Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)
Đề tài:
TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Ths. Diệp Thành Nguyên
Bộ môn Luật hành chính
Huỳnh Ngọc Thảo Trang
MSSV: 5095386
Lớp: Luật hành chính K35
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 1
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội khóa IX đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Theo đó, kể từ ngày 01/7/1996 Tòa án nhân dân
các cấp chính thức được giao thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính. Ngày
21/5/1996, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/7/1996; được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25/12/1998 và sửa đổi, bổ
sung lần thứ hai ngày 05/4/2006.
Việc ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính,
góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân;
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, công tác thực tiễn giải quyết các vụ án
hành chính trong những năm qua vẫn còn nhiều bất cập xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau nhưng trong đó nổi bật là sự hạn chế từ những quy định của pháp luật tố tụng
hành chính và thực trạng công tác tổ chức, cán bộ liên quan đến hoạt động xét xử án hành
chính của Tòa án nhân dân.
Tại kỳ họp thứ VIII ngày 24/11/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật tố tụng
hành chính, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/7/2011. Sự ra đời của Luật tố tụng hành
chính là một trong những bước tiến của công tác lập pháp, thể hiện được sự đánh giá
đúng về thực trạng giải quyết các vụ án hành chính thời gian vừa qua, sự nâng lên về mặt
nhận thức của xã hội đối với tầm quan trọng của tố tụng hành chính. Tuy nhiên qua
những năm tháng đầu có hiệu lực, Luật tố tụng hành chính cũng xuất hiện những khó
khăn nhất định cho công tác giải quyết các vụ án hành chính.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành
chính ở nước ta” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn hướng tới mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xét xử vụ án hành chính,
đánh giá quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về xét xử vụ án hành chính,
qua đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xét xử các vụ án hành chính và
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 2
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
nâng cao hiệu quả của hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính, từ đó góp phần
xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp tình hình của đất
nước trong giai đoạn này.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động xét xử vụ án hành chính, trên cơ
sở đó đưa ra những khái niệm cơ bản về xét xử các vụ án hành chính.
- Đánh giá những quy định pháp luật hiện hành về xét xử các vụ án hành chính và
đánh giá thực tiễn việc thực hiện pháp luật về xét xử vụ án hành chính thông qua các báo
cáo của ngành Tòa án
- Chỉ ra những bất cập và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật về hoạt động
xét xử vụ án hành chính. Và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
cho việc xét xử vụ án hành chính.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt pháp luật: Đề tài nghiên cứu một số vấn đề về hoạt động xét xử vụ án hành
chính được quy định tại Luật tố tụng hành chính 2010, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2002 và các văn bản liên quan.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu về hoạt động xét xử các vụ án hành chính
trên phạm vi cả nước, trên cơ sở đó đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định của
pháp luật để tìm ra những điểm còn hạn chế bất cập. Từ đó, đưa ra một số phương hướng,
giải pháp hoàn thiện mang tính thực tế về vấn đề này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt
động xét xử vụ án hành chính. Trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp
như: phân tích tổng hợp, so sánh, thống kê.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
Chương 2: Quy định của pháp luật về hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 3
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
Chương 3: Thực trạng hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta trong thời gian
gần đây và những kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử án hành
chính.
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 4
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA
1.1. SỰ CẦN THIẾT THÀNH LẬP TÒA HÀNH CHÍNH TRONG HỆ THỐNG
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước mang tính chất mệnh lệnh, nhưng trong
chế độ dân chủ và đặc biệt là ở quốc gia tôn trọng dân chủ như Việt Nam thì tính chất
mệnh lệnh không có nghĩa là một chiều, áp đặt tuyệt đối từ cơ quan hành chính Nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước đến các tổ chức và công
dân trong xã hội, mà trái lại pháp luật thừa nhận sự phản hồi của tổ chức và công dân đối
với hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Cụ thể nhất là việc pháp luật quy định về
trình tự, thủ tục khiếu nại và khởi kiện của tổ chức và công dân đối với cơ quan hành
chính Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước về những
quyết định hành chính (cá biệt), hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc mà
cơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước
đã áp dụng hoặc hành xử đối với họ và bị cho là các quyết định, hành vi đó là trái pháp
luật. Những quy định của pháp luật về khiếu nại, khởi kiện, giải quyết khiếu nại, khởi
kiện của tổ chức và công dân đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc là khuôn khổ quan trọng để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, thực thi dân chủ trong xã hội.
Trước ngày 01 tháng 7 năm 1996, việc giải quyết khiếu nại hành chính do cơ quan
hành chính Nhà nước người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước giải
quyết. Cơ quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
Nhà nước vừa là người bị khiếu nại và cũng vừa là người giải quyết khiếu nại nên không
đảm bảo tính khách quan, dân chủ và có hiệu quả; quy trình giải quyết khiếu nại khép
kín, thiếu tính minh bạch và trở thành vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Do đó, việc
thành lập Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân để xét xử những khiếu nại
hành chính nhằm giải quyết vụ việc khiếu nại khách quan, nhanh chóng, có hiệu quả để
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 5
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
củng cố lòng tin của nhân dân đối với chính quyền; đồng thời góp phần chống quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy hành chính Nhà nước được coi là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Tòa án nhân dân.
Ở Việt Nam, Tòa hành chính được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1996.
Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 26/10/1995 thì Tòa hành chính không được tổ chức thành
một hệ thống độc lập, mà tổ chức thành các Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân
dân, gồm: Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh; ở
cấp huyện có các Thẩm phán chuyên trách xét xử các vụ án hành chính. Theo quy định
này thì Tòa án nhân dân các cấp có quyền xét xử các vụ án hành chính.
