thi khác trong quá trình tiếp nhận của người Việt.Về phạm vi tư

liệu của đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào các tư liệu thành văn bằng chữ Quốc ngữ. Với
yêu cầu như thế, đối tượng khảo sát tìm hiểu là so sánh văn học và thơ ca Hồ Dzếnh, cùng
các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như: Đường thi, Thi pháp thơ Đường, Thơ
Đường ở Việt Nam, Thi sĩ Hồ Dzếnh,.…Trong điều kiện cho phép chúng tôi sẽ đi vào chọn
lọc nguồn tài liệu thích hợp, phục vụ đắc lực cho đề tài. Và điều đáng chú ý chỉ khảo sát ở
một số bài thơ tiêu biểu trong nguồn thơ vô giá của Hồ Dzếnh để làm sáng tỏ giá trị, ý
nghĩa nghiên cứu của đề tài.

5. Phương pháp nghiên cứu


Đây là một đề tài mới lạ, phức tạp nên đòi hỏi sự cố gắng rất cao ở người viết. Để
hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã tâm huyết rất nhiều. Từ việc khảo sát, tìm tài liệu,
tham khảo, nghiên cứu ở những ý kiến, nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu, kết hợp với
suy nghĩ , tư duy của bản thân. Bên cạnh, phối hợp với những công trình nghiên cứu về
Đường thi, về thơ ca Hồ Dzếnh. Tất cả đã trở thành tư liệu xương máu để chúng tôi tiến
hành tập hợp, thống kê, chọn lọc, loại suy giúp tài liệu nghiên cứu tập trung vào vấn đề
trọng tâm. Từ đó, người viết vận dụng phương pháp chứng minh, phân tích, giải thích, so
sánh và cuối cùng là tổng hợp. Trong đó, phương pháp so sánh, chứng minh, phân tích là
quan trọng nhất để làm nổi bật từng phạm vi cụ thể của nội dung đề tài, đó cũng là những
phương pháp rất cần thiết cho người viết vận dụng xuyên suốt để thực hiện hoàn chỉnh đề
tài.


Phần II: NỘI DUNG CHÍNH
DẤU ẤN ĐƯỜNG THI TRONG THƠ HỒ DZẾNH
Chương 1: KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.TIẾP NHẬN VĂN HỌC NÓI CHUNG, TIẾP NHẬN THƠ NÓI RIÊNG Ở
VIỆT NAM:

Văn chương là kho báu của nhân loại. Kho báu ấy có huy hoàng, trang trọng hay
trường tồn không còn tùy thuộc rất nhiều vào thái độ tiếp nhận của công chúng.
Quá trình tiếp nhận văn chương bao hàm cả tính khách quan, khái quát và tính chủ
quan sâu sắc. Tính khách quan thể hiện ở việc tiếp nhận tác phẩm văn chương kèm theo
hiểu biết về hoạt động lịch sử, xã hội chứ không riêng là một hoạt động cá nhân chủ quan
thuần túy. Vì ta đã biết đa phần tác phẩm văn học là phản ánh xã hội theo dòng lịch sử. Từ
thời điểm khác nhau, người đọc sẽ chào đón và có cách hiểu khác nhau phù hợp với xu
hướng phát triển của thời đại. Đồng thời phù hợp với quan điểm thẩm mĩ từng cá nhân, rút
ra được gì, học hỏi được gì từ những tác phẩm tình thần đó. Điều đáng quan tâm là nếu
như tác phẩm văn chương được đánh giá hoàn toàn theo hướng chủ quan cá nhân thì rất dễ
rơi vào sai lệch, thiếu chuẩn xác. Tuy nhiên, ở mỗi người đọc đều có sự khám phá văn
chương nghệ thuật không chỉ lấy nền tảng từ những khái quát, mà còn dựa vào những điều
rất cá nhân như: năng lực, kinh nghiệm, khả năng cảm thụ, thị hiếu thẩm mĩ, lập trường tư
tưởng…Điều cần thiết là người đọc cần chịu khó tìm tòi, đào sâu những tầng bậc ý nghĩa
nằm sâu dưới bề mặt con chữ. Nói chung, từng chủ thể tiếp nhận khi đứng trước một tinh
hoa nghệ thuật thì cần phải quy tụ cao độ trí lực và tinh yêu thật sự của tâm hồn để cảm
nhận. Độc giả phải toàn tâm, toàn ý tìm đến tác phẩm văn chương mới có thể nắm bắt
được nguồn mạch thật sự. Đó là tâm thế cần sự tinh tế, nhạy cảm và chân thành của độc
giả. Đây cũng là một phương thức tinh tường để thâm nhập vào chiều sâu tác phẩm văn
chương, tiến gần đến sức nặng của ý nghĩa hình tượng nghệ thuật. Từ tâm thế tiếp nhận
nhiều màu sắc đó đã làm cho ý nghĩa của tác phẩm văn học thêm phần phong phú và màu
nhiệm.
Đối tượng tiếp nhận văn học như một yếu tố bên trong của quá trình sáng tác. Có
khi đọc giả chính là nguồn cội xuất phát của văn chương và cũng là nơi trở về của văn
chương. Từ người đọc những yếu tố tình cảm, những rung cảm thẩm mĩ, tư tưởng, tâm


huyết…của nhà văn, nhà thơ sẽ bộc lộ rõ nét và khách quan. Do đó, có thể nói đó là yếu tố
chi phối mạnh mẽ đến giá trị văn học nghệ thuật. Từ đó, có thể đánh giá được sự phát triển
của nền văn học ở một thời đại.

