Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Doanh nghiệp sẽ tốn kém hơn cho nhân viên ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.23 KB, 8 trang )

Doanh nghiệp sẽ tốn kém hơn cho nhân viên
ngoại
Với nhiều công ty, tổng chi phí nhân công cho nhân viên nước ngoài sẽ tăng lên do chính sách
thuế mới.
Thực tế này vừa được Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham) nêu ra trong những nội dung kiến
nghị về các chính sách thuế, nhằm đảm bảo một môi trường khuyến khích dòng vốn đầu tư vào Việt
Nam.
Giảm lợi thế so sánh
Hiện các thành viên của EuroCham đang chuẩn bị cho việc thực hiện các quy định về thuế thu nhập
cá nhân mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2009.
Tuy nhiên, với nhiều công ty, tổng chi phí nhân công cho nhân viên nước ngoài sẽ tăng lên, mặc dù
có sự thuận lợi do cắt giảm về mức thuế. Sở dĩ như vậy là do chính sách ưu đãi các quyền lợi bằng
hiện vật khác nhau dành cho chuyên gia nước ngoài sẽ được hủy bỏ.
EuroCham cho biết, giữa Thông tư 81/2004/TT-BTC hướng dẫn Pháp lệnh Thuế thu nhập cao với
Thông tư 84/2008/TT-BTC có hiệu lực từ 1/1/2009, có một số điểm khác biệt.
Theo quy định tại Thông tư 81, các khoản chi phí vé máy bay, học phí cho con của nhân viên nước
ngoài, chi phí chuyển nhà là không tính thuế và chi phí thuê nhà được giảm trừ thuế. Trong khi theo
Thông tư 84, cả 4 loại chi phí này đều thuộc đối tượng tính thuế.
Xét trường hợp một nhân viên nước ngoài có mức lương thực lĩnh là 8.000 USD/tháng, người sử
dụng lao động cung cấp nhà ở với chi phí là 3.000 USD/tháng và học phí 12.000 USD/năm cho một
trẻ nhỏ tại một trường quốc tế. Theo Thông tư 81, số thuế thu nhập cá nhân nhân viên này phải nộp là
4.442 USD, trong khi, theo Thông tư 84, số thuế thu nhập cá nhân nhân viên nước ngoài này phải
nộp là 5.846 USD.
Như vậy, trong ví dụ này, số thuế thu nhập cá nhân theo luật mới tăng 31,6% so với quy định cũ.
EuroCham cũng đã so sánh chính sách thuế của các nước trong khu vực. Nhiều nước có chính sách
ưu đãi giảm trừ đối với các lợi ích mà thông thường nhân viên nước ngoài được cung cấp. Thêm vào
đó, các nước này còn áp dụng thuế suất thuế thu nhập cá nhân thấp hơn nhiều, nhờ thế đã đảm bảo
chi phí nhân công nói chung có tính cạnh tranh trong khu vực.
Chi phí vé máy bay, chi phí chuyển nhà và chi phí bảo hiểm y tế là những chi phí không tính thuế
thuế thu nhập cá nhân tại các nước và vùng lãnh thổ như Singapore, Hồng Kông, Malaysia. Chi phí
thuê nhà được xét giảm trừ khi tính thuế tại ba nước và vùng lãnh thổ này. Ngoài ra, mức thuế định


