LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô Phan Thị Tâm Thanh người đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Xin cảm ơn quý thầy cô trong khoa Sư phạm và những bạn bè đã tạo điều
kiện, giúp đỡ động viên tôi để tôi thực hiện tốt chuyên đề này. Là công trình
nghiên cứu đầu tay nên không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong nhận được
sự cảm thông và góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đắk lắk, ngày…tháng…năm 2015
Người thực hiện
Triệu Thị Thương
i
MỤC LỤC
ii
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lí do chọn đề tài
Phong trào Thơ mới xuất hiện 1932-1945, một mặt đáp ứng được sự thay
đổi của thi ca trong hành trình đi lên của nó, mặt khác lại là mảnh đất để các nhà
thơ có thể làm mới mình, bộc lộ tiếng nói của chính mình. Phong trào Thơ mới
đã làm xuất hiện nhiều nhà thơ với những tư tưởng mới như Xuân Diệu, Hàn
Mặc Tử, Thế Lữ, Huy Cận…, trong số đó, Lưu Trọng Lư là người đã đóng
không nhỏ cho diện mạo của Thơ mới, thành tựu thơ ông để lại ấn tượng khá
đậm nét trong lòng độc giả.
Trong chặng đường sáng tác khá dài trên 50 năm, Lưu Trọng Lư đã để lại
nhiều tác phẩm thực sự có giá trị. Ông sáng tác ở nhiều thể loại: tiểu thuyết,
truyện, kịch thơ, kí sự,… Ở lĩnh vực nào, ông cũng có những đóng góp mang
dấu ấn riêng nhưng lại nổi tiếng với danh hiệu nhà thơ. Giữ vai trò là nhà thơ
tiên phong trong phong trào Thơ mới nhưng chất thơ của ông không “tây” như
Xuân Diệu, không “sầu vạn cổ” như Huy Cận, không “điên cuồng” như Hàn
Mặc Tử mà có sự đan quyện giữa cổ điển và hiện đại, phương đông và phương
tây, nói cách khác thơ ông vừa có vẻ đẹp cổ điển vừa có luồng gió của thời đại
mới. Cùng với các nhà thơ khác như Phan Văn Dật, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ
Hoàng Chương…, thơ Lưu Trọng Lư có khuynh hướng quay về với thơ Đường.
Thơ Đường không những mang nội dung sâu sắc mà hình thức thể hiện
của nó cũng vô cùng tinh tế, chính thể thơ mẫu mực này đã có ảnh hưởng khá
lớn đối với văn học Việt Nam, đặc biệt là về mặt thi pháp. Ở đây, người ta có
thể nhận thấy sự gặp gỡ, tương giao về cả tâm tưởng, ý nghĩ cho đến hình ảnh
tạo lập nên thơ cổ điển Việt Nam. Ngay cả phong trào Thơ mới mà tiêu biểu là
Lưu Trọng Lư - cách tân về thi ca cổ điển Việt Nam vẫn còn mang dấu ấn
đường thi rất đâm nét.
1
Sự nghiệp sáng tác thơ của Lưu Trọng Lư đã trở thành đối tượng nghiên
cứu tìm hiểu của giới lí luận phê bình từ rất sớm, nhưng để tìm hiểu về vấn đề
dấu ấn Đường thi trong thơ Lưu Trọng Lư dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Chính vì
vậy, người viết chọn vấn đề “Dấu ấn đường thi trong thơ Lưu Trọng Lư” làm đề
tài nghiên cứu của chuyên đề với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc
nghiên cứu tìm hiểu các sáng tác của Lưu Trọng Lư. Đặc biệt đi sâu vào tìm
hiểu sự ảnh hưởng của thi pháp thơ Đường đối với thơ Lưu Trọng Lư, từ đó thấy
được đặc điểm bút pháp thơ Lưu Trọng Lư, cũng như những nỗ lực cống hiến
của nhà thơ cho góp đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Là một giáo viên trong tương lai, đồng thời cũng là người yêu thích Thơ
mới, do đó kết quả nghiên cứu của đề tài cũng góp phần giúp người viết giảng
dạy và nghiên cứu tốt hơn sau này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu dấu ấn Đường thi trong thơ Lưu Trọng Lư để thấy được sự ảnh
hưởng của thơ Đường đối với tác giả - một cây bút tiên phong của phong trào
Thơ mới.
- Góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật của tác giả.
2
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Ngay từ khi mới xuất hiện, sáng tác của Lưu Trọng Lư đã gây được sự
chú ý của rất nhiều người và trở thành đối tượng của nghiên cứu, phê bình lí
luận. Mỗi công trình nghiên cứu có một cách nhìn nhận đánh giá riêng về sáng
tác của Lưu Trọng Lư và ít nhiều đã đề cập đến những ảnh hưởng của thi pháp
thơ Đường đối với sáng tác của Lưu Trọng Lư.
Bóng dáng thơ Đường đã tồn tại một cách đường hoàng trong phong trào
Thơ mới (1932-1945). Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – nhà lí luận phê
bình xuất sắc của thời đại đã viết: “huống chi trong hàng thanh niên chịu ảnh
hưởng thơ văn Pháp, nhiều người lại quay về thơ Đường. Thanh thế thơ Đường
ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn nhưng vì cái học khoa cử, những bài viết
kiệt tác ngâm đi giảng lại thành vô nghĩa. Nó chỉ còn là những cái máy để đúc ra
hàng vạn bài thơ dở. Đến khi khoa cử bỏ, chữ nho không còn là đường tiến thân
song thiếu niên tây học vẫn có người xem sách nho họ chỉ cốt tìm nguồn sống
tinh thần, họ đi tới thơ Đường với một tấm lòng trong sạch và mát mẻ, có điều
kiện cần thiết dễ hiểu thơ. Cho nên dầu dốt nát, dầu nghĩa câu nghĩa chữ lắm khi
họ rất mờ họ đã hiểu thơ đường hơn nhiều khoa tây bảng”. [ 1, tr.38-39]. “hồn
thơ đường vắng đã lâu nay trở về trong thơ việt”- Thi nhân Việt Nam [ 1, tr.39]
Ngô Văn Phú trong thơ Đường ở Việt Nam đã khẳng định sự có mặt của
thơ Đường ở Việt Nam. Qua việc đề cập đến ảnh hưởng của thơ Đường đối với
Hồ Chí Minh, các nhà Thơ mới, tác giả kết luận: thơ Đường vẫn không thể thiếu
được trong món ăn tinh thần của các nhà thơ từng “tuyên chiến” với nó.
Quách Tấn với Thi pháp thơ Đường đã cho ta thấy được cách tiếp cận cũng
như sức tác động về bề rộng lẫn bề sâu của thơ Đường là khá lớn ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Đặc biệt ở Việt Nam, thơ Đường đã đi sâu vào trong tâm thức
văn hóa Việt Nam.