Tiếp nhận nghệ thuật là một trạng thái tâm lý được nhìn nhận trên bình rộng rãi,
không giới hạn ở một tầng lớp, giai cấp, lứa tuổi, tôn giáo…Chính điều này tạo ra tính đa
dạng và đa diện của tác phẩm văn chương từ chủ thể tiếp nhận. Hơn thế nữa, khi đến với
hình tượng nghệ thuật người đọc luôn có óc quan sát tinh tường, tư duy tổng hợp, so sánh
đối chiếu, đặt trong mối quan hệ với hoàn cảnh bản thân để liên tưởng phát hiện ra giá trị
tác phẩm từ quan hệ mới. Có thể nói, nếu không có tinh thần tiếp nhận của độc giả thì đời
sống của thế giới văn chương sẽ không tồn tại.
Ở tâm thế tiếp nhận, ta cần nói đến cảm xúc thẩm mĩ ở từng thời đại. Tùy theo
quan điểm của từng chủ thể, có lúc tác phẩm văn chương được ca ngợi, trầm trồ, có lúc lại
phê phán nặng nề. Nhưng xét thấy, đó cũng là một điều kiện tiếp nhận, đánh giá rất cần tha
thiết cho văn học nghệ thuật. Bởi trong cuộc sống, càng nhiều góc nhìn, càng nhiều nhận
định, chọn lựa thì càng tinh tế, sâu sắc. Những tinh thể càng được rạng lọc, lắng đọng thì
sẽ càng quý giá. Vì thế, để tôn vinh tài sản quý giá ấy hãy luôn đề cao vai trò tiếp nhận văn
chương, cùng một tâm thế tiếp nhận toàn vẹn, có cái nhìn mang sức khái quát qua từng
thời đại.
Nền văn học nào cũng cần đến sự quan tâm tiếp nhận, nghiên cứu đánh giá trên
tinh thần, thái độ tích cực. Khi bàn đến sự tiếp nhận được thu gọn trong thế giới Đường
thi, thế giới văn chương tinh túy đã tồn tại theo chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Nhân loại
không chỉ tâm đắc, ngợi khen ngưỡng mộ thơ Đường ở một thời đại mà trong muôn thời
đại. Thơ Đường vẫn rạng ngời qua hàng ngàn năm sau. Từ sâu trong tâm thức của đối
tượng từng ôm ấp Đường thi đều nhận thấy nét chung qua sự cảm nhận. Đó là tính hàm
súc, chứa đựng những tình cảm dạt dào trong thơ Đường. Bên cạnh cũng có những thái độ
đã kích thơ Đường ở những câu chữ khắc khe, gò bó, niêm luật khuôn khổ, làm cản trở sự
tuôn chảy tâm tình của con người. Đường thi đã vững bước, oai phong qua bao năm tháng
nhận được không ít thái độ tiếp nhận của bao độc giả. Nhưng dường như đối với những
người biết trân trọng thật sự với thơ Đường thì Đường thi vẫn luôn lấp lánh, trang hoàng.
Đối với dân tộc giàu tấm lòng như Việt Nam thì luôn dành riêng cho Đường thi một sự lưu
tâm, nâng niu hết mực. Đó là những hành trình xuất phát từ trái tim và đáy lòng chân thật
nên chắc chắn sẽ bộc lộ được giá trị tuyệt mĩ vốn có của Đường thi.



Dù là nhà nghiên cứu chuyên sâu, uyên bác về văn chương nghệ thuật hay chỉ là
lớp độc giả bình thường thì đều cho ta thấy sự yêu thích, gắn bó, tiếp nhận thật sự của cuộc
đời dành cho vùng đất văn chương, đặc biệt là thơ ca. Tiếp nhận văn học nói chung hay
tiếp nhận thơ nói riêng luôn vận hành tồn tại trong mối quan hệ giao hòa, ưu ái lẫn nhau.
Điều này không chỉ riêng ở Đường thi mà là cả ở văn chương trên toàn thế giới cũng thế.
Tóm lại, từ tâm thế tiếp nhận văn học nói chung, tiếp nhận thơ nói riêng bằng sự
tổng hợp tư duy, cảm xúc thẩm mĩ đã mang đến cho chúng ta cách nhìn hoàn hảo. Chính
điều này đã tô điểm thêm cho tác phẩm văn chương sự trọn vẹn, viên mãn, tròn trịa hơn về
ý và tình cùng sức sống bất diệt. Đồng thời hướng đến sự tập hợp giá trị đã được lưu
truyền sâu rộng của văn chương nghệ thuật từ phía tiếp nhận của bao thế hệ.

2. VĂN HỌC SO SÁNH VÀ SO SÁNH VĂN HỌC Ở VIỆT NAM
Văn học so sánh nghiên cứu việc tiếp nhận văn học văn học so sánh nghiên cứu
việc tiếp nhận văn học. Trước hết ta cần hiểu thế nào là so sánh. So sánh là đối chiếu các
đối tượng để tìm ra những tương đồng và khác biệt giữa chúng. Đó là một thao tác tư duy,
một phương pháp nhận thức sự vật, sự việc, hiện tượng, là tiền đề quan trọng nhất của khái
quát hóa đã có hàng ngàn năm. Khi nói đến so sánh trong lĩnh vực văn học ban đầu chỉ là
một phương pháp nhưng lâu dần cùng với sự tiến bộ khoa học nói chung, sự giao lưu văn
hóa, kinh tế, chính trị, triết học,…đã dẫn đến sự hình thành và phát triển của văn học so
sánh trên thế giới như một ngành, một bộ môn của khoa nghiên cứu văn học và trở thành
một bộ phận không thể thiếu của văn hóa so sánh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của dân
tộc và cộng đồng nhân loại.
Thuật ngữ “Văn học so sánh” xuất hiện đầu tiên ở Pháp (1816), với tư cách
chuyên ngành có lịch sử từ khoảng giữa thế kỉ XIX ở Châu Âu-Năm 1841. Sang thế kỉ XX
văn học so sánh phát triển vượt Đại Tây Dương sang Mĩ, Nhật, Trung Quốc và nhiều nơi
trên thế giới. Ngay từ mới ra đời, văn học so sánh cũng phải đấu tranh rất vất vả để tự
khẳng định mình, bởi lúc đầu còn rất nhiều quan niệm phủ nhận nó.Tuy nhiên, thực tế đã
xác định và bổ sung đối tượng nghiên cứu cho văn học so sánh. Văn học so sánh ban đầu
chỉ là một phương pháp dùng để xác định, đánh giá các hiện tượng văn học trong mối quan

hệ giữa chúng với nhau. Và so sánh văn học ở đây đòi hỏi không chỉ so sánh văn học nước
này với văn học nước khác mà còn phải cho thấy được mối quan hệ giữa văn học với các
lĩnh vực tri thức khác. Đồng thời chú trọng phương diện tiếp nhận và tổng hợp cả lịch sử,


lí luận, phê bình, sáng tác ở nhiều bình diện từ ngôn ngữ, thể loại đến kết cấu, tình điệu,
quan niệm…
Văn học so sánh ở Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ XX. Lê Phong Tuyết đã thống kê thì
so sánh văn học Việt Nam và Âu Mĩ có hơn 61 bài. Các bài nghiên cứu so sánh văn học
Việt Nam và Trung Quốc theo Nguyễn Hữu Sơn tính trên tạp chí Văn học có 71 bài, so
sánh văn học dân gian Việt Nam và thế giới theo tài liệu của Nguyễn Xuân Kính có
khoảng trên 50 bài. Tất cả những điều đó tuy chưa có gì đáng kể nhưng phần nào đã tạo
bước điệm cho ngành nghiên cứu văn học so sánh Việt Nam phát triển.
Phạm vi nghiên cứu của văn học so sánh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, dưới
những hình thức khác nhau và bằng nhiều phương pháp khác nhau. M.-F. Guyard đã viết
vào năm 1951 rằng: “Khi không còn mối quan hệ nào nữa, cho dù đó là quan hệ của một
người nào đó với một văn bản, của một tác phẩm nào đó với môi trường tiếp nhận, của
một đất nước nào với một du khách, thì khi đó phạm vi của văn học so sánh mới kết
thúc...”. Khi nói đến phạm vi nghiên cứu của văn học so sánh, trước tiên, chúng ta phải kể
đến việc nghiên cứu ảnh hưởng của nền văn học này đến nền văn học khác, của tác giả này
với các tác giả khác. Ví dụ như việc nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Pháp với văn học
Việt Nam, việc nghiên cứu ảnh hưởng của Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân tới Truyện Kiều của Nguyễn Du… Phạm vi nghiên cứu thứ hai của văn học so sánh
là nghiên cứu dịch văn học. Nghiên cứu dịch văn học bao gồm việc nghiên cứu các trào
lưu và xu hướng dịch văn học, nghiên cứu việc tiếp nhận một tác phẩm nước ngoài thông
qua bản dịch, nghiên cứu các thao tác hay quan điểm dịch thuật của các dịch giả văn học,
đối chiếu bản dịch và bản gốc, đối chiếu nhiều bản dịch khác nhau của cùng một tác
phẩm…Văn học so sánh kế đến là nghiên cứu mối quan hệ giữa xã hội và văn học qua
ngành xã hội học văn học. Quan niệm truyền thống cho rằng văn học là một thực thể xã
hội. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn học tạo thành một trường riêng trường văn học, bên cạnh trường xã hội. Vị trí của một nền văn học, của một tác giả, một