biên cao nhất tại Singapore, Hồng Kông và Malaysia lần lượt là 20%, 17% và 27%.
Với một nhân viên nước ngoài có thu nhập 100.000 USD/năm, nếu làm việc tại Singapore, số thuế
thu nhập cá nhân nhân viên này phải nộp là 9.000 USD, nếu làm việc tại Hồng Kông, số thuế thu
nhập cá nhân nhân viên này phải nộp là 3.000 USD, nếu làm việc tại Thái Lan, số thuế thu nhập cá
nhân nhân viên này phải nộp là 24.000 USD.
Trong khi đó, nếu làm việc tại Việt Nam, theo quy định tại Thông tư 84 sắp được áp dụng, số thuế
thu nhập cá nhân nhân viên này phải nộp là 27.000 USD.
Cộng đồng doanh nghiệp châu Âu cho rằng các thành viên của họ mong muốn tuyển dụng người địa
phương vào các vị trí cao cấp. Tuy nhiên, thị trường lao động khan hiếm hiện nay vẫn thiếu các
chuyên gia cao cấp và việc đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm cho nhân viên người Việt Nam đòi
hỏi nhiều thời gian. Điều này cho thấy việc sử dụng nhân viên nước ngoài là một yêu cầu không thể
thiếu đối với hầu hết các công ty đa quốc gia trong ngắn hạn/trung hạn.
Tuy nhiên, xét về thuế thu nhập cá nhân của nhân viên nước ngoài, Việt Nam không cạnh tranh được
với các nước trong khu vực. Điều này sẽ ảnh hưởng tới các quyết định đầu tư, đặc biệt trong tình
hình kinh tế hiện nay khi các khoản chi phí đang được rà soát kỹ lưỡng.
EuroCham kiến nghị Việt Nam cần có sự cân nhắc đối với việc chuyển nhiều lợi ích bằng hiện vật
không bị tính thuế theo Thông tư 81 thành các khoản chi bị tính thuế theo Thông tư 84.
Ông Antonio Berenguer, Tham tán Thương mại của Phái đoàn Ủy ban Châu Âu cho rằng, những quy
định mới này tạo ra sự so sánh không thuận lợi đối với khu vực láng giềng và có nguy cơ gây nên
chảy máu chất xám ngoại, nếu các công ty lựa chọn bố trí các vị trí quản lý cao cấp tại các nước khác
trong khu vực để tránh thuế thu nhập cá nhân tăng thêm tại Việt Nam.
Kiến nghị về trần thuế cho chi phí quảng cáo và thúc đẩy phát triển
Quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại về giới hạn trần 10% (và nâng lên 15% theo
luật mới được áp dụng từ 1/1/2009) cho chi phí quảng cáo và thúc đẩy phát triển của doanh nghiệp
cũng được EuroCham đánh giá là chưa hợp lý.
Chi phí quảng cáo và thúc đẩy phát triển (A&P) là một phần quan trọng của hầu hết các hoạt động
kinh doanh của những công ty hàng tiêu dùng. Tại các nước ASEAN khác, chi phí này hoàn toàn
được miễn trừ thuế.
Tại Việt Nam, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại quy định rằng, ngoài một số ngoại lệ rất hạn
chế, chi phí cho quảng cáo và thúc đẩy phát triển là không được miễn thuế khi vượt quá 10% tổng chi

phí.
Theo EuroCham, hạn chế này là phân biệt đối xử đối với các công ty đã chọn chi cho A&P tương đối
cao hơn cho các sản phẩm của họ, đồng thời làm giảm tiềm năng của ngành dịch vụ A&P trong
nước.
Giới hạn trần miễn thuế đã được nâng từ 7% lên 10% vào năm 2004 và Nghị định 24 đã xác định
một phạm vi rộng hơn các hạng mục được miễn thuế. Tuy nhiên, việc ban hành Thông tư
134/2007/TT-BTC lại hạn chế các hạng mục có thể được miễn thuế.
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2009 sẽ nâng trần này từ 10% lên 15%, tuy
nhiên chỉ dành cho các công ty đang trong 3 năm đầu tiên hoạt động. "Điều này vẫn chưa đáp ứng
được kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp", ông Alain Cany, Chủ tịch EuroCham tại Việt Nam nói.
Do đó, EuroCham kiến nghị: thứ nhất, các hướng dẫn về quy định này cần được triển khai mở rộng
hơn nữa phạm vi các hạng mục được miễn giảm thuế nhờ đó giảm ảnh hưởng xấu của thuế theo luật
thuế thu nhập doanh nghiệp mới; thứ hai, cần thành lập một khung thời gian rõ ràng, trong đó chỉ ra
các bước để công nhận đầy đủ chi phí A&P là chi phí kinh doanh hợp lệ và truyền đạt cho cộng đồng
doanh nghiệp.
Lê Hường - VnEconomy
• Lưu ý gì khi thương thảo với doanh nhân
Mỹ?
Với chủ đề “Những lỗi nghiêm trọng người Việt Nam thường gặp khi tiếp
đãi người Mỹ”, cuộc hội thảo diễn ra vào ngày 7/11 tại Trung tâm Giáo dục -
Đào tạo và Hội thảo quốc tế FideS, có rất nhiều vấn đề về cung cách giao tiếp
với doanh nhân Mỹ đã được đặt ra.
Theo đó, đôi lúc những sai lầm nhỏ vẫn có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm
trọng mà ít người nghĩ đến.
Người chủ trì hội thảo lần này là GS. David F. Day - một luật sư, giảng viên quốc
tế giàu kinh nghiệm thực tiễn, đặc biệt trong việc đào tạo những nhà lãnh đạo,
quản lý của Việt Nam hơn một thập niên qua, từ các chương trình MBA tại Hà
Nội và Tp.HCM đến các buổi đào tạo chuyên sâu do Phòng Thương mại Hoa Kỳ
và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam tài trợ.
Theo ông, hầu hết những sai lầm của người Việt trong giao tiếp kinh doanh với