Dấu ấn thơ Đường còn bàng bạc trong các sáng tác của một số nhà thơ
trong phong trào thơ mới như: Tràng giang của Huy Cận, Tống biệt hành của
Thâm Tâm, Đây thôn Vĩ Dạ, Một nửa trăng của Hàn Mặc Tử,…
3
Là một cây bút khá tiêu biểu trong giai đoạn đầu của phong trào thơ Mới và
được rất nhiều nhà nghiên cứu như Hoài Thanh Hoài Chân ( Thi nhân Việt Nam)
Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ, Lê Tràng Kiều ( thơ Lưu Trọng Lư- những lời
bình,2000 ). Nhưng hầu hết những công trình đó chỉ đi sâu tìm hiểu một khía
cạnh về nghệ thuật nhạc điệu trong thơ Lưu Trọng Lư, chưa có công trình nào đi
sâu vào nghiên cứu về dấu ấn Đường thi trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong bài viết “một nhà thơ mới rất chú trọng về âm điệu:Lưu Trọng Lư”
tác giả Lê Tràng Kiều phân tích khá rõ nét đặc sắc của nhà thơ về âm điệu
Hà Minh Đức cũng chỉ khái quát cái mộng, cái mơ, cái tình của Lưu Trọng
Lư để qua đó chỉ ra sự phát triển của cái tôi Lưu Trọng Lư trong giai đoạn
sau.Còn đặc điểm về sự ảnh hưởng của thơ Đường trong thơ Lưu Trọng Lư
không phải điều mà ông hướng tới.
Riêng Lê Đình Kỵ có tập trung khai thác một khía cạnh đặc điểm ngôn ngữ
thơ Lưu Trọng Lư về vần điệu trong thơ ông rồi từ đó có những khám phá mới
mẻ về dòng cảm xúc của hồn thơ mơ màng chìm đắm trong tình yêu.
Những bài viết bài nghiên cứu về Lưu Trọng Lư thì rất nhiều nhưng chỉ
đem đến cho bạn đọc những hiểu biết riêng lẻ về từng khía cạnh khác nhau về
thế giới nghệ thuật thơ và ngôn ngữ thơ Lưu Trọng Lư mà thôi.Vì vậy với đề tài
này tôi muốn đi tìm hiểu sâu hơn về dấu ấn của thi pháp thơ Đường trong sáng
tác của Lưu Trọng Lư.
4
PHẦN THỨ BA: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Dấu ấn của Đường thi trong thơ Lưu Trọng Lư
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát sáng tác của Lưu
Trọng Lư trong các tác phẩm sau:
- “Tiếng thu”, Lưu Trọng Lư, Nhà xuất bản Văn học, năm 1995
- “Thơ mới 1932-1945, tác giả và tác phẩm”, Nhà xuất bản Hội nhà văn,
năm 1998
- “Hợp tuyển văn học Châu Á”, tập 1, Lưu Đức Trung chủ biên, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm sáng tác của một số nhà thơ mới
khác để có căn cứ làm sáng tỏ hơn ảnh hưởng của thơ Đường trong thơ Lưu
Trọng Lư.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Ảnh hưởng của thơ Đường trong thơ Lưu Trọng Lư
- Nguyên nhân của sự ảnh hưởng
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp tiếp cận thi pháp học: đây là phương pháp giúp chúng tôi đi
sâu vào các tác phẩm để thấy được dấu ấn thơ Đường trong sáng tác của Lưu
Trọng Lư ở phương diện hình thức.
5
Phương pháp so sánh, đối chiếu: để có cái nhìn so sánh ảnh hưởng của thơ
Đường đối với Lưu Trọng Lư và một số nhà thơ Mới khác.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: để phân tích luận điểm, luận cứ nhằm
làm sáng tỏ vấn đề, trên cơ sở đó tổng hợp, khái quát để đưa ra kết luận, đánh
giá.
Ngoài phần đặt vấn đề, tổng quan/cơ sở lí luận, nội dung và phương pháp
nghiên cứu, dự kiến kết quả và tài kiệu tham khảo, chuyên đề gồm 2 chương:
6
PHẦN THỨ TƯ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Chương 1: KHÁI QUÁT THƠ ĐƯỜNG VÀ CÁC CHẶNG
ĐƯỜNG THƠ LƯU TRỌNG LƯ
1.1. Khái quát thơ Đường
1.1.1 Khái niệm Đường thi
Khái niệm Đường thi có từ thời Đường (618- 907) – một triều đại được coi
là có nhiều chính sách tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Khái
niệm Đường thi vẫn là một khái niệm co dãn, có khi chỉ tất cả các bài thơ được
sáng tác vào đời Đường của Trung Quốc (bất kể thuộc cổ thể hay cận thể), có
khi lại chỉ tất cả các bài thơ làm theo thể đường luật (bất kể được sáng tác vào
lúc nào, ở Trung Quốc hay ở Việt Nam).
Cách hiểu thứ nhất, Đường thi được hiểu trùng với phạm vi của một triều
đại. cuốn toàn Đường thi đã sưu tập được 48900 bài thơ của hơn 2200 tác giả
sống trong khoảng thời gian từ năm 618 đến năm 907, và được sáng tác trên 3
thể chính: thơ Đường luật, thơ cổ phong và nhạc phủ. Theo cách phân chia này
thơ Đường được chia thành 4 giai đoạn: Sơ Đường(618- 907), Thịnh Đường
(713- 766), Trung Đường (766- 835), Vãn Đường (835- 907). Nếu theo cách
hiểu này, khái niệm Đường thi bị bó hẹp là thơ của một triều đại.
Về cách hiểu thứ hai, có nghĩa là Đường thi trở thành một thể tài, có những
nguyên tắc và chuẩn mực nhất định. Khái niệm Đường thi đồng nhất với khái
niệm luật thi- một thể thơ mới ra đời vào thời Đường. Như vậy sẽ không còn bó
hẹp về không gian và thời gian, chỉ cần những sáng tác đảm bảo quy tắc của luật
thi đều là thơ Đường. Nhận thấy rằng tất cả những sáng tác vào thời Đường, dù
trực tiếp hay gián tiếp, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi thơ đường luật.
Thời Đường có một sự vận động lớn trong thơ ca, mà luật thi là sản phẩm cao
nhất của quá trình đó. Nên hiểu theo nghĩa phái sinh Đường thi là một thể loại
thơ cũng là hợp lý.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm thơ
Đường và thơ đường luật:
7
Thơ Đường là một khái niệm rộng, dùng để chỉ toàn bộ thơ ca sáng tác thời
nhà Đường, trong đó có rất nhiều loại: cổ thể, cận thể…
Thơ Đường luật còn gọi là thơ cận thể để phân biệt với cổ thể, cổ phong
hoặc gọi là thơ cách luật. Tức là phải làm theo luật chặt chẽ về thể, cách. Nó
phải tuân theo một cấu trúc nhất định với những yêu cầu về: vần, niêm, luật, đối,
bố cục, kết cấu.