Tòa hành chính có vai trò đặc biệt trong việc bảo đảm tôn trọng quyền công dân,
quyền con người và tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực Nhà nước
được thể hiện rõ nét nhất. Vai trò của Tòa hành chính được quyết định bởi chức năng của
Tòa hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực quản lý hành chính Nhà nước giữa công dân với cơ quan hành chính Nhà nước. Khi
xét xử vụ án hành chính, Tòa hành chính có quyền và nghĩa vụ kiểm tra và ra phán quyết
về tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Việc thành lập Tòa hành chính và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa hành chính
trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính ở nước ta. Đã
buộc các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải tự nâng cao
năng lực quản lý, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm, có những thay đổi phù hợp
trong thủ tục cũng như phương thức điều hành, quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
công dân thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của mình và buộc những người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải chú ý cân nhắc thận trọng hơn khi ra
một quyết định hành chính hay khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Khái niệm tố tụng hành chính
Khái niệm về Tố tụng hành chính là khái niệm còn khá mới mẻ trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam về cả phương diện lý luận và thực tiễn. Để tìm hiểu về tố tụng hành
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 6
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
chính, chúng ta cần phải hiểu rõ những quan niệm về hoạt động tài phán nói chung và tài
phán hành chính nói riêng bởi giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tố tụng hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán. Thuật ngữ “tài
phán” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “jurisdictio”, trong tiếng Anh là từ “jurisdiction”.
Theo nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực của chính phủ trong việc xem xét tính đúng sai
của các hoạt động diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ
này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá và ra các phán
quyết đối với vụ việc cụ thể và với các đối tượng xác định (Bryan A.Garner, Black’s Law
Dictionary, 1999, tr 85). Theo khái niệm này thì tài phán được hiểu bao gồm hoạt động
giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền
của cơ quan hành chính.
Về khái niệm tài phán hành chính, quan niệm của các quốc gia thuộc các hệ thống
pháp luật khác nhau trên thế giới không có sự thống nhất.
Ở các nước thuộc hệ thống Common Law không có sự phân biệt rõ ràng giữa
công pháp và tư pháp, do đó các tranh chấp hành chính cũng không được xác định rõ là
phát sinh trong lĩnh vực nào. Ở các nước này, các tranh chấp hành chính trước hết được
giải quyết bởi cơ chế giải quyết khiếu nại do cơ quan hành chính đã ban hành quyết định
hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu nại. Trường hợp người dân không đồng ý
với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án. Tuy nhiên các nước
này không thành lập hệ thống Tòa án chuyên trách mà các tranh chấp hành chính được
giải quyết bởi hệ thống Tòa án thường, theo đó thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh
chấp này cũng là thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với các quốc gia thuộc hệ thống Civil Law, có sự phân định rạch ròi giữa luật
công và luật tư, do đó các tranh chấp phát sinh cũng được xác định rõ thuộc lĩnh vực luật
nào. Tranh chấp hành chính là tranh chấp nảy sinh trong lĩnh vực luật công, do đó được
giải quyết theo một cơ chế khác so với các tranh chấp trong lĩnh vực luật tư. Ở các nước
này, các tranh chấp hành chính có thể được giải quyết bằng con đường giải quyết khiếu
nại (cơ chế hành chính) bởi các cơ quan đã ban hành quyết định hành chính hoặc thực
hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Bên cạnh đó để đảm bảo tính độc lập, khách quan
trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính thì một hệ thống cơ quan tài phán hành
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 7
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
chính độc lập được thành lập đó là hệ thống Tòa án hành chính, tồn tại song song bên
cạnh hệ thống Tòa án tư pháp để chuyên giải quyết các tranh chấp hành chính bằng thủ
tục tố tụng. Vậy theo quan điểm của các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật này thì tài
phán hành chính là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa các cá nhân, cơ
quan, tổ chức với các cơ quan công quyền; đồng thời có một hệ thống Tòa án hành chính
được thành lập để giải quyết các tranh chấp này.
Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây, tồn tại quan
điểm cho rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước xã hội chủ nghĩa là
đại diện cho quyền lực của nhân dân. Do quan điểm này mà các nước thuộc hệ thống xã
hội chủ nghĩa cho rằng quyền lợi của nhà nước và nhân dân về cơ bản là thống nhất,
không thừa nhận sự tồn tại các tranh chấp giữa nhà nước và công dân. Các quốc gia này
cũng không có sự phân định rạch ròi giữa công pháp và tư pháp, các tranh chấp hành
chính được giải quyết theo cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính (thủ tục hành chính).
Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập (01/7/1996) thì vấn đề giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền đã được quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng
của mô hình hệ thống pháp luật cũng như tư tưởng lập pháp xã hội chủ nghĩa trước đây
nên trong thời kỳ này pháp luật nước ta chỉ thừa nhận các tranh chấp hành chính như
những khiếu nại thông thường, được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại hành
chính mà không được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá
IX, kỳ họp thứ VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật tổ chức
Toà án nhân dân, trong đó Toà án nhân dân được trao chức năng xét xử các vụ án hành
chính. Theo đó hệ thống Toà hành chính đã được thành lập bên cạnh các Toà chuyên
trách khác của Tòa án nhân dân. Đây có thể coi là sự chuyển biến căn bản về tư tưởng
lập pháp trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính ở nước ta, là dấu mốc đánh
dấu sự ra đời của ngành luật hành chính ở Việt Nam. Như vậy mô hình tài phán hành
chính ở Việt Nam không theo mô hình của các quốc gia thuộc hệ thống Common Law,
cũng không hoàn toàn giống các quốc gia thuộc hệ thống Civil Law. Chúng ta thừa
nhận cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng, tuy nhiên không
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 8
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
thành lập một hệ thống Tòa án hành chính độc lập mà thành lập các Tòa hành chính với
tư cách là tòa chuyên trách thuộc hệ thống Tòa án nhân dân.