tác phẩm, một sự kiện văn học phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố xã hội như tôn giáo,
chính trị, văn hoá, kinh tế, kỹ thuật, phong tục tập quán, tư tưởng... Các yếu tố xã hội giao
thoa với nhau để kéo một đối tượng văn học vào vùng trung tâm, hoặc đẩy nó ra phía
ngoại vi. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của trường xã hội đến trường văn học có thể theo
nhiều chiều tiếp nhận. Nghiên cứu tiếp nhận văn học trong văn học so sánh có thể là việc
nghiên cứu quá trình một độc giả tiếp nhận một tác phẩm chẳng hạn nghiên cứu quá trình


Việt Nam tiếp nhận chủ nghĩa lãng mạn Pháp, hay so sánh việc tiếp nhận một tác giả giữa
dân tộc này và dân tộc kia: so sánh việc tiếp nhận đại văn hào Victor Hugo giữa Trung
Quốc và Việt Nam. Cuối cùng, chúng ta có thể kể đến việc nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn học và các loại hình nghệ thuật khác. Sự tương đồng và dị biệt giữa, Chí Phèo của
Nam Cao và bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy? Hay nhân vật Sương trong Cánh đồng bất tận
giữa tác phẩm văn học và phim có gì mới mẽ và khác biệt? Đó là những câu hỏi mà một
nhà nghiên cứu văn học so sánh có thể đặt ra khi tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học với
các loại hình nghệ thuật khác.
Văn học so sánh là một khoa học độc lập tương đối, nó có phương pháp luận riêng
của nó và hệ phương pháp của nó bao gồm các phương pháp khác nhau như phương pháp
so sánh lịch sử, so sánh thực chứng, phương pháp so sánh cấu trúc, so sánh ký hiệu học, so
sánh văn bản học, so sánh loại hình…So với thế giới, văn học so sánh ở Việt Nam chậm
chân hơn nhiều trong tư cách một chuyên ngành nghiên cứu văn học có hệ thống lí luận,
định hướng phát triển và tổ chức thực hiện. Cho đến nay vẫn chưa có bộ môn Văn học so
sánh ở các trường Đại học và viện nghiên cứu. Trong bài Văn học so sánh ở Việt Nam – lí
luận và ứng dụng TS. Nguyễn Văn Dân nhận xét: “Nghiên cứu văn học so sánh ở Việt
Nam chưa có đủ bề dày lịch sử để được chia thành nhiều giai đoạn”, “Văn học so sánh ứng
dụng ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, nhưng đồng thời nó vẫn còn
có những việc làm ngẫu hứng. Có lẽ đó cũng là kết quả của một tình trạng thiếu lí luận về
văn học so sánh ở nước ta”. PGS. TS. Lưu Văn Bổng trong Văn học so sánh – Lời dẫn
nhập mở đầu công trình tập thể dày dặn Văn học so sánh – Lí luận và ứng dụng cho
rằng: “Trong ba bốn thập kỉ gần đây, Văn học so sánh đã được giới nghiên cứu, giảng dạy

ở ta quan tâm. Cũng có nhiều cách tiếp cận bộ môn nhiều mới mẽ này”. “Có lẽ phải đến
cuối thập kỉ 70 bài Văn học so sánh ở Hungari (1945-1978) của nhà so sánh học Hungari
Sz. Lazlo đã như một “cú hích” mới mở đầu cho sự khởi động của giới nghiên cứu văn học
nước ta tìm hiểu lí luận văn học so sánh và khẳng định” [Tạp chí Văn học số 3, 1 ‘‘Thi, Nhạc, Họa’’đến như thế. Với cảm
hứng sáng tác chân thành Hồ Dzếnh đã bày tỏ tâm tư, nỗi niềm sâu kín, sự trải nghiệm ở đời
rất đậm nét. Chú ý hai câu cuối cùng trong bài thơ Chiều ta thấy tài phác họa của Hồ
Dzếnh vô cùng độc đáo :
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…
Đây là một chi tiết đặc biệt cho mạch cảm xúc toàn bài thơ, tạo cảm giác màu
khói huyền đang hòa quyện quấn lấy cả chòm cây, cảm xúc nhớ cố quốc da diết đang bao
trùm, ôm trọn “người lữ khách”, sức lan tỏa của màu khói mang nhiều hàm ý sâu xa mơ hồ,
khó tả. Một nỗi niềm miên man, lơ lững, chập chờn. Một tâm trạng chấp chới như đang bay
hòa vào vạn vật. Thi liệu nhẹ nhàng, âm sắc du dương bao phủ bởi một loại nhạc trữ tình
quyền rũ. Dương Thiệu Tước dường như tôn trọng trọn vẹn nguyên tác của Hồ Dzếnh, vẫn
giữ nguyên nhịp điệu mà Hồ Dzếnh thổi vào, chỉ gia tốc thêm nâng lên cảm xúc, tạo ra âm
hưởng đồng điệu, một tiến độ tiên tiến, không phá vỡ chất buồn trĩu xuống nơi nhà thơ. Tất


cả làm cho âm điệu cõi lòng say sưa hơn, ngân vang hơn, mờ nhạt hơn nhưng thấm thía lạ
thường. Đây cũng là một trong những thứ mùi vị đặc sắc điểm tô cho hồn thơ Hồ Dzếnh.
Đặt trong mối tương quan ta thử tìm đến hai câu thơ của Vương Duy trong Tổng
Tử Châu Lý Sứ Quân:
Sơn trung nhất dã vũ
Thụ sao bách trùng truyền
(Trong núi một đêm mưa
Ngọn cỏ trăm dòng thác).
Một đêm mưa nước từ trong khe núi xa xa trên xuống thành cả trăm dòng thác,
cho một cảm giác như từ một ngọn cây đổ xuống ngay trên đầu mình. Tất cả được Vương
Duy vẽ nên một mặt phẳng. Đó là bí quyết tích tụ phát hiện độc đáo của tác giả Đường thi.