Đối với người Việt Nam rất hay nhầm lẫn hai loại thơ này, vì Đường luật là
đặc trưng của thơ Đường, trong khi đó người Việt Nam quen tiếp thu và làm
theo thơ Đường luật.
1.1.2 Một số đặc điểm về thể loại
Thơ Đường luật ra đời trên cơ sở những tiền đề về kinh tế, tư tưởng và văn
học. Có thể nói chính sự phát triển về kinh tế, sự tự do về học thuật tôn giáo và
sự vận động không ngừng của hệ thống văn chương đã đem đến sự cường thịnh
của văn học đời Đường. Hơn nữa triều Đường đã chú trọng phát triển chế độ
khoa cử, quy định lấy thơ phú để chọn kẻ sĩ. Vì thế, nho sĩ bồi bổ tài văn
chương, sáng tác thơ văn đủ niêm luật để ứng thí. Ngoài ra, thời kì này phong
trào dịch thuật kinh phật rất phát triển, các nhà dịch thuật dùng ngôn ngữ bạch
thoại đương thời để dịch kinh phật từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Quốc, làm
cho hệ thống ngôn ngữ phong phú đầy đủ hơn. Sự giàu có về ngôn ngữ đủ sức
diễn đạt những ý vị sâu sa và những cấu tứ lạ lẫm trong thơ Đường.
Phong cốt và hứng kí là hai khái niệm dùng để diễn đạt đặc trưng về nội
dung của thơ Đường luật. Phong cốt thơ Đường lấy cứng cỏi mạnh mẽ của Hán
Nguỵ, bỏ đi phong kí suy đồi đồi thời Lục triều. Có người nhận xét phong cốt
của Đường thi là “tinh thần lạc quan sẵn có của người đời Đường kết hợp với
tính cách anh hùng trong văn học Kiến An và truyền thống tinh thần lí tưởng từ
Khuất Nguyên trở đi”. Hứng kí nghĩa là tỉ hứng kí thác, thủ pháp của thi nhân
dùng tỉ hứng để kí thác hoài bão chính trị của mình (gọi tắt là tỉ hứng). Hứng kí
thơ đường đã tiếp thu và thể hiện quan niệm “mỹ thích tỉ hứng” của truyền
thống, coi trọng tác dụng phản ánh hiện thực cuộc sống, đặc biệt là nêu lên nỗi
khổ và cách giải thoát u phẫn trong lòng nhân dân. Tuy nhiên có sự đổi mới về
phương thức thể hiện, vận dụng thủ pháp “trực trần kì sự” của thể phú nên lời
thơ cứng cỏi sắc bén.
8
Thanh điệu và từ chương là yếu tố cấu thành về hình thức của Đường thi.
Thanh luật đường thi là sự kế thừa và phát triển hệ thống thanh luật của thơ ca
thời Tề Lương. Theo những ghi chép trong “Thơ ca bát bệnh” của Thẩm Ước ta
thấy thơ ca thời Tề Lương chia thanh điệu thành 4 loại “bình, thượng, tứ, thập”,
tuy chặt chẽ trong từng liên, từng câu nhưng lỏng lẻo giữa các liên, và các phần
rườm rà khó nhớ. Cách lưỡng phân thanh điệu thanh bằng và trắc cùng với
những quy định chặt chẽ về niêm luật tạo thành một phương thức quy phạm hoá
tuy có phần ngặt nghèo nhưng lại thuận tiện trong học tập và nắm vững. thơ
Đường có sự biến hoá linh động trong tổ chức cú pháp. Sử dụng phổ biến hình
thức đảo trang, tỉnh lược mất đi trật tự logic của tản văn, câu thơ trở nên cô đọng
hàm súc hơn. Ngôn ngữ Đường thi vừa chân thực vừa cứng cỏi, vừa thẳng thắn
vừa xác thực. Nó mất đi dạng âm tiết tự nhiên cái gọi là ngôn ngữ đời thường,
những hư từ không còn xuất hiện trong văn thơ nữa. nó cũng không phải là ngôn
ngữ bóng bẩy, trau chuốt của thơ ca Nam Bắc triều mà là ngôn ngữ tinh tế được
lựa chọn kĩ lưỡng hết sức tự nhiên chứ không hề sống sượng. Nói chung, trong
thơ Đường ta thấy lại phong kí lãng mạn nhưng cũng giàu tính hiện thực của
Kinh thi và Li tao, có yếu tố trữ tình, tự sự của thơ ca thời Hán, Lục triều, có sự
phong phú về nội dung phản ánh và sự phát triển của thơ ca thời Nguỵ Tấn. Sự
dung hợp đầy đủ những yếu tố đó trong thơ thơ ca của một thời đại là lí do thơ
Đường được tôn vinh là di sản đặc sắc trong nền văn học trong nước và thế giới.
Chúng ta có thể phân loại thơ đường như sau:
Thơ Đường
Cổ thể thi Nhạc phủ (dân gian)
Cổ phong (bác học)
Tân thể thi Tuyệt cú
Luật thi
Trường luật
Từ (nhạc)
Nói gọn lại, dựa trên tiêu chí số chữ trong một dòng thơ, trừ loại lục ngôn
(số lượng ít) thì thơ Đường có 2 loại chính: ngũ ngôn và thất ngôn, trong đó mối
loại có 3 thể: cổ phong, tuyệt cú và luật thi.
1.1.2.1.Thể cổ phong
9
Là thể tự do về câu, chữ, không cần niêm, luật, chỉ cần vần để làm cho câu
thơ uyển chuyển mà thôi. Loại thơ này có khả năng phản ánh hiện thực phức tạp
đầy biến động hoặc biểu hiện nhiều sắc thái tình cảm rất phong phú và mạnh
mẽ, chẳng hạn trọng “Hành lộ nan”, Lý Bạch đã viết:
“hành lộ nan, hành lộ nan
Đa lỳ lộ kim an tại”.
ở đây, sự băn khoăn, day dứt của thi tiên Lý Bạch giữa lẽ xuất xử và con
đường muốn về ở ẩn của mình. Dường như qua cách ngắt nhịp 3/3 của loại thơ
này người ta càng thấy rõ hơn sự bức bối, giằng xé trong nội tâm ông rất trực
quan, mạnh mẽ…hai sắc thái đan xen cùng nhau mà cứ thế phân vân chọn lựa.
1.1.2.2.Thể tuyệt cú (tứ tuyệt)
Là loại thơ được xem là ngắn nhất của Trung Quốc với đặc trưng là “dĩ
thiểu kiến đa” rất hàm súc, cô đọng.