Vậy Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan Nhà nước và tổ
chức trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật quy định
đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính.1
Xét về bản chất, Tố tụng hành chính là một phương thức giải quyết các khiếu
kiện hành chính, nó tồn tại song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành
chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. So với cơ chế giải quyết các khiếu kiện
hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, Tố tụng hành chính có ưu
điểm lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách
độc lập - đó là các Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân. Không những thế, thủ tục tố
tụng hành chính còn bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước
Toà án, đây là điều không thể có được khi giải quyết theo thủ tục hành chính các khiếu
kiện hành chính. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi
các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan công quyền.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của vụ án hành chính
1.2.2.1. Khái niệm vụ án hành chính
Quản lý hành chính là một hoạt động của Nhà nước được thực hiện trước hết và chủ
yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành các văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức thực hiện
pháp luật đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội
và hành chính - chính trị. Hoạt động này được thực hiện trên cơ sở pháp luật, đảm bảo
các quyền và lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Bởi vậy, trong quá trình thực hiện
quản lý hành chính nhà nước khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay tranh chấp về lợi ích,
quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng
1
Ths. Diệp Thành Nguyên: Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Khoa Luật, Trường
Đại học Cần Thơ, 2012
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 9
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
quản lý hành chính nhà nước. Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc
chủ thể quản lý hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những
xung đột, tranh chấp này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra Tòa án có thẩm quyền để
giải quyết thì sẽ phát sinh vụ án hành chính.
Theo từ điển Tiếng Việt2, thì “vụ” là việc, sự việc không hay, rắc rối cần phải giải
quyết. Còn “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án. “Vụ án” là công
việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét xử của Tòa án. Như
vậy có thể hiểu khái quát về vụ án hành chính là vụ việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp
trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Hiện nay khái niệm vụ án hành chính chưa được quy định cụ thể trong một văn
bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm này, ta có thể hiểu như
sau: “Vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính có thẩm quyền do cá nhân,
cơ quan Nhà nước, tổ chức khởi kiện ra trước Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình”.3
1.2.2.2. Đặc điểm của vụ án hành chính
Từ quan điểm trên, chúng ta có thể nhận diện vụ án hành chính ở những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện và được thụ lý
vụ án hành chính của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật.
Điều 5 Luật tố tụng hành chính 2010 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình theo quy định của Luật này”. Vụ án hành chính chỉ có thể phát sinh khi có tranh
chấp giữa chủ thể và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước trao quyền cho
đối tượng quản lý hành chính được khởi kiện vụ án hành chính khi có sự xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên nhân của sự xâm hại này là xuất phát từ
việc các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ quan này ban
2
Xem từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998
Ths. Diệp Thành Nguyên: Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Khoa Luật, Trường
Đại học Cần Thơ, năm 2012
3
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 10
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính không tuân thủ
theo quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức đó. Nội dung và mức độ gay gắt của việc khởi kiện này phụ thuộc vào nội
dung và mức độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước. Vụ án hành chính xuất phát từ việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp những đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính hay quyết
định kỷ luật buộc thôi việc.
Thứ hai, Vụ án hành chính phát sinh khi được Tòa án thụ lý
Đặc điểm này cho thấy, vụ án hành chính muốn phát sinh cần phải đáp ứng đầy đủ
các điều kiện do pháp luật quy định. Việc quy định cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp hành chính không có nghĩa là vụ án hành chính đương nhiên phát sinh khi
có đơn khởi kiện vụ án. Có thể xem, đặc điểm thứ nhất là điều kiện cần thiết đặc điểm
này chính là điều kiện đủ của việc phát sinh vụ án hành chính tại Tòa án. Việc thụ lý vụ
án hành chính sẽ làm phát sinh trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án trong việc giải
quyết vụ án hành chính. Bởi lẽ, mỗi cấp Tòa án được giao nhiệm vụ giải quyết những
tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình theo quy định pháp luật, nhằm tránh tình trạng
tranh chấp thẩm quyền giữa các cấp Tòa án gây cản trở cho quá trình xét xử. Tòa án chỉ
có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự, nếu vụ án đó đã được thụ lí. Việc thụ lí vụ án hành chính
không chỉ chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ án
hành chính mà còn giúp cho Tòa án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng
tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp
về thẩm quyền có thể xảy ra. Việc thụ lí vụ án còn làm phát sinh những quyền hạn cụ thể
của Tòa án trong xét xử hành chính. Khi đơn kiện đã được thụ lí thì vụ án hành chính đã
phát sinh và vụ án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định của Tòa án.
1.2.3. Khái niệm và đặc điểm xét xử vụ án hành chính
1.2.3.1. Khái niệm xét xử vụ án hành chính
Có quan niệm cho rằng: “Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ
của các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm
chức năng xét xử, mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Không một ai có
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 11
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
bằng bản án”.4
Quan niệm khác cho rằng: “Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xem
xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết
định của Tòa án”.5 Theo quan niệm này, xét xử chỉ là những hoạt động tại phiên tòa của
Tòa án. Chúng ta có thể hiểu khái quát nhất về xét xử không chỉ là việc kiểm tra lại các
tài liệu, chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và tuyên án. Mà xét xử là một
hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước do Tòa án thực hiện, nhằm giải quyết
những vụ án thuộc nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính…
Có thể hiểu xét xử vụ án hành chính là một chế định của pháp luật tố tụng hành
chính, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng giữa tòa án với
viện kiểm sát; giữa tòa án, viện kiểm sát với những người tham gia tố tụng trong giai
đoạn xét xử vụ án hành chính. Với tư cách là một giai đoạn trong quá trình tiến hành tố
tụng, xét xử vụ án hành chính là một giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng hành
chính.