Nhà thơ không bao giờ diễn tả cho hết ý tứ của mình, mà chỉ dùng vài nét vẽ đơn sơ, thanh
đạm, tinh xác để gợi hình, tạo nên một bức tranh hữu tình đa âm, gợi trường liên tưởng cao
cho độc giả.
Ở Hồ Dzếnh nếu như ta thấy đó là sự tiếp thu, kế thừa, tái phát hiện gợi hình ảnh,
thể hiện tâm tình từ các thi sĩ Đường thi thì đó là sự tiếp thu, kế thừa tuyệt mĩ nhất. Bởi đó
không hẳn là sự tiếp thu, mà rõ ràng là sự kế thừa đầy trách nhiệm về sự nghiệp truyền
thống, đầy sáng tạo từ dòng máu Hoa – Việt tuôn chảy tràn trề trong tâm thức lâu đời của
ông. Thơ ông luôn chìm đắm trong bao nét đặc tả với chiều cao, rộng vô hạn lại im lặng lạ
lùng. Qua đó ẩn chứa niềm mê đắm tâm tư:
…Bóng mờ xuống lặng chân cây
Non cao vắng vẻ, sông đầy nhớ mong…
(Sang thu)
Khung cảnh im lìm quá đổi vắng vẻ một cách bải hoải, bơ phờ dễ đưa hồn ta nằm
im lặng nghe những âm thanh lẻ loi, rời rạc, ngằn ngũi với sự phồn tạp khuấy động. Đây là
chuỗi âm thanh của khúc nhạc lòng, như tiếng buồn trên kia và tiếng xe đi nơi này “xe đi
rộn tiếng qua chiều” chỉ trong vài ba giây phút qua mà thôi. Toàn thể vạn vật, núi sông, mái
lều chuyển một màu đặc tả nên thế giới thơ Hồ Dzếnh, cùng loại âm nhạc nhẹ nhàng lan tỏa,
không réo rắt, bùi tai như Đường thi mà là loại nhạc với tính chất chống đối âm thanh thực
tại, tìm về những hợp âm sâu lắng chìm khuất trong nơi thâm sâu của tâm hồn. Chẳng hạn
trong bài Trưa vắng ta sẽ nghe thấy rõ sức thể hiện “lạ” mà “đắc” của âm vị này:


…Hồn xưa dậy: chim cành động nắng
Lá reo trên hồ lặng lờ trong
Trưa im, im đến não nùng
Tôi ngờ trống học trong lòng trưa vang...
Quả thật, qua đoạn thơ của Hồ Dzếnh ta không thể nào dựa vào câu chữ mà liên
tưởng hết được ý nghĩa tận cùng. Một buổi trưa “im“ đến độ não nùng, nhưng thấp thoáng
đâu đây âm thanh của tiếng lòng hoài niệm, hồn nhiên của chủ thể trữ tình. Cảm giác sửng
sờ, ngơ ngẩn một cách đột ngột nhưng lại thoi đưa. “Trưa vang’’ tạo sự thanh thản, nhã

nhặn, cảm giác miên man khi đối diện ngoại cảnh đậm tình. Hồn xưa đang lay dậy nhưng
không buồn hoạt động, chịu sức hút mạnh mẽ nơi thế giới bên ngoài, tạo ra một không gian
lạnh ngắt, xô hồn ta đắm chìm trong một âm điệu dìu dịu, thầm thì giữa cảnh trưa thanh
nhạt, réo gọi tâm tư. Hồ Dzếnh đã lột tả một trạng thái xuất thần của con người cõi thế,
những người có một tâm hồn tinh khiết, thông thái.
Hồ Dzếnh không ngừng thả hồn mình trọn vẹn vào cõi thơ, vào thiên nhiên, vạn
vật để rồi phác họa ra những án thơ hiện lên lộng lẫy, với tâm thế gợi tả sắc sảo. Thanh âm
trong thơ lay láng, trong trẻo, thuần túy, mê hồn. Ngất ngây từ những câu từ gợi ý, gợi tình
chân chất, ta cảm được Hồ Dzếnh đã chạm vào rất sâu cái nhạy của tâm hồn bao người. Nó
như một chất xúc tác rất nhanh, rất mạnh động vào đầu lưỡi tạo ra một vị ngọt thanh tao mãi
thấm sâu vào võ đại não và dừng lại lâu để phân tích, giải mã ra nhiều ý vị. Chính từ khả
năng tạo cảm giác đặc biệt đó, Hồ Dzếnh đã rất thành công trong sự nghiệp nối kết tâm hồn
đến tâm hồn. Và đó cũng là quá trình hàn gắn cảm xúc tiếp nhận mọi lời thơ, ý nhạc.
Khảo sát, mài mò từng kiệt tác tinh thần của Hồ Dzếnh ta sẽ cảm được ít nhiều thi
vị của cuộc sống, không chỉ từ thơ mà từ cuộc đời thật những ý nghĩa thâm thúy sẽ được
bộc bạch. Dù cuộc đời thật không ít phũ phàng, ngang trái. Nhưng chính thực tế cũng là nơi
khởi nguồn cũng là nơi trả về của bao tinh chất văn chương đậm đà thi hứng. Bởi thế mà thơ
Hồ Dzếnh có được sự thống nhất tam thể, không chỉ ở sự kế tục mà ở tư duy sáng tạo, đúc
kết ngay cuộc đời thật. Đến với thơ Hồ Dzếnh như đến với một thảo nguyên tươi mát, hài
hòa nhiều thanh điệu, màu sắc nhiều động tác, nhiều nét vẽ nghệ thuật đa âm, đa cảm:
…Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng êm gió thoảng tơ chùng chốn xa


Đâu tình tàu chậm quên ga
Bâng khuân gió nhớ về hoa lá đầy…
(Mùa thu năm ngoái)
Cùng dòng tâm trạng, cùng mạch chảy cảm xúc, nhưng lời thơ lại tỉ mỉ từng hang
cùng ngõ hẽm tâm hồn, lại còn mang cái chất khác rất phong phú, phức tạp. Mọi trạng thái
diễn ra đa dạng, có thể chậm chạp hững hờ, có thể ngưng bật bất cứ lúc nào: “Chiều buồn,

tơ chùng, bâng khuâng”, mọi chuyển động thưa dần, đến nỗi chỉ còn lại những âm thanh tàn
nuối, rã rời, rõ theo một nhịp mỏi mòn khôn nguôi:
Rạc rời vỏ ngựa quá quen
Cờ treo ý cũ mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng chân ngư
Non xanh tha thiết, trời thu rượi sầu,..
(Phúc linh cầu)
Mọi thứ dường như dừng lại ngay giữa dòng trôi chảy miên man, dàn rộng đến
tận cùng nỗi bổng chốc chậm chạp, không khuây khỏa: “Chiều chậm đưa chân ngày”. Như
đã nói thơ Hồ Dzếnh phác họa những đường nét tâm tư tuyệt diệu, trộn đều với tiếng nhạc
lắng đọng xuống bề sâu lan ra cả bề rộng tích tụ, đặc quanh với thời gian mà chừng như ta
không thấy rõ được bước luân chuyển nhịp nhàng, khẽ đọng.
Do đó, ta thấy với ngòi bút tài hoa của mình, Hồ Dzếnh đã gợi lên những bức
hoạt thật mĩ miều, có giá trị sâu sắc với đời hài hòa những âm điệu đậm tình sâu lắng, tạo
nét thanh tao cho thơ ông với cái chất thần bí, ngài ngạt hồn Đường. Tuy nhiên, vẫn thoang
thoảng nguyên vẹn cái khí chất rất riêng của Hồ Dzếnh. Thi sĩ mang một khí chất lẫm liệt,
oai phong, hun đúc nên những trang thơ tầm cở, có sức đồng vọng cao sâu, tĩnh tâm, tĩnh tại
để đào sâu cái động luôn bồn chồn, thao thức. Ở đó có sự giao hòa kinh mạch, hòa phối chặt
chẽ giữa tam thể thẩm mĩ “Thi, Nhạc, Họa”, không yêu cầu phân tích, miêu tả nhưng lại gợi
khả năng liên tưởng xa hơn, tình cảm sâu nặng hơn, đem đến “cái duyên” muôn đời cho thơ
Hồ Dzếnh.