Thơ chỉ mang một nét, nhưng một nét có hồn, chỉ trong một khoảnh khắc
tự nhiên nào đó thôi mà tâm hồn của con người, của thi nhân được thăng hoa
gần như tuyệt đối. Đồng thời thơ ở đây cũng chính là hạt tiêu, hạt nhân nghệ
thuật trong cấu trúc nhỏ, gọn mà sức vang vọng và ám ảnh lại vô cùng lớn.
1.1.2.3.Luật thi
Luật thi quy định về số chữ trong một câu, số dòng trong toàn bài. Thơ
Đường luật có các dạng chuẩn “thất ngôn bát cú” (tám câu, mỗi câu bảy chữ), và
có các biến thể như “thất ngôn tứ tuyệt” (mỗi câu bảy chữ), “ngũ ngôn tứ tuyệt”
(bỗn câu, mỗi câu năm chữ), “ngũ ngôn bát cú” (tám câu. Mỗi câu năm chữ)
cũng như các dạng ít phổ biến khác, “thơ bài luật” là một dạng kéo dài của
đường luật, trong đó sự đối ngẫu có trong 6 câu trở lên, cả bài gồm 10 câu trở lên,
theo tập quán, thường lấy số vần chẵn chục…cho nên thường chia rõ ràng bằng các
chữ thập vận, nhị thập vận.
Thơ Đường luật nghiêm khắc ở 6 điểm: vần, niêm, luật, đối, kết cấu, tiết tấu.
Luật thơ Đường gắn với triết lý âm dương của người phương Đông. Có thể
xem bài thơ Đường như một hệ thống nghệ thuật mà mọi yếu tố đều vận hành
10
trên nguyên lí kết hợp, đan xen, đắp đổi, chuyển hoá lẫn nhau…giữa âm và
dương. Tất cả thể hiện năng lực cơ bản, nhịp điệu, vận kiếp của vũ trụ.
Luật chia thành luật bằng trắc và luật đối. Luật bằng trắc của thơ Đường
lưỡng phân thanh điệu thành “thanh bằng” và “thanh trắc”. đó là sự đối lập về
âm thanh của các chữ thứ 2-4-6 trong một câu thơ. Nếu chữ thứ 2 của câu đầu
tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có “luật bằng”, nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng
thanh trắc thì gọi là bài có “luật trắc”. trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6
phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải hai chữ kia. Nếu một câu thơ
đường mà không theo quy định này thì được gọi là “thất luật”.
Còn luật đối là những quy định về sử dụng nghệ thuật đối trong một câu và
trong một liên. Đối là phương thức tổ chức lời văn bằng điệp cú pháp nhằm tạo
hai vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh, được viết thành hai dòng cân
xứng song đôi. Đối ngẫu có từ trước, sử dụng phổ biến trong thơ ca nhưng đối
trượng chỉ dùng trong thơ Đường. Hình thức đối trượng người ta gọi là công đối.
Công đối là hình thức đối đầy đủ cả về ý và về thanh điệu, từ loại. Khoan đối,
đối rộng, đối không chỉnh, đối lỏng. Liên thứ 3, thứ 4 trong một bài thất ngôn
luật thi phải đối và nếu chuẩn là hình thức công đối.
Luật là cách thức tổ chức âm thanh trong một liên, và trong một câu của
liên. Niêm là cách thức tổ chức âm thanh giữa các liên với nhau. Các câu trong
một bài thơ đường giống nhau về luật thì được gọi là “những câu niêm với
nhau”. Hai câu thơ niêm với nhau khi âm thanh của những chữ thứ 2, 4, 6 trong
một niêm tương đồng về mặt âm thanh, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc.
Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ xuất mà làm thành
không niêm thì bài đó bị gọi là “thất niêm”. Nguyên tắc niêm trong một bài thơ
đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được
dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng
tại cuối các câu 1,2,4,6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Nếu
một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về
11
vần thì được gọi là “thất vần”. Trong một bài thơ nếu câu đầu tiên gieo vần thì
gọi là “thủ cú nhập vận”, và ngược lại gọi là “thủ cú bất nhập vận”. Bài thơ từ
đầu đến cuối gieo một vận gọi là “độc vận” những chữ có vần giống nhau hoàn
toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu
hết thơ Đường dùng vần thanh bằng nhưng cũng có các ngoại lệ.
Đây chính là loại thơ mà cấu tứ dựa trên các mối quan hệ đối lập mà đồng
nhất giữa các sự vật, hiện tượng thông qua một ngôn ngữ hàm súc, gợi mở với
những từ đắc, nhãn tự, ta thường gọi là “ý tại ngôn ngoại”. Mặt khác, thể thơ
này tuy chặt chẽ về cách luật để mang tính gò bó, nhưng lại có ưu điểm là cấu
trúc nội tại cấu đối, âm điệu hài hoà, phù hợp với nhu cầu thể hiện tình cảm nội
tại, sâu lắng, trầm tư.
Có rất nhiều mối quan hệ đã được các nhà thơ tạo dựng: con người và con
người trong tất cả các mối quan hệ chằng chịt, con người và thiên nhiên, cảnh và
tình, quá khứ và hiện tại, không gian và thời gian… đọc thơ Đường ta phải phát
hiện ra các mối quan hệ ấy và lí giải ý nghĩa của chúng. Có thể nói rằng, quan hệ
đồng nhất giữa các mặt đối lập trong thơ Đường, các hiện tượng mà cảm quan
thông thường cho là mâu thuẫn là hoàn toàn hợp lí với tư tưởng của người
phương Đông. Thường tạo nên những bài thơ câu thơ hay nhất trong thơ Đường.
Đối với thơ Đường, nhà thơ luôn chú ý đến những vấn đề khi sáng tác như:
đề tài sáng tác, không gian trong thơ, thi liệu và tứ thơ nên bài thơ luôn mang
tính chặt chẽ, thể hiện ý thơ mà không để lộ chủ thể trữ tình trong thơ.
1.2. Sơ lược các chặng đường thơ Lưu Trọng Lư
1.2.1 Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Trọng Lư
Hơn 50 năm cầm bút, sáng tác trong hai giai đoạn trước và sau cách mạng.
Lưu Trọng Lư đã tạo nên được một dấu ấn riêng, một phong cách độc đáo và
cho ra đời những tác phẩm thật sự có giá trị. Chính những điều đó đã đưa Lưu
Trọng Lư thành một phong cách độc đáo, không thể nào lẫn với một phong cách
thơ nào khác.
1.2.2. Thơ Lưu Trọng Lư trước cách mạng
12
Với chặng đường sáng tác khá dài trên 50 năm với trên 4 tập thơ, Lưu
Trọng Lư đã thể hiện cuộc hành trình của cái tôi khá là trung thực. Năm hai
mươi hai tuổi, ông nhập phong trào thơ mới. Lúc này nhà thơ còn rất trẻ. Ông
háo hức bước vào cuộc đời và lao vào làng thơ với trọn vẹn nhiệt tình của một
chàng trai thanh niên mới lớn. Với bản chất chân thật giàu cảm xúc và cách nhìn
đời trong trẻo đằm thắm và tinh tế, Lưu Trọng Lư cho ra đời tập thơ đầu tay
Tiếng thu (1939). Tập thơ đã được giới phê bình và nghiên cứu văn học đánh giá
cao. Nó được xem là một trong những công trình văn nghệ được nhiều tiếng
vang nhất trong những năm đầu thế kỉ xx bởi chất quyến rũ, say đắm của nó.