người Mỹ đều xuất phát từ các thói quen rất đỗi bình thường, thậm chí còn được
xem là những nét văn hóa đẹp. Vì vậy, cần có sự nhìn nhận rõ ràng giữa điều
thích làm và điều nên làm để tránh gặp rắc rối với các doanh nhân Mỹ, những
người được đánh giá là rất thực tế và mau lẹ trong chuyện làm ăn.
Bản ghi nhớ, cần hay không?
Không khí chia sẻ kinh nghiệm cởi mở giữa GS. David Day và các doanh nhân tại
buổi hội thảo
Với người Việt, các thương lượng đôi khi không dựa trên hợp đồng mà bằng cách
tạo dựng các mối quan hệ, từ đó phát triển sự tin tưởng để làm ăn. Đa phần doanh
nhân Việt chọn cách ký một bản ghi nhớ trước khi có được hợp đồng, bởi họ cần
nhiều thời gian để xây dựng mối quan hệ. Riêng với người Mỹ, cái gọi là “bản
ghi nhớ” không mấy có giá trị, bởi theo quan điểm của họ, tất cả các cuộc thương
lượng phải được thể hiện bằng hợp đồng.
Theo GS. David F. Day, nước Mỹ luôn xem trọng văn bản và từ ngữ. Ở một đất
nước mà bản Tuyên ngôn độc lập (năm 1774) được để trang trọng và bảo vệ cẩn
mật trong khung kính chống đạn, mỗi văn bản khi ra đời được truyền hình quay
cận cảnh để đảm bảo tính xác thực thì trong đời thường, việc giao tiếp cũng dễ bị
bắt bẻ từng từ. Trên thực tế, các luật sư Mỹ rất thích thú khi làm việc với từ ngữ,
càng nhiều từ càng tốt, nên hợp đồng luôn thể hiện tính chi tiết rất cao.
Doanh nhân Mỹ sử dụng hợp đồng và hợp đồng mẫu như một cách tự bảo vệ
bằng pháp lý. Luật pháp Mỹ cũng đủ mạnh để bảo vệ tính hợp pháp của các hợp
đồng nên có thể nói hợp đồng là thứ văn bản có hiệu lực pháp lý rất cao. Việc tạo
dựng quan hệ thân thiết hay các thủ pháp xoa dịu tinh thần với họ hầu như không
cần thiết vì đã ký thì cứ y theo hợp đồng mà làm.
Thỏa thuận lòng vòng
Trong giao tiếp, người Mỹ có xu hướng nói to, thích nhìn thẳng vào người đối
diện và hay đòi hỏi quyền lợi một cách công khai. Sự thẳng thắn này đôi lúc bị
nhiều đối tác châu Á, thậm chí cả người châu Âu cho là thiếu tế nhị.
Nhưng đó thật sự là phong cách Mỹ. Họ luôn thúc đẩy cuộc thương lượng đến
chỗ kết thúc một cách mau chóng nhất, vì vậy cách làm việc tốt nhất là nên đi