Xét xử vụ án hành chính là giai đoạn tiếp theo sau khi tòa đã thụ lí đơn khởi kiện
của cá nhân, tổ chức (đương sự) đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước và quyết định kỉ luật buộc thôi việc của thủ trưởng các cơ quan nhà nước đối
với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng trở xuống, khi các đương sự cho rằng
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Hoạt động xét xử vụ án hành chính chỉ được tiến hành khi vụ án không thuộc
trường hợp bị tạm hoãn, đình chỉ, tạm đình chỉ. Như vậy, mọi hành vi tố tụng khác như
khởi kiện, xem xét đơn khởi kiện, thụ lí vụ án, điều tra, chứng minh, thu thập chứng
cứ…đều phục vụ cho hoạt động xét xử vụ án hành chính. Do đó, quyền và nghĩa vụ tố
tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện công khai, đầy
đủ nhất ở phiên tòa xét xử. Mục đích của phiên tòa xét xử là xem xét tính hợp pháp hay
không hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính và xác định có hay không
4
TS. Nguyễn Văn Quang: Tổng quan chung về xét xử hành chính ở Việt Nam, Đại học luật Hà Nội, tr.576
Ths. Nguyễn Mạnh Hùng: Trình tự xét xử các vụ kiện hành chính tại Toà án theo pháp luật Việt Nam, Đại học luật
Hà Nội, tr.360
5
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 12
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
thiệt hại về vật chất do quyết định hành chính, hành vi hành chính đó gây ra đối với cá
nhân, tổ chức. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động xét xử, hội đồng xét xử còn xem xét yêu
cầu của người khởi kiện, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ. Tòa án sẽ căn
cứ vào thực tế vụ án và dựa vào cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật để ra phán quyết
bằng bản án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong quá trình xét xử, mọi chứng cứ và tài liệu mà các đương sự cung cấp hoặc
tòa án thông qua điều tra, xác minh được xem xét một cách công khai tại tòa. Các bên
được bình đẳng tranh luận với nhau do trước đó họ không có điều kiện thực hiện nhằm
làm sáng tỏ bản chất vụ án để rút ra kết luận làm cơ sở cho quyết định của vụ án. Bản án
hành chính sơ thẩm là kết quả của hoạt động xét xử vụ án hành chính. Bởi vậy, xét xử
được xác định là khâu kết thúc của quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi kiện, thụ lý đơn
khởi kiện, quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Như vậy, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về xét xử vụ án hành chính như sau: Xét
xử vụ án hành chính là việc tòa án đưa vụ án thuộc thẩm quyền ra xét xử công khai tại
phiên tòa khi có đủ căn cứ do pháp luật tố tụng quy định. Mục đích của xét xử là xác định
rõ bản chất vụ án trên cơ sở các chứng cứ để từ đó ra bản án, quyết định đúng pháp luật
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
1.2.3.2. Đặc điểm của xét xử án hành chính
Xét xử vụ án hành chính mang những nét khác biệt so với xét xử các lĩnh vực khác
(hình sự, dân sự, kinh tế, lao động):
Thứ nhất, Đối tượng xét xử vụ án hành chính là các tranh chấp trong lĩnh vực hành
chính.
Tranh chấp trong lĩnh vực hành chính là tranh chấp giữa chủ thể quản lý nhà nước
và đối tượng quản lý nhà nước. Nhằm đảm bảo quyền công dân, pháp luật nước ta đã quy
định cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền được khởi kiện ra tòa
nếu nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm hại bởi hoạt động quản lý hành chính
nhà nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Nói cách khác, khi chủ thể quản
lý hành chính nhà nước ban hành quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành
chính mà gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 13
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
hành chính nhà nước thì hiển nhiên sẽ gây nên mâu thuẫn giữa hai đối tượng này. Những
tranh chấp này nảy sinh từ việc cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước ban hành những quyết định hành chính, thực hiện những hành vi hành chính
nhằm giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. Đó là những quyết định hành
chính hành vi hành chính được quy định tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006).
Tuy nhiên, hiện nay Luật tố tụng hành chính 2010 mở rộng phạm vi đối tượng xét
xử vụ án hành chính thông qua quy định về thẩm quyền sơ thẩm vụ án hành chính của tòa
án tại Điều 28. Điều này nhằm mở rộng thêm quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức
hơn nữa.
Theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án được mở rộng hơn theo phương pháp loại
trừ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc xác định quyền
khởi kiện vụ án hành chính, bảo đảm sự công bằng cho người dân và đáp ứng được yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Nhìn chung,
quy định về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế
thừa và phát triển quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính. Thẩm quyền này bao gồm việc xét xử các khiếu kiện sau: quyết định hành chính,
hành vi hành chính trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí
mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do
Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ
của cơ quan, tổ chức; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân; quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lí vụ việc cạnh tranh.
Mặc dù có sự thay đổi như thế, nhưng thẩm quyền xét xử vụ án hành chính vẫn là
xét xử các tranh chấp hành chính. Việc sửa đổi như trên, đã góp phần hạn chế được
những khó khăn khi áp dụng các quy định của Pháp lệnh trong xét xử vụ án hành chính.
Thế nhưng, sự thay đổi này vẫn còn một số tồn tại cần được bàn bạc lại. Việc Luật tố
tụng hành chính trao cho Chính phủ quyền quy định danh mục các quyết định hành
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 14
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao không thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành chính là không hợp lí. Vì
điều đó sẽ tạo khả năng cho Chính phủ - cơ quan thực thi quyền hành pháp hạn chế thẩm
quyền xét xử của Tòa án - cơ quan thực thi quyền tư pháp. Luật tố tụng hành chính nên
bổ sung thêm quy định về những quyết định hành chính, hành vi hành chính không thuộc
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Hơn nữa, việc liệt kê các loại đối tượng khiếu
kiện hành chính thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm như trên không những làm giảm tính
thống nhất giữa các loại đối tượng này mà còn làm phức tạp thêm một cách không cần
thiết các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Thứ hai, Hoạt động xét xử vụ án hành chính được tiến hành theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật tố tụng hành chính quy định.
Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước là hoạt động theo trật tự pháp lý,
nghĩa là pháp luật quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà
nước. Trình tự đó còn được gọi là thủ tục thực hiện thẩm quyền. “Thủ tục là toàn bộ quy
tắc và thể thức cần phải tuân theo để hành động về mặt pháp lý trước, trong khi tiến
hành một việc cần giải quyết và cho tới khi kết thúc, cũng như để hoàn thành những văn
bản thực hiện bắt buộc”6. Với cách hiểu như trên, bất kỳ hoạt động của cơ quan nhà nước
nào cũng diễn ra theo một trình tự nối tiếp nhau, trình tự đó được quy định trong hệ thống
quy phạm về thủ tục. Qua đó, có thể hiểu thủ tục tố tụng hành chính là một loại thủ tục
pháp lý được quy định trong luật tố tụng hành chính. Đó chính là tổng thể các quy phạm
pháp luật tố tụng hành chính được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy
định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của tòa hành chính nhằm giải quyết vụ án
hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Xuất phát từ đặc thù của xét xử hành chính - là xét xử các tranh chấp hành chính
giữa chủ thể quản lí hành chính nhà nước (cá nhân, tổ chức được sử dụng quyền hành
pháp) và đối tượng quản lí hành chính nhà nước (cá nhân, tổ chức phải phục tùng quyền
hành pháp) phát sinh do việc ban hành quyết định hành chính, hay thực hiện hành vi hành
chính nên việc giải quyết các tranh chấp này phải được thực hiện theo một trình tự đặc
6
TS. Nguyễn Thị Thuỷ: Mô hình cơ quan xét xử hành chính ở Việt Nam, tr.181
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 15
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
biệt. Đó là thủ tục tố tụng hành chính - trình tự xét xử các vụ án hành chính tại Toà án.
Xét về phương diện lí luận, thủ tục tố tụng hành chính là một dạng cụ thể của thủ tục tư
pháp, cho nên thủ tục tố tụng hành chính cũng được xác lập trên cơ sở những nguyên tắc
chung của thủ tục tư pháp như: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử; Nguyên tắc khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền
với thẩm phán; Nguyên tắc xét xử công khai; Các đương sự bình đẳng trong tố tụng hành
chính; Các đương sự được quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho mình…Tuy nhiên, bên cạnh đó xét xử vụ án hành chính phải được tiến hành
theo trình tự thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hành chính quy định, bao gồm các giai đoạn
sau :
- Giai đoạn thụ lí vụ án hành chính là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án hành chính tại Toà án.
- Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hành chính được tính từ khi thụ lí vụ án hành
chính cho đến khi Toà án ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án; hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Giai đoạn xét xử vụ án hành chính được tính từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho đến khi Toà án thực hiện xong các thủ tục sau phiên toà. Trong giai đoạn này,
Toà án phải tiến hành các công việc: Chuẩn bị mở phiên toà xét xử; Tiến hành phiên toà
xét xử; Thực hiện thủ tục sau phiên toà xét xử.
Thứ ba, Hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa hành chính được thể hiện thông
qua việc áp dụng pháp luật để xét xử các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Tòa án là cơ quan xét xử các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính. Thông qua việc
được trao thẩm quyền xét xử đó, Tòa án sử dụng quyền tư pháp của mình để xem xét tính
hợp pháp hay không hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu
kiện. Việc xem xét tính hợp pháp hay không hợp pháp nói trên không phải là việc xem xét
theo cảm tính hay không có cơ sở, mà phải tuân theo những nguyên tắc, quy định chặt chẽ
của pháp luật. Tòa án phải căn cứ vào các quy định liên quan trong văn bản pháp luật chính
điều chỉnh về vấn đề này như: Luật tố tụng hành chính 2010, luật khiếu nại, tố cáo 2005
(Luật khiếu nại 2011), Luật Đất đai 2003... Trên cơ sở đó, Tòa án lựa chọn áp dụng những
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 16
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
quy định pháp luật trực tiếp điều chỉnh đến việc xét xử các khiếu kiện đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Điều này nhằm
đảm bảo cho hoạt động xét xử vụ án hành chính có thể bảo đảm cao nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của người khởi kiện. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào
Nhà nước và pháp luật; nâng cao chất lượng hoạt động quản lý hành chính nhà nước của
chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Thứ tư, Kết quả xét xử vụ án hành chính là ra phán quyết về tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, được thể hiện trong bản án hành
chính.
Kết quả xét xử vụ án hành chính sẽ được ghi nhận trong bản án hành chính. Bản
án hành chính là kết quả của quá trình giải quyết vụ án hành chính tại phiên tòa ở các cấp
xét xử. Tòa hành chính ra bản án để xác định quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khởi kiện có trái pháp luật hay không. Có gây xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích
của cá nhân, tổ chức cụ thể nào không. Xác định thiệt hại do quyết định hành chính, hành
vi hành chính đó gây ra trong thực tế là bao nhiêu. Và xác định mức bồi thường thiệt hại
mà cơ quan công quyền phải gánh chịu trước cá nhân, tổ chức đó. Thông qua bản án hành
chính, Tòa án sẽ đưa ra những phán quyết cụ thể về những tranh chấp xảy ra giữa chủ thể
quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước xảy ra trong quá
trình quản lý hành chính nhà nước. Các đối tượng có liên quan có nghĩa vụ thi hành.