Trong những vần thơ này, Lưu Trọng Lư viết về những kỉ niệm thời thơ ấu, về
quê hương, dòng sông, về một phút phân tâm hay một giây đoàn tụ,… và những
rung động của tình yêu. Nhiều sáng tác thành công ở giai đoạn này là Tiếng thu,
Nắng mới, Chiếc cáng điều, Xuân về, Chị em, Tình điên, Chiều cổ…trở thành thi
phẩm nổi bật của phong trào thơ mới. Người đọc cảm nhận ở Tiếng thu cái tôi
yêu mến chân thành.
Điều đáng quý ở hồn thơ Lưu Trọng Lư còn là khả năng nắm bắt, diễn tả
những cảm xúc mơ màng, bàng bạc lan thấm vào mọi ngõ ngách của tâm hồn.
Tuy nhiên, tâm hồn ông tuy chân thành nhưng không gắn bó với cái gì lâu dài,
chỉ biết buông mình vào mơ mộng, giang hồ phóng đãng trong một mối sầu não
nề và ngày càng mất phương hướng. Cái tôi ấy đã như một màu sắc buồn đau bi
quan trong thơ Lưu Trọng Lư những năm trước cách mạng. Nhưng may mắn
cho Lưu Trọng Lư, khi nhà thơ mới chớm bắt vào suy nghĩ có tính chất hư vô
thì cách mạng đến, kịp thời chỉ hướng cho ông cũng như bao nhà thơ khác.
1.2.3. Thơ Lưu Trọng Lư sau cách mạng
Cách mạng đã sinh thành ra hai số kiếp: “một kiếp người và một kiếp thơ”.
Từ đây, cái tôi cá nhân của nhà thơ đã có sự hoà nhịp trong cái ta chung rộng
lớn của cộng đồng. Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Trọng Lư có sự chuyển biến về
chất. Đó không còn là cái tôi buồn sầu cô đơn luôn đắm trong tình yêu và mộng
tưởng song song với cái tình và cái mộng giờ đây cao đẹp hơn, hùng vĩ hơn và
cũng hiện thực hơn. Không còn là cái tôi cô đơn kín mít mà là cái tôi công dân
13
hoà nhập với cộng đồng. Đó là cái tôi hiện thực vào dân tộc, hướng vào đại
chúng hướng vào những vấn đề của đời sống kháng chiến.
Nếu như ở thơ Lưu Trọng Lư trước cách mạng, tâm thế hướng nội tự biểu
hiện là tâm thế chủ đạo thì ở những thơ sau này như Người con gái sông Gianh,
tâm thế hướng ngoại và cái nhìn hướng ngoại đã trở thành phương thức trữ tình
chủ yếu. Thơ Lưu Trọng Lư lúc này có sự tăng cường chất liệu hiện thực và
hướng về đại chúng. Những sáng tác trong thời gian này ghi lại một bước
chuyển biến của Lưu Trọng Lư đi về hướng đại chúng hướng dân tộc, thơ ông
đạt độ chín trong sự hoà nhập giữa cái tôi và cái ta. Một chủ đề lớn xuyên suốt
và bao trùm thơ Lưu Trọng Lư- chủ đề đấu tranh thống nhất đất nước. Không
những vậy các bài thơ như Sóng vỗ Cửa Tùng, Tâm sự đôi bờ, Trăng sáng đôi
bờ,…và đến tập Từ đất này, ở đây hồn thơ ông có bước tiến vượt bậc, cái tôi trữ
tình của nhà thơ không còn bó hẹp trong cái riêng tư mà thật sự mở rộng hoà
nhập với cuộc đời chung chan chứa tình người.
Ngoài chủ đề đấu tranh thống nhất, trong Người con gái sông Gianh và một
phần của từ đất này chúng tôi thấy có sự mở rộng đề tài: về bạn bè quốc tế, về
đảng, ca ngợi những đổi thay của cuộc kháng chiến, ở đề tài nào cũng thể hiện
tấm lòng chân thành và yêu mến của tác giả. Đặc biệt trong những bài thơ viết
về Đảng về Bác Hồ, Lưu Trọng Lư bày tỏ tấm lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc.
Rõ ràng ở đây đã có sự phong phú hơn, đa dạng hơn trong cảm xúc, trong
cái tôi trữ tình của nhà thơ. Và sau này, về cuối đời ở tuổi bảy mươi nhưng dòng
thơ Lưu Trọng Lư vẫn tiếp tục tuôn chảy với bài thơ Đường Ta đi đấy bạn ơi,
Tội giặc, Điệp khúc biển trời,…tâm hồn của nhà thơ hoà nhập với bước đi của
nhân dân, đất nước ông nhìn sâu vào quá khứ, lịch sử và ca ngợi lòng yêu nước,
trí dũng cảm, hào hùng với những đổi mới của quê hương đất nước. Đặc biệt ở
giai đoạn này thơ Lưu Trọng Lư đã đạt đến độ trầm tĩnh ở mảng thơ tự biểu hiện
mình. Ông nghĩ nhiều về đời về thơ về bản thân mình nhưng không phải trong
sự cách biệt như trước cách mạng, mà Lưu Trọng Lư đã có một mùa thơ mới
như mong ước của mình. Sự hoà quyện tư duy triết lí và cảm xúc chân thành đã
làm nên vẻ đẹp sâu lắng và sức sống bền bỉ những bài thơ hay của Lưu Trọng
Lư là hành trình vận động cái tôi trữ tình Lưu Trọng Lư từ cái tôi cá nhân chủ
14
nghĩa với những tình cảm viển vông xa thực tế đến cái tôi công dân, cái tôi hiện
thực hoà nhập thực sự với cái ta của cuộc đời. Tuy nhiên quá trình ấy không
diễn ra một cách tự nhiên hay thuận chiều. Nhờ sự cố gắng bền bỉ, liên tục trong
ý thức sống “gắn liền với thời đại chúng ta” và tinh thần lao động nghiêm túc,
cái tôi Lưu Trọng Lư mới có sự bồi đắp theo thời gian.