thẳng vào vấn đề cũng như đừng mất nhiều thời gian cho các thủ tục giấy tờ.
“Make it snappy!” (Nhanh lên!), “What are we waiting for” (Còn chờ gì nữa?),
“Jump to it” (Nhào vô!) là những câu cửa miệng của người Mỹ vì bỏ phí thời giờ
tức là phí cuộc sống.
Trong các buổi đàm phán thương mại, cách đặt vấn đề của người Việt rất dễ tiệm
cận với phong cách của người Mỹ (dù đi lòng vòng nhưng người Việt có thể nhìn
thẳng vào vấn đề bất cứ khi nào). Vì vậy, nếu tránh được việc quanh đi quẩn lại
với những vấn đề râu ria (được xem là cách thăm dò ý tứ hoặc gợi ý tế nhị của
nhiều quốc gia châu Á) thì những thỏa thuận rất dễ đạt được.
Hãy nói chuyện với người Mỹ càng đơn giản càng tốt, nhưng phải thật logic.
Không đưa ra quyết định cuối cùng
Một thói quen của người Việt trên bàn đàm phán là chốt lại vấn đề bằng câu đại
ý: “Chúng tôi sẽ có quyết định ngay sau khi xin ý kiến cấp trên”. Đôi khi, đối tác
chỉ là những người cấp dưới hoặc thừa hành nên cách này được áp dụng để né
việc phải quyết định tức thì.
Các nhà đàm phán Mỹ rất khó chịu với điều này, bởi nó đồng nghĩa với việc họ
đang tiếp xúc với một người không có quyền quyết định vấn đề.
Tương tự, nếu muốn đưa các thương gia Mỹ ra khỏi thành phố thăm thú vài nơi,
hãy để những người chịu trách nhiệm đi cùng họ, không nên gửi họ cho các công
ty du lịch hoặc giao cho cấp dưới.
Thiếu tính minh bạch
Người Mỹ mong đợi thông tin trung thực ở bàn đàm phán, thích sự chính xác, cụ
thể. Một điều đáng lưu ý là họ rất quan tâm nếu đối tác đã từng đến Mỹ, bởi khi
đó cuộc trò chuyện sẽ cởi mở hơn. Họ chia sẻ về nước Mỹ và cũng cần được nghe
phản hồi của đối tác về nước Mỹ. Điều này, tuy có vẻ ngoài lề, nhưng lại liên
quan đến một khái niệm rất quan trọng là tính minh bạch trong kinh doanh - chia
sẻ và nhận phản hồi ngược lại.
Nếu các thống kê tài chính của công ty mình có vấn đề, doanh nhân Việt nên nhìn
nhận và giải thích rõ ràng thay vì chối quanh, lờ đi hay “tiền hậu bất nhất” vì dễ
bị đối phương xem như thiếu trung thực.

Tạo dựng quan hệ bằng giải trí
Người Việt thường bắt đầu hoặc kết thúc các cuộc đàm phán bằng những hoạt
động giải trí như ăn uống, ca hát hoặc thậm chí là massage, quà cáp… để tạo sự
thân thiện. Đối với người Mỹ, những hoạt động này không cần thiết, có khi còn
gây phản ứng ngược. Người Mỹ ít khi thỏa thuận kinh doanh bên ngoài phòng
họp, càng không có thói quen ký hợp đồng trên… bàn nhậu như dân ta.
Thường thì các hoạt động chiêu đãi không nằm trong “ngân sách” giao dịch của
doanh nhân Mỹ. Làm ăn với người Mỹ cũng đừng chờ đợi sẽ nhận được những
món quà “trên mức tình cảm”. Nếu có thể tổ chức các buổi tiệc tiếp đãi doanh
nhân Mỹ, cần lưu ý một số điều tối kỵ sau:
- Không nên lạm dụng việc giới thiệu văn hóa Việt, đặc biệt là ẩm thực. Người
Việt rất tự hào về nền ẩm thực đặc sắc và phong phú của mình nên thường chọn
các nhà hàng đặc sản địa phương để đãi khách. Tuy nhiên, không phải người Mỹ
nào cũng từng thử qua món Việt. Khi đến một vùng đất lạ, nỗi sợ lớn nhất là mắc
bệnh nơi xứ người. Thậm chí nhiều người Mỹ cẩn thận còn không quen với
những nhà hàng mini, bàn ghế thấp ở Việt Nam. Vì vậy, khi tổ chức tiếp đãi, hãy
chọn những nhà hàng cỡ 4 sao hoặc tương đương với đẳng cấp khách sạn họ đang
lưu trú và không nên đãi đặc sản địa phương quá một lần.
- Đừng để quên các phu nhân ở lại khách sạn khi mời các ông chồng doanh nhân
đi đâu đó. Các vị phu nhân Mỹ luôn hào hứng được dự tiệc cùng chồng và họ
đánh giá rất cao sự lịch thiệp của đối tác qua vấn đề này. Đa số người Mỹ thích
nghe nhạc nhưng không thể hát. Vì vậy, nếu họ được mời tham gia hát karaoke
thì đó là... cực hình.
“Từ phía người Mỹ, tôi nhận thấy người Việt có những nét văn hóa giải trí rất

×