2.2.2. “Ý tại ngôn ngoại” trong thơ Hồ Dzếnh
Nền văn hóa đặc sắc, đồ sộ Trung Hoa đã ào ạt tràn vào nước ta từ rất sớm, nhanh
chóng bén rễ và ngự trị tâm thức người Việt Nam bằng sự đồng điệu, gần gũi. Tuy đó không


phải là sự hài hòa về mọi mặt nhưng lại là một sự thân cận dễ chịu. Khi một dân tộc này tiếp
nhận cái tinh túy của dân tộc khác. Cái dễ chịu ấy đồng thời khẳng định được vị trí và giá trị
của dân tộc Việt Nam, ý thức được đó là sự đồng điệu chứ không phải đồng hóa. Ở đây ta

nhận thấy mạch đồng điệu rất rõ qua sự gặp gỡ giữa các thi sĩ Việt Nam với thi sĩ Trung
Hoa. Mạch đồng điệu vô hình tới mức như ăn sâu trong từng thớ thịt, từng khoang tim con
người. Do đó, nhiều thi sĩ đã trở thành tri kỉ, tri âm, thấu hiểu nhau trong tâm thức giao cảm
qua thơ. Nói đến “Ý tại ngôn ngoại” là nói đến cái đặc trưng dành cho cả Đường thi và cả
thơ ca Việt Nam mà cụ thể ta tìm tòi đặc trưng đó nơi thơ của Hồ Dzếnh.
Với đề tài thú vị “Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh” ta có dịp tìm tòi trong
từng bài thơ của Hồ Dzếnh thấy phảng phất phong vị tuyệt đỉnh. “Ý tại ngôn ngoại” của
Đường thi. Sự hòa phối của hai tâm hồn phương Đông trong sự chung đúc nên khí thiêng
của văn hóa, của ý thức nghệ thuật truyền thống. “Ý tại ngôn ngoại” là sự kết hợp hài hòa
thống nhất trong khái niệm “Ý tượng”. Hà Cảnh Minh từng đưa ra nhận định: “Ý tượng
thích ứng là hợp, ý tượng trái nhau là ly”. Với thơ ca cái hình tượng luôn luôn biểu đạt toàn
diện cái ý của chủ thể hơn là cái không hình tượng. Chỗ tuyệt của hình tượng nghệ thuật và
ngôn ngữ văn học phải luôn luôn thống nhất không thể phân chia. “Ngôn” đã hình thành
tượng hóa để thể hiện tình cảm con người. Trần Đình Chước đời nhà Thanh nói: “Tả nỗi
lòng của người chồng xa nhà, người vợ nhớ chồng, tính cảm của kẻ cô thần nghiệt tử. Tất
cả mối giao tình lạnh nhạt, thân thế long đong đều có thể phát ra ở cọng cỏ, nhành cây”
[Chu dịch và mỹ học – Trang 341].
Mỗi con người Việt Nam luôn có một hướng tiếp cận, cảm nhận, tư duy riêng để
khám phá cái thoáng nhẹ sâu lắng của Đường thi, là thi sĩ Hồ Dzếnh hiểu rất rõ thế nào là sự
hòa nhập, thế nào là sự thăng hoa trong một kiểu tư duy thẩm mĩ. Mặc dù, khi sáng tác hay
sau khi sáng tác được những tác phẩm có giá trị để đời thì Hồ Dzếnh vẫn xem ngòi bút cùng
tư duy của mình còn non yếu. Tận sâu thẳm nhà thơ vẫn không hề hướng đến mục đích sáng
tác theo lối này hay lối khác, mang dáng Đường thi hay tư tưởng hiện đại. Vậy mà, khi
ngâm nga thơ Hồ Dzếnh, ta thoáng nghe được cái âm vang triết lí ở bề sâu ngôn ngữ. Ta
cảm nhận được ngần ấy điều hay khi tiếp cận thơ Hồ Dzếnh là phần nào nắm bắt được cái
thần của biểu hiện độc đáo về “Ý tại ngôn ngoại” trong thơ ông.
Qua đó, ta thấy để nắm chắc được bản chất thật sự của thơ Hồ Dzếnh không đơn
thuần là dựa vào những chi tiết ngôn ngữ cụ thể, mà phải cảm và hiểu bằng cả trái tim mình.
Chính nguyên lý này đã khẳng định được sự đồng điệu giữa thơ Hồ Dzếnh và Đường thi là



tất yếu, là tự nhiên tạo nên dấu ấn rất sâu, rất lạ, tồn tại hiển hiện. Điều đó nói lên sự gặp gỡ
đặc thù giữa nhân sinh quan từ sự tiếp nhận đến cách tân sáng tác.
Khảo sát lại hai câu cuối của bài Chiều ta thấy cái thâm thúy Đường thi được tạo
lập rất sâu với màu chiều vô vàn cảm xúc:
…Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…
Hai câu thơ kết thúc như bỏ ngõ nhưng lại tạo ra dư âm của sự khởi đầu bao suy
tưởng. Cái dư âm ý ở ngoài lời ngắn gọn, cô đọng. Ngôn ngữ thơ trên bề mặt lúc nào cũng
rõ ràng cụ thể, nhưng cái lời thủ thỉ bên tay của Hồ Dzếnh là cái “ý” không thể tận. Nó
mang một chiều sâu ý nghĩa của trái tim trầm lặng nhiều tâm sự, nhiều triết lý nhân sinh.
“Khói huyền” bay lan tỏa, tràn trề, mênh mông, chồng chất theo muôn trùng mạch cảm xúc
phức tạp. Hồ Dzếnh chỉ nói nhớ nhà rồi châm điếu thuốc nghe rất thanh nhàn, thi sĩ thả lỏng
tâm trạng, bỏ mặt tất cả, bỏ cả bản thân, cả độc giả muốn hiểu như thế nào thì tùy ý về nỗi
nhớ của ông. Thật sự đó là dụng ý rất đắc của Hồ Dzếnh, ông đã tạo ra được hồn thơ đưa
đẩy, cho chất thơ của mình tự do vùng vẫy với cái vốn có của nó. Đồng thời để độc giả tự do
liên tưởng theo sự tích góp riêng của mình. Và cũng từ đó, hai câu thơ mang tính hàm xúc
rất cao, góp phần làm nên ý tại ngôn ngoại, “ý bất tận ngôn”, “Ngôn bất tận ý”, lời hết
nhưng ý vô cùng. Đó cũng là yếu tố nêu cao tình yêu mãnh liệt về cố quốc đang bùng cháy
trong ông. Hai câu thơ khép lại không nói gì thêm nhưng lại nói lên rất nhiều. Đây là
phương thức sáng tác tinh vi để ý thơ âm vang mãi, cao vọng mãi.
Tiếp tục đến với những câu thơ mà được xem như hiện thân của quê nội kính yêu,
được Hồ Dzếnh luôn kỳ vọng ta sẽ được nếm trãi thêm phần nào về cái ý tứ uyên thâm gợi
mà không tả, không lí giải gì nhiều:
Tô châu lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam…
(Phúc linh cầu)
Hồ Dzếnh chất chứa một tình cảm thành thực nóng bỏng, tràn ngập yêu thương
hoài vọng. Dù là quê cha đất tổ, chưa một lần gặp gỡ, tiếp cận thật sự nhưng Hồ Dzếnh lại
nâng niu, yêu nhớ như máu thịt của mình. Đọc lên những lời thơ gợi tả tuyệt mỹ của Hồ

