GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA - KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TỈNH HẬU GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
(2010 – 2015)
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
Nguyễn Thanh Tú
MSSV: 6075736
Lớp: SP. GDCD 02-33
1
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................3
5. Kết cấu luận văn ......................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người ..............................................5
1.1.1. Quan điểm của triết học trước Mác về con người...........................................5
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người ..................................... 10
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
và phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ CNH - HĐH ................................... 13
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nguồn lực con
người ......................................................................................................................... 13
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực con người ............................................ 16
1.3. Một số khái niệm cơ bản ..................................................................................... 18
1.3.1. Khái niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ......................... 18
1.3.2. Công nghiệp hoá – hiện đại hóa ................................................................... 20
1.3.3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với CNH – HĐH......................................... 20
CHƯƠNG 2. TỈNH HẬU GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC (2005 – 2010)
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang
(2005 - 2010) ............................................................................................................. 21
2
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
2.1.1. Điều kiện tự nhiên........................................................................................ 21
2.1.2. Kinh tế......................................................................................................... 24
2.1.3. Văn hóa – xã hội.......................................................................................... 26
2.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hậu Giang (2005 - 2010) .............. 31
2.2.1. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực.............................................................. 32
2.2.2. Chính sách thu hút nguồn nhân lực .............................................................. 37
2.3. Đánh giá và kết quả đạt được của chính sách phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu
Giang (2005 - 2010)................................................................................................... 40
2.3.1. Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực (2005 - 2010) .................... 40
2.3.2. Kết quả phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang (2005 - 2010)................. 48
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TỈNH HẬU GIANG (2010 - 2015)
3.1. Cơ sở hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang (20102015) ......................................................................................................................... 62
3.2. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang (2010 - 2015)............. 63
3.3. Những giải pháp về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang (2010 - 2015) ... 65
3.4. Một số nhận định và kiến nghị góp phần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
tỉnh Hậu Giang (2010 - 2015)........................................................................................77
KẾT LUẬN.............................................................................................................. 79
Phụ lục....................................................................................................................... 81
Tài liệu tham khảo ..................................................................................................... 84
3
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nguồn nhân lực có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của các quốc gia. Nguồn nhân lực tốt, có chất lượng cao được xem là tiền đề cho
sự phát triển bền vững, là nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển kinh tế – xã hội nói
chung, tăng năng suất lao động nói riêng. Đồng thời, nguồn nhân lực có chất lượng
cao là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc thực hiện thành công quá trình hội nhập
kinh tế và hợp tác quốc tế, là cơ sở quan trọng để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh
trật tự, củng cố sức mạnh quốc phòng và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Nếu như trước đây, người ta nhìn nhận nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương
tiện, là một nguồn lực cho sự phát triển giống như các nguồn lực vật chất khác, thì
ngày nay sự nhận thức về nguồn nhân lực đã có sự bổ sung và phát triển hơn nhiều. Có
thể nói, một nước dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, trang thiết bị, khoa học - kỹ
thuật hiện đại đến đâu nhưng nếu không có những con người có trình độ, trí tuệ và khả
năng khai thác thì các nguồn lực đó cũng chỉ ở dạng tiềm năng mà thôi. Do đó, nguồn
nhân lực đã thực sự trở thành mục tiêu, yếu tố cơ bản quyết định cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của các quốc gia.
Ở nước ta, việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một nhiệm vụ trọng đại và có ý nghĩa to lớn
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình CNH – HĐH đất nước, công tác thu hút
và phát triển nguồn nhân lực là một điểm nhấn quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm và chỉ đạo thường xuyên. Trong báo cáo Chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X nêu rõ:
“Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước
ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa…. Phát triển nhanh nguồn
nhân lực chất lượng cao, nhất là các chuyên gia đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi
dưỡng, trọng dụng nhân tài; khẩn trương xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về
ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền”. [14, tr.713]
4
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
Với nhận thức trên, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung thực
hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực và đạt được những thành tựu đáng kể, góp
phần to lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, từng
bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Hòa mình vào nhiệm vụ chung của đất nước là thu hút và phát triển nguồn nhân
lực nhằm thực hiện thành công quá trình đổi mới, CNH – HĐH đất nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Mặc dù, Hậu Giang là một tỉnh mới chia tách với nhiều khó khăn và thử
thách như: thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đội ngũ
cán bộ chuyên môn,… Nhưng công tác xây dựng và phát triển nguồn nhân lực luôn
được Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hậu Giang đặc biệt quan tâm, chú trọng.