1.4. Tiểu kết
Thơ Đường du nhập vào nước ta từ rất sớm, ăn sau và ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nền văn học dân tộc.Thời kì Bắc thuộc dân tộc ta bị cai trị dưới triều đại
phong kiến Trung Quốc, các nho sĩ sang nước ta truyền bá tư tưởng nô dịch
Trung Hoa, chế độ thi cử từ Trung Quốc đã ảnh hưởng đến nhiều sĩ tử đất Việt,
nho sĩ nước ta bắt đầu trau dồi kinh thi, thơ phú thơ Đường. Từ đó xuất hiện
nhiều tác phẩm thơ Đường của nhiều tác giả mang đậm dấu ấn Đường thi. Sức
sống của nó vô cùng mạnh mẽ, luôn âm ỉ suốt bao thế hệ dù đó là thơ mới thì
hơi hướng Đường thi vẫn nồng đượm qua các sáng tác của nhà thơ mới trong đó
có Lưu Trọng Lư.
15
Chương 2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ ĐƯỜNG TRONG THƠ
LƯU TRỌNG LƯ
2.1.Nguyên nhân của sự ảnh hưởng
Việt Nam tự ngàn đời xưa chịu ảnh hưởng về nhiều mặt của nền văn hoá
Trung Hoa và cho đến nay, sự ảnh hưởng ấy vẫn còn ghi dấu ấn rất rõ. Trong
đó, sự ảnh hưởng của thơ Đường đến văn học Việt Nam là một điển hình mà
nguyên nhân dẫn đến sự ảnh hưởng ấy bao gồm nhiều mặt, tiêu biểu là trong thơ
Lưu Trọng Lư.
Trước hết, nước ta đã từng có một thời kỳ dài chịu sự thống trị của phương
Bắc, nằm trong nền văn minh lớn Trung Hoa, quán tính từ thời “nghìn năm Bắc
thuộc” là theo Hán học và chữ Hán, giáo dục, thi cử đều tham khảo của Trung
Quốc, học để thi một cách thực dụng thì theo đúng công thức “thi thiên, Phú
bách, Văn sách, Năm mươi”… thuộc lòng để bắt chước là đỗ, làm thơ cũng như
là một nét trong tính cách và phẩm chất, năng khiếu của người Việt Nam. Hơn
nữa, ngôn ngữ Hán và Việt đều thuộc loại đơn lập, đơn âm là chính, lại có thanh
điệu lên bổng, xuống trầm giống nhau, thể thơ Đường luật (thơ cách luật) ở
Trung Quốc đến đời Đường coi như đạt mức hoàn chỉnh về nhiều mặt.
Đầu đời Đường (Sơ Đường) thơ cận thể, thơ luật trở thành thể thơ như mọi
người ưu chuộng. Khi đã được đưa vào thi cử, nó càng trở nên có tính chất quan
phương. Tóm lại, đó là một thể thơ quy phạm triệt để theo mỹ học phương Đông
ở Trung Quốc thời đó rồi lan sang nước ta. Nói quy phạm triệt để là số từ, số
câu, số chữ cân đối thanh điệu, cân đối trong đối ngẫu, ở lời, ở ý, đến kết cấu
chặt chẽ: đề, thực, luận, kết nhất nhất có nhiệm vụ riêng,luôn tới đề tài, lập ý,
cấu tứ, chọn lời, tránh những thứ khiếm nhã, những khuyết tật phong yêu, hạc
tất… Hết thảy đều theo những quy tắc cứng rắn, tuyệt đối không được vi phạm.
Đời Đường nổi tiếng là một thời đại thịnh trị, văn hoá, văn minh phát triển cao,
không gian tư duy, tư tưởng mở rộng, trật tự xã hội thanh bình, có thể cũng là
16
nguồn gốc cho mặt thẩm mỹ được quy phạm đến mức đó. Còn như đến lúc nào
về sau, nó trở thành bước cản đường tiến lên thì đó là chuyện khác.
Như vậy, văn học nước ta tiếp nhận thể thơ Đường luật là tất nhiên, không bỏ
chút gì về mọi quy phạm trong đó. Nhất là khi nó được đưa vào thi cử, giáo dục.
Nói đúng hơn, sự tiếp nhận ấy mới là hình thức, mặt cạn của thi pháp, nó còn tiếp
nhận chiều sâu của thi pháp. Chính vì thế mà trải qua các thời kì lịch sử của nước
nhà nền văn học Việt Nam cũng đã thể hiện rất rõ những sự ảnh hưởng này.
Ngay từ thời trung đại, phải nhắc đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan… những thi sĩ kiệt xuất thời kì ấy của đất Việt
đã sử dụng rất nhiều những môtip quen thuộc trong Đường thi. Ví như Vương
Bột- một trong Sơ Đường tứ kiệt đã viết trong Đằng Vương Cát Tự:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”.
Đây được xem là hai câu thơ giai cú, mẫu mực cho muôn đời cả về âm
hưởng, âm điệu rất hài hoà nhưng lại có rất nhiều sự đối lập. Cảnh vật ở đây rất
quen nhưng cách nói lại rất lạ. Vương Bột đã để những mặt tưởng chừng như
đối lập bên cạnh nhau cho đồng nhất như: lấy tĩnh đặt cạnh động, đem trên đặt
cạnh dưới, thực- hư, diện- điểm… và ở Nguyễn Du chúng ta cũng có thể thấy sự
tương giao này ở một số nét cơ bản như mối quan hệ giữa diện và điểm, người ta
nhớ đến hai câu thơ tài hoa của ông trong buổi đầu gặp gỡ:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Đó chỉ là một ví dụ nhỏ trong vô vàn hiện thực mà ta có thể nhận thấy rất
phổ biến trong thơ Việt Nam.
Trong dòng chảy đó những thi phẩm Việt Nam hầu hết ít nhiều mang
những phong vị này của thơ Đường kể cả trong phong trào thơ mới. Ta tưởng
17
chừng ở phong trào này, những thi pháp cổ điển, dân gian không còn vướng
bóng, ấy vậy mà không những xuất hiện mà còn gần như trở thành điểm trung
tâm, trọng điểm để tạo nên những bài thơ hay, một thi phẩm sâu sắc… Có thể kể
đến những tác giả đầu tiên và nổi bật trong phong trào thơ mới có ảnh hưởng
trực tiếp trong vấn đề này như: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng
Lư,… trong mỗi nhà thơ chúng ta đều nhận thấy có những điểm tương đồng về
đề tài, không gian, thi liệu, đặc biệt là tứ thơ… Điều quan trọng ở đây, không
phải chỉ nằm ở tầng mặt của sự ảnh hưởng đó còn phải hiểu hơn nữa về cách ảnh
hưởng, gặp gỡ như thế nào của thi pháp thơ Đường vào văn học Việt Nam, đặc
biệt ở phong trào thơ mới.