Dzếnh, ta khó thể nào tin được đây là người con đất Việt chưa một lần về đến nguồn cội xa
xôi, mà lại ghi khắc những hình ảnh nơi mảnh đất Trung Hoa kỳ vĩ ấy sâu đậm như vậy.


Lời thơ ngắn gọn, súc tích toát lên một không gian nhiều chiều, gợi âm thanh da
diết về quá khứ xa xôi trong tâm thế “ý cũ”, “mây dàn”. Sự cô động cao ngay mạch cảm xúc
nội tại. Lần đầu hòa mình vào hơi thơ Hồ Dzếnh ta có cảm giác lạ lẫm trong chính cái gần
gũi nơi câu chữ, cái gần gũi của tình chung, tình cố quốc, tình thiết tha quê nội, hay tình trìu
mến quê ngoại. Tất cả đều là tình thiêng liêng của một con người.
Thơ Hồ Dzếnh bao phủ mãi suy tưởng người đọc, ai một lần tìm đến thơ ông có
lẽ sẽ đưa dòng suy tư triền miên không thể ngừng nghĩ, bằng lòng với bất cứ kết luận nào.
Súc tích, cô đọng vẫn là yêu cầu hàng đầu, lời ít nhưng ý vô cùng. Điều đó không chỉ dành
riêng cho các nhà thơ Đường Thi sành sỏi về “tả cảnh ngụ tình”, mà còn cần thiết cho bất cứ
mảnh đất thơ ca nào. Thơ Đường thường mang chất dư ba nhẹ nhàng trầm lắng, gợi mở
trong sự tĩnh lặng của lời thơ tạo nên chiều sâu tư tưởng bất tận. Tham khảo bài Điểu Minh
Giản của Vương Duy, một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, ta thấy tâm hồn thi
nhân hòa nhập vào nhịp thở của cỏ cây:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dã tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điển
Thời minh tại gian trung
(Người nhàn hoa quế nhẹ rơi
Đêm xuân lặng ngắt núi đồi vắng tanh
Trăng lên chim núi giật mình
Tiếng kêu, thảng thốt đưa quanh khe đồi)
Trong khe núi vắng thanh chỉ còn thanh âm của một tiếng chim mờ nhạt, ánh sáng
của vầng trăng nhẹ nhàng nhưng vẫn làm “Chim núi giật mình” chiều sâu của ý thơ được
hàm chứa từ sự vắng vẻ tưởng chừng bất thường. Rất nhiều điều về cuộc sống, Vương Duy
không trực tiếp nói ra, chỉ gợi lên để ẩn ý tự thân bộc lộ, tự mỗi độc giả sẽ chiêm nghiệm
nên giá trị, giá trị về một hồn thơ gắn bó với vận mệnh dân tộc.

Đến với nhà thơ lãng mạn Lý Bạch - thi tiên vĩ đại của Trung Quốc, qua bài thơ
Tĩnh dạ tứ là bài thơ biểu hiện sắc sảo nguyên tắc thẩm mĩ của “Ý tại ngôn ngoại”:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghị thị địa thương sương


Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Đê đầu tư cố hương).
Trong đêm tĩnh lặng, trên bước đường lữ thứ Lí Bạch tức cảnh sinh tình viết nên
những dòng thơ diệu kỳ, gợi tình quê hương ngỗn ngang, quặn thắt. Toàn bài thơ câu chữ
nào cũng rõ ràng dễ hiểu, nhưng chính cái dễ hiểu đó đã tạo nên cái hàm ý sâu xa. Nói trăng
nhưng thấm đẫm tình quê. Và khi cái tình ấy chập chờn ẩn hiện thì điều tâm niệm ấy đột
nhiên ngưng bật ngay trên “tư cố hương”. Nỗi nhớ đó như thế nào? Nhớ những gì thì có thể
người tiếp nhận tự suy nghĩ.
Qua ý thơ ta dường như bắt gặp sự tinh thông giữa hai tâm hồn đang cuồn cuộn
hồn quê Lí Bạch – Hồ Dzếnh. Nhớ quê rất nhiều nhưng giải bày rất ít, cứ để cho cái hòa khí
ấy mang tư thế tự nhiên chân thật, đầy tình, đầy nghĩa, đầy hàm ý. “Nhớ nhà châm điếu
thuốc”. Cốt cách của Hồ Dzếnh luôn chứng tỏ rõ nhận thức thẩm mĩ nghệ thuật toàn ý: lấy
cái vô tình để nói tình, lấy cái vô ý tả ý sao cho thật nguyên chất, thật chân thành.
Lột tả từng vấn đề trong thơ ta thường chú ý nhiều đến cội rễ cái tình chất ẩn. Thơ
Hồ Dzếnh đa phần ngắn gọn, dễ hiểu gần gũi nhưng miên man trong chuỗi tâm trạng tràn
bờ. Nếu ở Đường thi ta thấy được cái tình, cái ý khắc sâu trong thơ là sự hòa nhập tâm hồn
với thiên nhiên, vạn vật để tạo rung cảm thật sự tận đáy lòng. Thì ở thơ Hồ Dzếnh cái tình ý
sâu sắc ấy đựơc xuất phát từ một tâm hồn giao cảm dường như trọn vẹn với từng phần, từng
đối tượng, từng chi tiết nhỏ nhặt, từng mảnh ghép vụn vặt của cuộc đời một cách trân trọng,
thân thương. Do đó, mà bao thế hệ như tê dại, mê say trước những sáng tác không nhiều

nhưng bất tử của Hồ Dzếnh. Có những câu thơ để đời của Hồ Dzếnh rất gọn, rất ý vị, không
dành riêng cho ai mà dành cho tất cả:
Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề
Cái âm vang ngoài lời thơ của Hồ Dzếnh thể hiện qua sự hun đúc kinh nghiệm, sự
chuyển biến tâm lý tinh tế về cõi nhân gian, những chuyện tình trường nhiều đắng cay lắm
hạnh phúc. Lời thơ bộc lộ hết cả tiềm thức muôn đời của con người, mang tính thuyết phục