Đây được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ và toàn
thể nhân dân trong tỉnh. Điều này được thể hiện trong các Nghị quyết, chủ trương,
chính sách, đề án phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh ủy, UBND, các sở, ban, ngành từ
khi thành lập tỉnh đến nay. Qua hơn 06 năm thành lập, với sự nỗ lực của các cấp lãnh
đạo và nhân dân trong tỉnh, Hậu Giang đã đạt được những thành tựu quan trọng trên
các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội,... Trong đó, riêng về công tác
đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đạt những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn chế đòi hỏi
cần được kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, CNH – HĐH tỉnh nhà. Đồng thời, thực hiện thành công Nghị quyết
của Đảng bộ tỉnh Hậu Giang về việc quy hoạch tổng thể và phát triển nguồn nhân lực
của tỉnh đến năm 2020, tạo động lực và tiền đề mạnh mẽ giúp cho Hậu Giang phát
triển nhanh, bền vững hơn.
Là một người con của quê hương Hậu Giang tác giả luôn ý thức được tầm quan
trọng của vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển của tỉnh
nhà và mong muốn góp một phần sức lực của mình giới thiệu với bạn bè gần xa về
công tác thu hút phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Hậu Giang. Vì vậy, tác giả chọn
vấn đề “Tỉnh Hậu Giang lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa 2010 – 2015” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
5
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu quá trình lãnh đạo xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hậu Giang (2005 – 2010), phương hướng
phát triển (2010 – 2015). Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị cho công tác này.
- Nhiệm vụ: để đạt được những mục đích trên đề tài cần phải thực hiện các
nhiệm vụ:
Tìm hiểu quan điểm của Triết học Mác-Lênin về con người, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước.
Tìm hiểu những chủ trương, chính sách của tỉnh Hậu Giang phát triển nguồn
nhân lực (2005 – 2010). Những thành tựu và hạn chế về việc phát triển nguồn nhân lực
ở Hậu Giang (2005 – 2010), phương hướng phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hậu Giang
(2010 – 2015).
Đề xuất một số kiến nghị đối với công tác phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hậu
Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng của luận văn: Vấn đề lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hậu
Giang.
- Phạm vi của luận văn:
Về không gian: Tìm hiểu việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực một ở địa
phương cụ thể là tỉnh Hậu Giang.
Về thời gian: Nguồn nhân lực ở Hậu Giang (2005 – 2010) và phương hướng phát
triển (2010 - 2015).
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ:
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng
phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đặc biệt là sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
6
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
Phương pháp lịch sử và logic
Phương pháp thống kê – phân tích, tổng hợp
Phương pháp đối chiếu, so sánh
Lý luận gắn với thực tiễn
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, phục lục, nội dung
chính của luận văn gồm có 03 chương, 10 tiết.
7
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA
– HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1.1.1. Quan điểm của triết học trước Mác về con người
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ cổ chí kim có rất nhiều các
quan niệm khác nhau về con người, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới.
Lịch sử triết học trước Mác cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong lịch sử triết học
trước Mác, vấn đề con người vẫn chưa được giải quyết một cách khoa học và triệt để,
quan điểm về con người không những đan xen giữa yếu tố duy tâm và duy vật chất
phát mà còn chịu sự chi phối của cả yếu tố siêu hình. Tuy nhiên, những quan điểm
khác nhau về con người trong triết học trước Mác còn chứa đựng những hạt nhân tích
cực, những yếu tố hợp lí làm cơ sở, nền tảng,… cho sự ra đời quan điểm mới về con
người mang tính chất cách mạng, khoa học của triết học Mác về sau. Quan điểm về
con người của triết học trước Mác được thể hiện qua các trào lưu triết học.
Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
* Triết học Ấn Độ cổ đại: Triết học Ấn Độ cổ đại đặc biệt chú ý đến vấn đề con
người, hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và
tìm con đường “giải thoát” con người khỏi nổi đau khổ trầm luân trong đời sống trần
tục. Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của quan điểm giai cấp, của
những tư tưởng tôn giáo,... nên hầu hết các trường phái triết học Ấn độ cổ Đại đi tìm
nguyên nhân sự khổ đau của con người không phải trong đời sống kinh tế, xã hội mà ở
trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự “ham muốn” của con người. Vì vậy, con đường
giải thoát con người đều mang sắc thái duy tâm và yếm thế. Con người trở nên yếu ớt
và bất lực trước thời cuộc, không thể hiện được vai trò chủ đạo của mình đối với sự
phát triển.
8
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
* Triết học Trung hoa Cổ Đại: Bên cạnh triết học Ấn Độ cổ đại, thì triết học
Trung hoa cổ đại cũng tập trung vào vấn đề con người và xã hội, con người được xem
là một “tiểu vũ trụ”, thể hiện một màu sắc nhân văn cao cả, nên các học thuyết triết
học thường tập trung vào việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức cho cá nhân, coi trọng hành
vi nhân nghĩa, đào tạo những con người quân tử, hướng đến sự thống nhất hài hòa giữa
vũ trụ và xã hội. Có thể nói, con người là đối tượng nhận thức cơ bản và chủ yếu của
triết học Trung Hoa cổ đại. Từ vấn đề con người mà đi đến xem xét thế giới bên ngoài
(vũ trụ) – từ việc giải quyết “số phận con người”, “vận mệnh con người”, triết học mới
có thế đi tới mục tiêu nhận thức của mình và giải quyết vấn đề “tồn tại của con người”
là mục tiêu hiện thực của triết học.