Bản án hành chính là một yếu tố quan trọng có ý nghĩa trong hoạt động xét xử vụ
án hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính
nhà nước. Phán quyết của tòa án trong bản án là trí tuệ, sức lực của cả một tập thể được
giao trọng trách thay mặt Nhà nước giải quyết vụ án. Phán quyết của tòa án là sự đánh
giá, phân tích một cách toàn diện tính đúng, sai của quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khởi kiện. Thông qua đó, người khởi kiện cũng như người bị kiện nắm bắt được
quyết định của tòa án về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình
Thứ năm, Xét xử vụ án hành chính là hoạt động đặc biệt do tòa án thực hiện
Khác với xét xử các vụ án hình sự, dân sự hay kinh tế…xét xử vụ án hành chính,
các đương sự bao gồm có một bên là chủ thể quản lý hành chính nhà nước và một bên là
đối tượng quản lý nhà nước. Nói xét xử vụ án hành chính là hoạt động nhà nước đặc biệt
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 17
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
bởi vì người bị kiện trong trường hợp này là một chủ thể rất đặc biệt. Đó là các tổ chức,
cá nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý của
mình. Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực
hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung bảo đảm sự
chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức
và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa - xã
hội và hành chính - chính trị. Đó là hoạt động chấp hành - điều hành của nhà nước. Hoạt
động chấp hành và điều hành là hoạt động chính, cơ bản của quản lý hành chính nhà
nước, được đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Trong đó, chủ thể quản
lý hành chính nhà nước trong hoạt động của mình có quyền nhân danh nhà nước ban
hành ra các văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm pháp luật hay mệnh lệnh cụ thể bắt
buộc các đối tượng quản lý có liên quan thực hiện. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý nhà
nước và đối tượng quản lý nhà nước là mối quan hệ “quyền lực - phục tùng”. Việc xét xử
vụ án hành chính là xét xử tranh chấp giữa hai đối tượng này, cụ thể là xét xử đối với
việc đối tượng quản lý hành chính nhà nước kiện chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Đối tượng bị đưa ra xét xử ở đây chính là những quyết định hành chính, hành vi hành
chính mà chủ thể đặc biệt này đã ban hành hay thực hiện trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước của mình. Nói cách khác, đây chính là một hoạt động nhà nước đặc biệt,
trong đó Tòa án là cơ quan đánh giá hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói trên.
Thứ sáu, Mục đích của hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa hành chính là
bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức khi có tranh chấp với cơ quan công quyền.
Chính vì mối quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và
đối tượng quản lý hành chính nhà nước nên khi tranh chấp xảy ra thì phần lớn đối tượng
quản lý hành chính nhà nước sẽ nắm thế yếu hơn. Khi Tòa án được giao thẩm quyền xét
xử những tranh chấp này thì các cá nhân, tổ chức này được Tòa án xem xét, xét xử một
cách công khai và minh bạch. Tòa án sẽ sử dụng quyền tư pháp của mình, trên cơ sở áp
dụng các quy định pháp luật để làm căn cứ giải quyết xem ai đúng ai sai. Các cá nhân, tổ
chức sẽ không phải chịu nhiều áp lực với việc chờ đợi các cơ quan công quyền xem xét
lại những quyết định hành chính đã ban hành hay những hành vi hành chính đã thực hiện
có đúng hay không? Bởi vì các cơ quan công quyền thường cho rằng họ đã ban hành
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 18
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
đúng, thực hiện đúng pháp luật. Nếu thừa nhận cái sai thì sẽ gây ảnh hưởng phần nào đến
uy tín cũng như chất lượng quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan công quyền. Do
đó, việc pháp luật quy định tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hành chính chính là nhằm
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong trường hợp
tranh chấp với chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 19
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
CHƢƠNG 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA
2.1. CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Để đảm bảo giải quyết các vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật nhằm bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, ngày 21/5/1996
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên điều chỉnh hoạt động tố tụng hành chính.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/1996, được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất vào ngày 25/12/1998 và sửa đổi, bổ sung
lần thứ hai vào ngày 05/4/2006.
Vào ngày 24/11/2010, tại kỳ họp lần thứ 8 Quốc hội khóa XII Luật tố tụng hành
chính được Quốc hội thông qua. Đây là một bước tiến lớn trong công tác lập pháp, thể
hiện sự nâng cao về mặt nhận thức của xã hội đối với tính chất và tầm quan trọng của
hoạt động tố tụng hành chính, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính Nhà nước và cải
cách tư pháp, góp phần xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở
rộng thực thi quyền dân chủ của nhân dân.