mạnh mẽ. Bản chất của hệ ý thức luôn cần sự vận động, những điều chưa hoặc khó chinh
phục trong cuộc sống điều đáng quý, đáng trân trọng. Hồ Dzếnh đã đưa ra chân lý vô cùng
giá trị. Tất cả những vị đắng ở đời này đều rất khó nếm nhưng lại rất dễ tạo ra ngưỡng cảm
giác hạnh phúc ngọt ngào khi ta tồn tại ngay trong nó. “Ý tại ngôn ngoại” trong một bài thơ
là một điều rất khó nhận biết nhưng nếu khi thấu đáo thì nó lại thú vị, thâm sâu biết dường
nào.
Chìm sâu trong thơ Hồ Dzếnh ta ngộ ra rất nhiều điều lí thú, lạ thường không tả
được. Trở lại Cảm xúc ta có cảm giác mơ màng vừa gần trong gan tấc vừa như xa vời:

Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi
Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa
Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha
Khi cô vui thú, là khi đã
Bồng bế con thơ, đón tuổi già...
Kiệt tác của Hồ Dzếnh luôn có trạng thái như tâm tình, sẽ chia với nhân thế. Từ
những vấn đề thường nhật, từ những người thân quen hằng ngày đã được Hồ Dzếnh chắc
lọc một cách tự nhiên mà điêu luyện, để tinh xuất ra những ý, những điều vô cùng tận. Với
những hình ảnh đơn thuần ‘‘bướm hoa’’, ‘‘má hồng’’, ‘‘phôi pha’’, nhưng lại có sức gợi

mang ấn tượng rất lớn. Ta như nhận thấy được vòng quay nghiệt ngã độc ác của cuộc đời.
Dường như trong phút chốc cướp đi hết tất cả mùa xuân, niềm vui, hạnh phúc trong một
kiếp người, hiện lên trước mắt ta là một người con gái lận đận, không hạnh phúc. Hình ảnh
ấy khiến ta liên tưởng đến cái ý tình của Hồ Dzếnh đang âm thầm cảm thương cho chính
người mẹ, người vợ đầy tôn kính.
Hình như nỗi lòng của Hồ Dzếnh tran trải khắp trong thơ, tận cùng câu chữ luôn
là hơi thở trìu mến của lòng yêu thương, cảm mến sâu sắc. Đây là những lời trân trọng ông
dành cho mẹ, cho vợ, cho một phần cuộc sống của ông. Mai Thảo từng xung bút : ‘‘Trong
cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ
lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh, hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là


những xâu chuỗi lanh lãnh nhạc vàng, gõ vui từng nhịp nắng mênh mông đài trán thanh
niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi hai mươi tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn
mình phơi phới […]’’. Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất
của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ Quê Ngoại Mai Thảo hơi
chủ quan. Quê Ngoại hẳn là không hằn một vết nhăn, dù có bao nhiêu năm nữa. Nhưng ẩn
sâu trong đó là một tâm tư bi đát, một mối “sầu vạn cổ”, nỗi sầu hay có mặt trong Đường
thi. Và ta thấy, thơ Hồ Dzếnh còn là một mối tình nhiều màu sắc. Nên cái nghĩa tận cùng nó
không chỉ thế, mà nồng thắm hơn là tôn vinh hình ảnh đáng cảm phục của người phụ nữ,
của con người Việt Nam. Những con người lầm lũi, rạng ngời đức hi sinh. Một biển lớn tình
yêu của Hồ Dzếnh vang vọng mãi, mặn mà mãi giữa quê hương đất Việt, một quê hương
bình dị, thôn dã, thiêng liêng. Cảm xúc vốn muôn màu, muôn vẻ, chất chứa nhiều nỗi niềm
suy tư, cảm giác tội lỗi. Chứ không hẳn đầy tin tưởng và lạc quan như Mai Thảo đã nhận
định. Nhiều dụng ý khi đi vào thơ tan chảy thành câu từ huyền bí khó nắm bắt. Dường như
ta lần mò nhận ra cảm giác nhưng khó mường tượng hết : ‘‘Khi cô vui thú, là khi đã’’. Chỉ
bấy lời thôi sao chua xót nghẹn ngào ? Cảm quan triết lí về sự tồn tại, chuyển biến của con
người được đặt ra. Giữa vũ trụ cái hữu hạn ngậm ngùi trong sự cai nghiệt của vô hạn. Ấy
thế vậy mà ý thơ như trầm tĩnh, ngưng đọng tạo ra cái vĩnh hằng, bởi cảm xúc nhân sinh bất
tận vô thường nơi Hồ Dzếnh. Những biến động của xã hội, nỗi thống khổ con người kết tụ,

âm ĩ mãi trong thơ Hồ Dzếnh. Từ những điều đơn thuần tạo ra cho những điều phi thường
gợi băn khoăn khôn xiết. Hồ Dzếnh đã gieo lên tiếng tình tan vở như một ‘‘thú đau thương’’
đặc dị, phát sinh trong giọng reo vui, mời gọi sự lỗi hẹn như một chén rượu nồng, như một
trái cấm không cay, ngọt ngào đầy chua chát :
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé !
Để lòng tôi buồn đạo khắp trong sân
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần…
Tôi nói khẻ, gớm, làm sao mà nhớ thế !
….
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé !
Tôi sẽ trách – cố nhiên ! – nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy cố gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề


Đời chỉ đẹp nhưng kho còn dang dỡ
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau…lơ lững….với người xưa…
(Ngập ngừng)
Cuộc đời riêng tư của Hồ Dzếnh ghi đậm dấu ấn trong thơ. Quả thật Hồ Dzếnh đã
làm ‘‘Cho nghìn sau…lơ lững….với người xưa…’’. Bởi cái ý vô cùng để lại giá trị bất hủ
cho đời.
Trong thơ ca, tác phẩm đạt đến giá trị đáng quý không chỉ ở nội dung mà còn thể
hiện ở hình thức ngắn gọn, đơn giản. Chạm đến thơ Hồ Dzếnh không chỉ thấy được công
trình nghệ thuật hoa mĩ ở hình thức, ngắn gọn, súc tích. Mà ta còn được chiêm ngưỡng ngòi
bút tự do uốn lượn, mang một chút thanh khí của thi tiên – Lí Bạch, một chút phong thái của
thi thánh – Đỗ Phủ. Hồ Dzếnh hiện lên qua từng tác phẩm của mình với diện mạo vừa dung
dị, vừa trầm tĩnh, bản lĩnh, oai phong trước những xáo động của cuộc sống xô bồ. Hồ Dzếnh
từ đâu đã khoác lên mình lớp áo ngoài của nội dung tư tưởng, lớp áo đậm tình dân tộc, đồng
cảm, bao bọc trọn vẹn cái thuần khí, và cái bí ẩn bên trong đó được gọi là cái cốt cần có sự