Tiêu biểu cho những quan điểm về con người và việc giáo dục con người trong
triết học Trung Hoa cổ đại là học thuyết Nho giáo, mà trong đó đại biểu xuất sắc nhất
là nhà triết học, đồng thời là nhà chính trị, nhà giáo dục Khổng Tử (551 - 479 TCN).
Có thể nói rằng học thuyết của Khổng Tử về con người là một trong những học thuyết
xuất sắc có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội trước đây và còn giá trị cho đến ngày
nay.
Khổng Tử phân chia con người trong xã hội thành hai loại: “Quân tử” và “ Tiểu
nhân”. “Quân tử” là khái niệm chỉ những người xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội,
được học hành và đạt được chín tiêu chuẩn: "Nhìn cho minh bạch, nghe rõ ràng, sắc
mặt ôn hòa, tướng mạo nghiêm trang, nói năng trung thực, làm việc trọng kính nể,
điều gì còn nghi phải hỏi, tức giận phải nghĩ đến hậu quả, thấy lợi phải nhớ đến điều
nghĩa " [3, tr.296]. Chính vì vậy, quân tử là những người có thể và cần phải “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Còn “tiểu nhân” là khái niệm người xuất thân từ tầng lớp dưới
của xã hội, ít học hoặc không được học. Vì vậy, học chỉ có thể và phải “phục dịch”
người quân tử.
Để có thể trở thành người quân tử, theo Khổng Tử con người không chỉ học tập
và rèn luyện; mà còn phải biết sống theo đạo “Trung dung”. Rõ ràng là, “Bậc quân tử,
tức hạng người có đạo đức, thì giữ được đức Trung dung. Còn kẻ tiểu nhân tức là kẻ
kém đạo đức, thì trái với đức Trung dung” [3, tr.296]. Như vậy, đối với Khổng Tử, nói
đến con người, là con người có đạo đức, còn nói đến đạo đức, là đạo đức của con
người. Ở đây, đạo đức là nền tảng của con người, là thuộc tính bản chất để phân biệt
con người với con vật. Quan niệm đạo đức của Khổng Tử bao gồm ba yếu tố cơ bản:
9
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
“Nhân”, “Trí”, “Dũng”, “Nhân” chính là đạo làm người; đạo làm người có thể có
nhiều điều, song trước hết thể hiện ở lối sống, trong hành vi ứng xử với mình, với
người sao cho có “đức nhân”. Người nhân “khi ở nhà, mình giữ gìn dung mạo cho
nghiêm cung; khi làm việc mình thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người,
mình giữ dạ trung thành” [3, tr.297]. Ngoài ra, “Nhân” còn phải biết “thương người”,
tức “nhân ái”, “nhân” không chỉ biết “thương người” làm điều thiện mà còn phải biết
“ghét người” làm điều ác. Theo Khổng Tử thì, chỉ “Duy có bậc nhân từ mới biết
thương người và ghét người một cách chính đáng mà thôi”.
Để đạt được “nhân” theo Khổng Tử, trước hết con người phải có “Trí” và
“Dũng”. Đó là những “nấc thang” giúp con người học tập, rèn luyện để từng bước đạt
đến “Nhân”. Trong cuộc sống, có thể nói người “Trí” mà không có “Nhân”, chứ không
thể có người “Nhân” mà thiếu “Trí” và “Dũng”. Khổng Tử xem “Nhân” là phạm trù
cao nhất của luân lí đạo đức, là phạm trù trung tâm học thuyết chính trị của mình. Vì
vậy, theo ông để trở thành người nhân, người hoàn thiện thì từ Vua đến dân ai cũng
phải học, để trở thành người tốt, học để: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và
điều quan trọng là học để trở thành người quân tử.