2.2. Ảnh hưởng về nội dung
2.2.1. Về đề tài
2.2.1.1.Đề tài tình yêu đôi lứa
Trong vô vàn những bộn bề của cuộc sống hằng ngày, tình yêu luôn gợi
về một cái gì đó rất tinh khiết, nhẹ nhàng. Đó là chuyện muôn thuở mà cũng rất
đỗi riêng tư. Gọi là muôn thuở vì những xúc cảm yêu thương vốn là tình cảm tự
nhiên của con người, riêng tư ở mỗi người, mang những sắc thái riêng không
trộn lẫn. Trước đây đạo đức phong kiến với những quan niệm nghiệt ngã đã kìm
hãm những tình cảm cá nhân, và tình yêu- thứ tình cảm cao quý nhất của con
người cũng chịu chung số phận. Thơ mới đến cái tôi và khát vọng cá nhân của
con người được giải phóng. Tình yêu với muôn vàn vẻ đẹp và cung bậc cảm xúc
đã đến với ta trong những vần thơ tha thiết nhất.
Ta bắt gặp trong thơ của Lý Bạch cũng nói về đề tài tình yêu đôi lứa trong
bài Ý xuân, trong thời điểm ông sống và làm thơ thì sự bó buộc xã hội lúc bấy
giờ khiến các nhà thơ ít nói về đề tài này, vượt lên hoàn cảnh để nói lên tiếng
nói của thời đại, cất cao tiếng hát của con người bằng những tình cảm lớn lao,
nhân sinh. Ông đã chiến thắng sự rối ren, tương lai mờ mịt mà Lý Bạch đã gửi
gắm qua bài thơ này.
18
“Cỏ Yên như sợi tơ xanh
Dâu Tần quấn quýt toả cành xum xuê
Khi chàng nghĩ đến ngày về
Là khi thiếp đã tái tê trong lòng
Gió xuân đâu biết cho cùng
Cớ sao len lỏi vào trong màn là”.
Bài thơ này với ba câu đầu nặng cảnh nhẹ tình, cỏ được đối với dâu, Yên
được đối với Tần. Dâu thì sinh ra tơ thành sợi tơ tình, ông tơ bà nguyệt xe duyên
họ nên được “xum xuê” hạnh phúc, song chiến tranh làm cho đôi lứa chia lìa, kẻ
Yên người Tần. Trong thời buổi rối ren, chàng nơi biên cương khói lửa- thiếp ở
chốn khuê phòng lạnh lẽo, chàng mải mê cung ngựa, thiếp vò võ cô sầu, khi
chàng nghĩ đến ngày về thì cũng là lúc lòng thiếp đã tái tê. Tác giả ước muốn
mượn cái vô hình của gió, để chàng gửi gắm nỗi nhớ thương vào cơn gió ấy mà
còn thể hiện sự chờ đợi, nỗi mong mỏi đến độ lạnh lẽo gần như băng giá nay lại
thêm ngọn gió xuân len lỏi vào trong tận “màn là” lại càng nhân lên thêm nỗi
nhớ nhung mà vẫn thuỷ chung, cam chịu. Tuổi trẻ mơn mởn cành tơ, nhưng họ
lại không được hưởng cái tình cảm tự nhiên ấy nên nỗi đau chia cách lại càng
thêm thấm thía, bài thơ không nói một từ nào về tình yêu đôi lứa nhưng đằng
sau nó ẩn chứa một tình yêu trĩu nặng, thuỷ chung của hạnh phúc lứa đôi. Đây là
một bài thơ hay và độc đáo trong thơ Đường.
Tình cảm yêu đương những sợi tơ lòng vướng vít, giăng mắc, vấn vương
trước ngõ, bên thềm, lan từ bóng lá ủ ê đưa, khiến cho rặng liễu cũng phải bơ
phờ cảm động và bóng trăng mờ cũng thổn thức. Đây là tình yêu đầu đời thanh
khiết và có sức cuốn hút kì lạ. Lưu Trọng Lư đã diễn tả thật tinh tế những rung
động cực kì tinh vi của con người. Thơ Lưu Trọng Lư trong trẻo, hiền lành
nhưng buồn. Nỗi buồn thấm thía trong thơ là nỗi buồn của một tình yêu tha thiết
nhưng không dễ bày tỏ, không được thấu hiểu. Tình yêu trong thơ Lưu Trọng
19
Lư là tình yêu đơn phương không có sự thấu hiểu giao cảm của hai tâm hồn:
Một mùa đông, Khi mùa lá rụng,… với Lưu Trọng Lư đã yêu là phải sầu, phải
khổ nếu không thì sẽ không còn thơ mộng lãng mạn nữa:
“Thuyền yêu không ghé bến sầu,
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng
( Một mùa đông IV)
Tình yêu trong thơ mới là lãng mạn thơ mộng, bay bổng, choáng ngợp, say
men trong tình yêu chưa bắt nguồn từ thực tế cho nên nó dễ dàng gặp trắc trở, éo
le, ngang trái và dẫn đến chia li. Cũng như các nhà thơ trong phong trào thơ mới
Lưu Trọng Lư cũng bất mãn với thời cuộc mà tìm đến tình yêu. Trốn trong tình
yêu và tự ru cái tôi của mình ở đó, nhưng càng đi sâu vào trong bản ngã của
mình thì ông lại càng thấy mình cô đơn, nhỏ bé, ích kỉ. Do vậy mà tình yêu của
ông cũng bơ vơ lạc lõng.
Cách mạng đến,cùng với sự chuyển biến của cái tôi trữ tình, tình yêu trong
thơ Lưu Trọng Lư không còn là tình yêu cô đơn, buồn sầu, tuyệt vọng nữa mà
đã nồng thắm, ấm áp tình đời, tình người. Cũng không phải là tình yêu đơn
phương mà là tình yêu song phương đẹp đẽ, ngọt ngào: Tiếng thu nay, Ngò cải
đơm hoa…
Sau cách mạng thơ tình Lưu Trọng Lư đã có sự chuyển biến về chất, vẫn là sự
nhạy cảm chân thành trong tình yêu nhưng lại mang tâm sự lắng sâu hơn. Tình yêu
không xa lìa với bối cảnh và nhịp đập của xã hội đất nước: Tâm sự đôi bờ
Nhìn chung thơ Lưu Trọng Lư là những mạch cảm xúc chân thật. Ông
không che đậy lòng mình cũng không khoa trương thi vị hoá. Thơ ông như
những lời tâm sự thấu hiểu lẽ đời, tình đời khiến nó thấm thía. Đây là đặc điểm
nổi bật làm nên phong cách riêng của thơ Lưu Trọng Lư.