2.1.1. Giai đoạn trƣớc khi ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính năm 1996
Kể từ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước Việt Nam duy trì
cơ chế giải quyết khiếu nại của công dân bằng thủ tục hành chính và bởi chính các cơ
quan nhà nước thuộc Bộ máy hành chính. Sự phản kháng của người dân đối với các
Quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan công quyền là biểu hiện của
việc sử dụng quyền khiếu nại - một trong nhiều quyền cơ bản của công dân được ghi
nhận tại Hiến pháp năm 1992. Phương thức duy nhất mà người dân có thể sử dụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tránh khỏi sự xâm hại bởi các Quyết định hành
chính, hành vi hành chính là khiếu nại tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành quyết định hành chính hoặc đã thực hiện hành vi hành chính, rồi nếu không thỏa
mãn thì có thể tiếp tục khiếu nại đến cấp cao hơn. Mô hình cơ bản để giải quyết khiếu nại
lúc này là các cơ quan hành chính bên cạnh hoạt động chủ yếu là quản lý hành chính nhà
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 20
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
nước kiêm luôn cả hoạt động phán quyết tính đúng sai (hoạt động tài phán hành chính)
của các Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại. Tuy nhiên sự tồn tại lâu
dài của cơ chế giải quyết khiếu nại bằng con đường hành chính với mô hình thẩm quyền
giải quyết lại cũng thuộc về các cơ quan hành chính đã bộc lộ những khuyết điểm lớn
trước sự đổi thay của đất nước, trước chủ trương cải cách hành chính và cải cách tư pháp
mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra. Cụ thể như: việc giải quyết thiếu khách quan,
không công khai, chưa dân chủ, không đảm bảo sự công bằng, và đặc biệt là người dân
Việt Nam khó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ luôn ở thế
bị động và nhỏ bé trước quyền lực khổng lồ của hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy hành
chính Việt Nam. Cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ
quan công quyền là cơ chế Bộ trưởng - quan tòa đã khiến cho công dân Việt Nam e dè và
ngại ngùng mỗi khi muốn vùng lên phản kháng. Bởi vậy, việc đổi mới phương thức thực
hiện quyền khiếu nại của công dân, việc đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính
cũng như đổi mới mô hình giải quyết tranh chấp hành chính giữa Nhà nước và cá nhân tổ
chức đã trở thành một nhu cầu tất yếu ở Việt Nam vào những năm 1990 - 1995. Vì thế,
tài phán hành chính cần phải ra đời để thay thế cơ chế Bộ trưởng - quan tòa trước đây,
khắc phục lối giải quyết tranh chấp hành chính áp đặt đơn phương theo thể thức hành
chính. Nhưng tài phán hành chính sẽ tồn tại theo mô hình nào và trình tự thủ tục ra sao lại
là câu hỏi lớn mà Nhà nước Việt Nam cần giải quyết vào đầu những năm 90.
2.1.2. Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996 có hiệu lực đến khi Luật tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực
Theo qui định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân 2002: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, tòa án quân sự
và các tòa án khác là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, ở Việt Nam chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét xử và xét xử là chức năng
của Tòa án. Theo qui định tại Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2002, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính thì Tòa hành chính là một trong các tòa chuyên trách thuộc hệ
thống Tòa án nhân dân. Do đó, Tòa hành chính cũng có chức năng xét xử như các tòa
khác và hoạt động xét xử các khiếu kiện hành chính của Tòa hành chính có những nét đặc
trưng so với việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước như: hoạt
động xét xử hành chính phải tuân theo trình tự chặt chẽ; phán quyết có hiệu lực của Tòa
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 21
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
hành chính có tính bắt buộc phải chấp hành đối với cả chủ thể quản lý hành chính và đối
tượng quản lý hành chính nhà nước. Chỉ có Tòa án cấp trên mới có quyền xem xét lại bản
án, quyết định có hiệu lực của tòa án cấp dưới theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Nhìn từ góc độ pháp lý, xét xử hành chính là hoạt động phán quyết đối với các Quyết
định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan công quyền bị khiếu kiện theo thủ
tục tố tụng hành chính, được điều chỉnh bởi các qui phạm tố tụng hành chính. Vì thế, đối
tượng của xét xử hành chính là các Quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức có chức vụ từ vụ trưởng và tương
đương trở xuống. Nhiệm vụ của Tòa hành chính được quyết định bởi chức năng của Tòa
hành chính là xét xử vụ án hành chính, giải quyết tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức với cơ
quan công quyền phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước. Khi xét xử Tòa hành
chính có quyền phán quyết về tính hợp pháp của Quyết định hành chính, hành vi hành
chính. Sự ra đời của Tòa hành chính với hoạt động xét xử hành chính có ý nghĩa quan
trọng đối với nền hành chính điều hành, đó là: bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý
hành chính nhà nước, bảo đảm quyền công dân và cơ quan, tổ chức nói riêng. Thông qua
hoạt động xét xử của Tòa hành chính góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức, cũng như mọi công dân góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
2.1.3. Giai đoạn từ khi Luật tố tụng hành chính 2010 đƣợc áp dụng đến nay
Luật Tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực thi hành 01/7/2011, đã có những quy định
được sửa đổi tích cực và hợp lí mang lại nhiều đóng góp quan trọng cho quá trình hoàn
thiện pháp luật tố tụng hành chính. Trên cơ sở phát huy, kế thừa những ưu điểm và sửa
đổi, bổ sung những hạn chế của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; luật tố
tụng hành chính 2010 đã mở rộng thêm về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính cho tòa
án. Không chỉ hạn chế ở 22 loại khiếu kiện theo quy định cũ, thẩm quyền xét xử sơ vụ án
hành chính theo Luật tố tụng hành chính 2010 đã được mở rộng đáng kể. Theo quy định
mới này, các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hầu hết các lĩnh vực của
quản lí hành chính nhà nước đều là đối tượng của khiếu kiện hành chính. Điều này phù
hợp với quan điểm: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành
chính” trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị. Luật mới
cũng đã quy định rõ ràng hơn về xét xử vụ án hành chính như: thủ tục xét xử vụ án hành
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 22
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
chính, quyền hạn của hội đồng xét xử… Thông qua hoạt động xét xử của Tòa hành chính
góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như mọi công
dân góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước. Sự tồn tại của Tòa hành chính đã khẳng định chủ trương cải cách hành chính theo
hướng tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức theo xu hướng
xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền.
2.2. CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÀNH
CHÍNH7
* Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hành chính
Chủ thể của quan hệ pháp luật là những con người cụ thể, những tổ chức tham gia
vào quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, thực hiện các quyền chủ quan và nghĩa vụ
pháp lý nhất định.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hành chính bao gồm Tòa án nhân dân và
những người tham gia tố tụng có liên quan đến quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành
chính (Viện kiểm sát nhân dân, đương sự, người đại điện của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người giám
định, người phiên dịch), trong đó quyền và nghĩa vụ của Tòa án cũng như các chủ thể
khác được pháp luật xác định và bảo đảm thực hiện.
* Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hành chính
Trong quan hệ pháp luật nói chung, các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật bao
giờ cũng nhằm đạt được lợi ích nhất định, lợi ích mà chủ thể của quan hệ pháp luật nhằm
đạt được có thể là lợi ích vật chất, hoặc lợi ích phi vật chất.
Trong quá trình tố tụng, mọi hành vi tố tụng của các chủ thể quan hệ pháp luật tố
tụng đều nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Khách thể của quan hệ pháp
luật tố tụng là đối tượng xem xét của Tòa án do các đương sự đặt ra và mong muốn được
Tòa án giải quyết.
Ví dụ: Chi cục thú y thành phố X lập biên bản thu giữ mười (10) con lợn của ông A
(ông A là lái buôn lợn), và ra Quyết định số 100/QĐ-TY xử lý bằng hình thức luộc chín
10 con lợn này (toàn bộ phủ tạng, đầu, móng của chúng được thiêu hủy bằng xăng) vì cho
7
Ths. Diệp Thành Nguyên: Tài liệu hướng dẫn học tập môn Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Khoa Luật, Trường
Đại học Cần Thơ, năm 2012
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 23
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
rằng những con lợn này mang bệnh. Ông A khiếu nại Quyết định này. Không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại của Chi cục thú y, ông A khởi kiện vụ án hành chính tại
Tòa án nhân dân thành phố X. Ông cho rằng Quyết định 100/QĐ-TY trái pháp luật (vì
lợn ông không mắc bệnh), và yêu cầu Tòa án phán quyết buộc Chi cục thú y phải bồi
thường thiệt hại cho ông. Quyết định số 100/QĐ-TY là đối tượng xét xử của Tòa hành
chính, còn khách thể của tranh chấp này là tính hợp pháp hay không hợp pháp của Quyết
định 100/QĐ-TY.
Vậy, khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hành chính là các quan hệ pháp luật về
nội dung đang có tranh chấp, mà Tòa án cùng các chủ thể khác đều nhằm vào để giải
quyết.
2.3. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA HÀNH CHÍNH Ở NƢỚC TA
Tài phán hành chính Việt Nam là hoạt động xét xử các vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật tố tụng hành chính và chủ yếu do các Tòa hành chính, các Thẩm phán
hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Thiết kế mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính là vấn đề đã được thảo luận
ngay từ khi có ý tưởng thiết lập cơ quan này. Tuy nhiên, qua rất nhiều các cuộc hội thảo,
hội nghị trong và nước ngoài, các nhà khoa học pháp lý, khoa học quản lý và đại diện các
cơ quan có trách nhiệm thẩm định vấn đề này cũng có những quan điểm rất khác nhau.
Các quốc gia trên thế giới hiện nay cũng tồn tại nhiều mô hình tổ chức cơ quan tài phán
hành chính khác nhau. Khảo sát thực tế hoạt động cũng cho thấy ưu điểm và nhược điểm
của mỗi hinh thức tổ chức, điều quan trọng là đưa ra một phương án thích hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta, phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và tinh thần đổi mới.
2.3.1. Một số phƣơng án tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính ở nƣớc ta
2.3.1.1. Tổ chức toà án hành chính thành một hệ thống độc lập do quốc hội lập ra
không phụ thuộc vào cơ quan hành chính và song song với toà án nhân dân
Phương án này xuất phát từ quan điểm: ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước tập
trung vào Quốc hội. “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”8. Vì vậy, Toà án hành chính
8
Xem Điều 83 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 24
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang
Đề tài: Tìm hiểu hoạt động xét xử án hành chính ở nước ta
phải do Quốc hội lập ra (Chánh án Toà án hành chính Trung ương do Quốc hội bầu) mới
có đủ thẩm quyền để phán quyết các quyết định hành chính và hành vi hành chính của
các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước, kể cả xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của
văn bản pháp quy của cơ quan nhà nước. Mặt khác, xét xử hành chính có tính đặc thù,
khác với xét xử hình sự, dân sự, kinh tế… nên tổ chức và hoạt động của nó phải dựa trên
các nguyên tắc riêng không thể giống như các Toà án nhân dân hiện nay. Chỉ có như vậy,
việc giải quyết các khiếu kiện hành chính mới nhanh gọn, có hiệu quả mà không ảnh
hưởng đến quá trình điều hành, quản lý.
Phương án này căn cứ vào quy định của Hiến pháp năm 1992 “Toà án nhân dân
tối cao, các Toà nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật
định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…” 9 ;“Toà
án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các Toà án khác, trừ
trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó”.10 Theo phương án này Toà
án hành chính được tổ chức theo cấp xét xử bao gồm: Toà án hành chính Trung ương, các
Toà án hành chính khu vực, Chánh án Toà án hành chính Trung ương do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm; nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội và chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về công tác xét xử trong lĩnh vực hành chính.
Nhược điểm của phương án tổ chức này là sẽ phải thành lập một hệ thống Toà án
hành chính riêng biệt, vì thế cần một số lượng biên chế nhân sự (Thẩm phán hành chính
và nhân viên hành chính kỹ thuật) cũng như kinh phí xây dựng trụ sở khá lớn khó có thể
đáp ứng ngay. Trong khi đó, thiết lập cơ quan tài phán hành chính lại là vấn đề cấp bách
không thể chậm trễ. Mặt khác, một số ý kiến cho rằng nếu thành lập Toà án hành chính
theo mô hình này thì ở nước ta cùng lúc có hai Toà án tối cao: Toà án nhân dân tối cao
(Toà án tư pháp) và Toà án hành chính trung ương, như vậy không phù hợp với quy định
của Hiến pháp “Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.11
9
Xem Điều 127 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001
Xem Điều 134 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001
11
Xem Điều 134 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001
10
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên
Trang 25
SVTH: Huỳnh Ngọc Thảo Trang