liên hệ, tư duy thì mới có thể tỏa sáng. Từ những nguyên khí được ấp ủ nơi thế giới thơ Hồ
Dzếnh, cho ta thấy rõ một nhà thơ mang dấu ấn của lối tư duy mỹ học từ Kinh Dịch của
Trung Hoa. Nội dung và hình thức không đồng nhất, đôi khi mâu thuẫn. Tuy nhiên lại có
mối quan hệ biện chứng. Tận cùng của mâu thuẫn là sự thống nhất chặt chẽ. Điều đó xuất
phát từ quan niệm tam tài (thiên, địa, nhân) nhất thể, vạn vật trong cuộc sống dù xung khắc
nhưng đâu đó vẫn còn cái hài hòa, cân đối. Âm dương tương khắc, tương sinh. Người Trung
Hoa thống nhất giữa cái bên ngoài và bên trong. Văn thơ cũng vậy, từ cái mâu thuẫn sẽ có
cái thống nhất tươi tắn. Đó chính là cái thần hồn của Đường thi đang lấp lánh trong thơ Hồ
Dzếnh.
Nếu như nói ‘‘Dấu ấn Đường thi trong thơ Hồ Dzếnh’’ thì nên hiểu đó không chỉ
là dấu ấn, mà đó là tâm thức truyền thống đang bùng phát trong ông. Hồ Dzếnh đang tìm về
cội nguồn của chính dân tộc mình. Kinh Dịch thì lại là triết lý thẩm mĩ kinh điển của Trung
Hoa. Vì vậy mà ít nhiều sáng tác của Hồ Dzếnh mang mùi vị tư duy thẩm mĩ từ Kinh Dịch.
Cõi thơ của Hồ Dzếnh không nhiều. Ngôn ngữ thơ là ‘‘ngôn tận nhưng ý bất tận’’, ẩn ý bên
trong thơ Hồ Dzếnh dù có khai thác phân tích hết, thì vẫn như còn đọng mãi. Nó như gắn
liền với tâm hồn thi sĩ. Trong bài Cảm đề với thể thơ tự do, hiện đại, phóng khoáng, Hồ
Dzếnh đã thể hiện tài tình sự tinh tế trong cảm nhận về cái đẹp thật sự của cuộc đời :


Mẹ nhỏ của con ơi !
Máu chảy, xuân thơm, mặt lệ ngời
Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ
Tình con còn lại bấy nhiêu thôi !!
Hoa xuân đất Việt nghìn thu nở
Gương cũ muôn đời rạng rỡ soi
Ước nhỏ như xưa mà nũng nịu :
“Coong nà coong mẹ, mẹ coong ơi !!!....”
Những tình cảm thiêng liêng dành cho người mẹ vĩ đại. “Mẹ nhỏ” của con trong
bể tình vô tận đó là ẩn ý muốn gởi gắm. Không đơn thuần để giải bày, mà đó là lời khẳng
định chắc nịch về giá trị cho toàn nhân loại. Bến bờ của tình yêu được Hồ Dzếnh khắc họa

đó là “ Mẹ nhỏ”, bến bờ thanh bình hạnh phúc. Quan niệm ấy có tầm nhận thức rộng lớn
chứa cảm xúc chân thành, thân mật, kính đáo, tế nhị. Hồ Dzếnh đã nhẹ gợi mở cho nhân thế
tự suy ngẫm, ngộ ra giá trị thật sự của cuộc sống. Trân trọng tình thâm là trân trọng chính
nhân phẩm, lương tâm của bản thân mỗi người. Giữa cuộc sống thăng trầm chân lí luôn tồn
tại xung quanh những điều bình dị. Tầng nghĩa đó trong thơ Hồ Dzếnh làm ta nhớ rất nhiều
đến truyền thống tốt đẹp của người Trung Hoa, luôn lấy đạo hiếu làm đầu mà thơ Đường lại
tiêu biểu tinh thần đó.
So với Đường thi, ta thấy thơ Hồ Dzếnh có mang âm hưởng hình thức thi pháp
nhưng tình ý bên trong đã khác rất nhiều. Rõ ràng bài thơ rất xúc tích, câu từ mộc mạc mà
gợi lên bao phẩm chất, khí tiết đáng quý. Cái tình nghĩa cao lớn, cái cốt cách thanh cao của
con người được Hồ Dzếnh sắp xếp thành thơ, dệt nên “thảm ý” nồng hậu, giàu nhịp điệu
mênh mông, sâu lắng về một tình yêu nũng nịu nhưng dễ thương vô cùng.
“Ý tại ngôn ngoại” trong thơ Hồ Dzếnh giống như một viên ngọc biết ẩn mình,
lặng lẽ phát sáng khi tìm được sự rung cảm thật sự. Từ thơ đi đến đời thi sĩ. Đó là liên kết
huyền diệu, thú vị nơi thơ Hồ Dzếnh. Một vùng trời đầy ẩn ý, chồng chất bao lí lẽ, không
thể cạn, luôn phức tạp, khó hiểu, khó nhận biết, có sức sống bất diệt với đời. Nó cũng giống
như một bức tranh tâm hồn, tạo ra bến bờ liên tưởng muôn đời, với một tiềm thức tư duy.
Đủ màu sắc, đủ ý nghĩa. Thế giới thơ Hồ Dzếnh là thế giới nghệ thuật tinh nhã. Thơ không
dài dòng, không có giọng hùng mạnh, chỉ giọng trầm tĩnh, gợi lên vài nét, vài cảnh, vài thể
nghiệm tình cảm con người mà đã tạo ra một trường liên tưởng lí thú. Từng ý vị sâu xa, cảm


xúc ngọc ngà, điều hòa, thống nhất. Lời thơ nhỏ nhẹ, khẽ khàng của Hồ Dzếnh như đang
thâu tóm từng trạng thái rời rạc, vô âm thanh hợp xướng, lay động, đánh thức. Để rồi những
nơi thâm sâu, cùng cốc, u tối, vắng lặng của tâm hồn được sưởi ấm triệt để. Sự đan kết hữu
tình ấy giống như chính con người Hồ Dzếnh, trầm lặng nhưng không âm thầm, mà có sức
vang rất lớn, rất mạnh, âm ĩ sâu rộng mãi cho đời sau.

PHẦN III: KẾT LUẬN
Lê Qúy Đôn đã từng nhận định: “Thơ khởi phát từ trong lòng người ta,… thơ thế

là nó chân thực”. Và đúng như thế trong chúng ta ai cũng hiểu rõ thơ ca là nghệ thuật ngôn
từ, tạo nên bao ý tứ, tình cảm, nhịp điệu được dệt nên từ câu chữ. Có thể nói rằng, thơ Hồ
Dzếnh giống như ánh hào quang chói lọi, tỏa sáng, lan truyền khắp đất trời. Với từng khúc
nhạc du dương, ngân dài, bừng cháy trong từng trang giấy, Hồ Dzếnh đã cho ta thấy được,
cảm hiểu được thơ chính là tâm hồn, là thời đại, là thế giới nội tâm của con người. Sáng tác


×