20
2.2.1.2. Tình yêu thiên nhiên, đất nước
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thơ. Là đối tượng phản ánh, là nơi kí
thác tâm sự hoặc làm nền cho những trạng thái cảm xúc. Vốn là người yêu cái
đẹp nhạy cảm với cái đẹp, luôn đi tìm và chắt chiu từ cái đẹp thanh cao đến cái
đẹp bình dị đời thường. Thiên nhiên trong thơ Lưu Trọng Lư phong phú nhiều
màu sắc. Thơ ông ngập những trời, mây gió, trăng hoa, chim cá… bên cạnh đó
ta cũng bắt gặp thiên nhiên phong phú ấy với những hình ảnh cụ thể, trở đi trở
lại như: mùa thu, sông biển, trăng hoa, gió mây,… chẳng hạn: Tiếng thu, Tình
điên, Chia ly, Mây trắng, Nắng thu về,…
Ngoài hai hình tượng khai thác ở trên, ông còn rất nhiều phát hiện tinh tế
độc đáo. Về một mùa đông bên nhau đã đi qua trong bài thơ Mưa… mưa mãi
“Qua rồi mùa ân ái,
Đàn sáo đã sang sông”.
Mùa xuân về lại cảm nhận trong bài Xuân về:
“Rồi ngày lại ngày
Sắc màu phai
Lá cành rụng”.
Và cả cía nhiệt thành của mùa hạ với Mộng chiều hè
Viết về thiên nhiên, Lưu Trọng Lư còn say mê nồng nàn với sông biển. Đó có
thể là dòng sông quê hương êm đềm ân nghĩa thuỷ chung trong kỉ niệm: Giang
hồ… dòng sông giới tuyến đau nhói nỗi chia cắt: Sóng vỗ cửa Tùng, Người con gái
sông Gianh…những dòng sông gắn với tâm trạng và nỗi niềm tâm sự: Tâm sự đội
bờ, Trăng sáng đôi bờ,… và sông nước nơi nhà thơ đã từng đi qua: Mẻ chai sớm
hôm ấy, Mẫu nhật kí Hàm Rồng, Dòng Đanuýp xanh,…như vậy có thể thấy Lưu
Trọng Lư rất yêu thiên nhiên và rất thích miêu tả thiên nhiên.
21
Thiên nhiên tràn vào thơ Lưu Trọng Lư khiến cho thơ ông có một phong vị
đặc biệt. Đó là một yếu tố làm nên nét riêng trong phong cách thơ Lưu Trọng Lư.
Tình yêu quê hương đất nước cũng là một biểu hiện trong thơ Lưu Trọng
Lư.Trước hết đó là tình yêu ở những miền đất, dòng sông quê hương Quảng
Bình nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi tuổi thơ ông đi qua với bao kỉ niệm ngọt
ngào, miền quê ấy tuy xa mà gần luôn da diết khắc khoải trong kỉ niệm và chan
chứa chờ mong như là máu thịt một phần đời của thi nhân.Ông giành cho quê
hương một tình cảm tha thiết đằm sâu nhất với những bài thơ cảm động: Nắng
mới, Chiếc cáng diều, Chiều cổ, Mây trắng, Tình điên, Lại mùa phượng đỏ…
Sau Quảng Bình ông viết về Huế- quê hương thứ hai ở đây có biết bao
nhiêu kỉ niệm buồn vui. Có những bài thơ mang một hương vị đặc biệt: Mưa…
mưa mãi, Giang hồ, Huế nghìn yêu, Tìm em, Sóng vỗ cửa tùng…đều rất tha thiết
đậm đà.
Ngoài ra ông còn viết về những miền quê những nơi mà ông đã từng đi qua
từ Đồng Hới, Hà Nội đến Nha Trang, Sài Gòn. Ở bất cứ nơi nào nhà thơ cũng có
những câu thơ đầy tự hào, đầy niềm thương và nỗi nhớ.
Viết về tình yêu đất nước Lưu Trọng Lư không chỉ nói tiếng nói tha thiết
nhất về nỗi nhớ mà còn là tiếng nói đau xót cảm thương với quê hương, đất
nước đang chịu cảnh đắng cay. Sự ngăn cách hai bờ Nam Bắc trở thành nỗi
nhức nhối vô thường trong trái tim thi sĩ thể hiện trong các bài thơ: Tâm sự đôi
bờ, Sóng vỗ cửa Tùng, Nói cho mà biết,…nếu tình yêu quê hương đất nước trong
những năm đầu kháng chiến gắn với nỗi đau xót của sự chia cắt thì tình yêu quê
hương, đất nước ở thời kì sau lại gắn liền với niềm tự hào trước những thay đổi
sau cách mạng. Và hình ảnh của những người dân quả cảm, không chịu khuất
phục: Nhật kí, gái miền Nam, Giải phóng miền Nam… Đánh thắng giặc Mỹ, giải
phóng niềm Nam, thống nhất đất nước. Đó là nỗi lòng nguyện vọng của không
chỉ riêng một người, không chỉ riêng Lưu Trọng Lư mà là nỗi lòng, lòng mong
22
ước thiết tha của cả dân tộc. Lưu Trọng Lư đã nung nấu sống và viết với nỗi
lòng chung ấy.
2.2.1.3. Tình yêu con người
Bên cạnh tình yêu đất nước thì tình yêu con người cũng là một trong những
yếu tố quan trọng mà nhà thơ quan tâm. Với Lưu Trọng Lư cuộc sống của
những con người trong xã hội đảo điên đó mong manh như thân kiếp của cái đẹp
“sống một kiếp vạn người thương”. Thi nhân đã viết về họ bằng niềm thương
cảm mênh mông, vời vợi và sự chia âm nghẹn ngào, da diết như : Giang hồ,
Hoa bên đường, Hồn nghệ sĩ,… và trong nhiều bài khác như: Chị em, Lòng cô
phụ,…Lưu Trọng Lư cũng gửi gắm biết bao ưu tư, tình cảm sâu xa qua những
điều tưởng chừng như thật giản dị nhưng lại đầy niềm thương cảm.
Thơ Lưu Trọng Lư viết về tình yêu con người không chỉ nói tiếng nói đầy
thương cảm. Mà bên cạnh đó, ông còn là người nhạy cảm trước cái đẹp. Ông
muốn miêu tả cuộc sống với lí tưởng đẹp và thường thiên về cái đẹp trong con
người. Vì vậy mà khi đi vào cuộc sống mới, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Lưu trọng Lư thường có xu hướng muốn lướt qua phần hiện thực có phần
gai góc, mà hướng vào khai thác phần nên thơ, những nét duyên dáng ở những
đối tượng tự nó vốn là đẹp. Với những nét đó trong phong cách, thơ Lưu Trọng
Lư viết về con người thường mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, sinh động trong tâm hồn.
Chẳng hạn: Tiếng hát thanh niên, O tiếp tế, Ngò cải đơm hoa, Người con gái
sông Gianh,…
Thơ Lưu Trọng Lư giản dị nhỏ nhẹ là vậy. nhưng cũng thấm thật sâu trong
trái tim những người từng trải, những người đã sống, đã yêu. Và đặc biệt tình
yêu đất nước, tình yêu con người đều được thể hiện trong những bài thơ trong
sáng giản dị, chân thành. Đó là cái độc đáo,nét riêng trong thơ Lưu Trọng Lư.
23