Mạnh Tử (372 – 289 TCN) tự là Dư, người đất Châu nước Lỗ. Mạnh Tử là học
trò của Tử Tư (Khổng Cấp là cháu nội của Khổng Tử). Điều cốt lõi, được xem là quan
trọng trong quan niệm về chính trị của Mạnh Tử mà sau này được các nhà chính trị kế
thừa đó là tư tưởng "Dân quyền", Mạnh Tử cho rằng: "Dân vi quý, Quân vi khinh, Xã
tắc thứ chi" tức là, trong một quốc gia dân là quý nhất, sau đó đến vua và của cải xã
hội. Với tinh thần ấy, Mạnh tử đã chủ trương xây dựng một chế độ "bảo dân, dưỡng
dân", ông yêu cầu những người trị vị đất nước phải chăm lo đến dân, để cho dân có
của cải và tài sản. Ông rằng: "dân có hằng sản thì mới có hằng tâm", dân có tài sản
mới yên tâm chăm lo sản xuất, góp phần ổn định và xây dựng đất nước ngày càng giàu
mạnh. Từ đó, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là: “Dân duy bang bản,
bản cố, bang ninh” tức là: “Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên”. Điều đó được nói
trong sách Kinh Thi. Hoặc: "Đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc",
tức là: “được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước”. [28]
Tóm lại, bên cạnh những hạn chế thì quan niệm về con người trong triết học
phương Đông cổ đại có những sự tiến bộ như: đề cao vai trò của giáo dục đối với sự
phát triển và hoàn thiện nhân cách con người, có quan niệm đạo đức tiến bộ trong việc
10
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
giáo dục nhân cách cho con người (quân tử), chỉ ra được vai trò, vị trí quan trọng của
con người trong tự nhiên và xã hội với tư cách là “một tiểu vũ trụ”, đặc biệt là vai trò
quan trọng của quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng xã hội thái bình và thịnh trị.
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
* Triết học Hy Lạp cổ Đại: Triết học Hy Lạp cổ đại rất coi trọng vấn đề con
người, khẳng định con người là tinh hoa cao nhất của tạo hóa. Những vấn đề thiết thực
của cuộc sống con người trở thành một trong những đề tài chính của triết học. C.Mác
đã nhận xét rằng: “Người Hy Lạp mãi mãi để lại cho chúng ta những bậc thầy... có thể
nói rằng, cũng như tất cả những vấn đề khác, vấn đề con người đã được các nhà triết
học Hy Lạp cổ Đại “cày xới” một cách bài bản và “sau này triết học chỉ có thể tiếp
tục cái công việc mà Hêraclit và Arixtôt đã bắt đầu” [3, tr.193]. Con người được nhìn
nhận chủ yếu với tính chất cá thể, giá trị của con người chủ yếu được bàn đến ở khía
cạnh đạo đức, giáo tiếp, nhận thức luận.
Vấn đề con người trong triết học Hy Lạp cổ đại được xem xét, nhìn nhận và giải
quyết theo hai khuynh hướng khác nhau. Đó là, con người theo quan điểm duy tâm và
duy vật. Vấn đề con người trong triết học Hy lạp cổ đại tuy chưa hoàn chỉnh nhưng
đây có thể xem là sự khởi nguồn cho một tư duy mới về con người với tư cách là một
động lực cho sự phát triển xã hội, là một nhân tố cải biến tự nhiên và xã hội; mục tiêu
và phương hướng cho sự phát triển của khoa học.
* Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ: Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ mang
tính kinh viện, được xem là triết học chính thức của giai cấp thống trị phong kiến. Đó
là, triết học duy tâm và bị lệ thuộc vào tôn giáo, không chịu thừa nhận cái mới, kìm
hãm sự phát triển của khoa học và triết học duy vật. Triết học thời kỳ này bị thống trị
trong “Đêm trường trung cổ” của tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Vì vậy, con người trở
nên bất lực, yếu ớt trước cuộc sống và phải tự an ủi mình, bằng lòng với cuộc sống
tạm bợ nơi trần thế bằng con đường tu hành nhằm mong muốn tìm một cuộc sống
hạnh phúc ở thế giới bên kia. Chính vì nguyên nhân đó, đã dẫn đến hậu quả là thủ tiêu
ý chí đấu tranh của con người, làm cho con người lệ thuộc vào nhà thờ, tôn giáo.
* Triết học Tây Âu thời kỳ phục Hưng – Cận đại: là triết học ca ngợi con người,
giải phóng con người thoát khỏi “Đêm trường trung cổ”, đề cao tự do cá nhân, chủ
nghĩa nhân đạo với ước mơ giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bất công. Đồng
thời, đây cũng là thời kỳ mở đường cho khoa học phát triển. Đặc biệt, là khoa học tự
11
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
nhiên (thiên văn học, toán học,...). Các nhà triết học duy vật trong thời kỳ này đồng
thời cũng là các nhà khoa học đã có những bước tiến mới trong nghiên cứu về con
người. Họ cho rằng: con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội
hay nói cách khác con người là một sản phẩm của sự tiến hóa, chứ không phải do thần
linh hay thượng đế nào tạo ra.
* Triết học cổ điển Đức: Triết học cổ điển Đức bàn nhiều về vấn đề con người,
coi con người vừa là kết quả của quá trình hành động, vừa là chủ thể của quá trình ấy,
làm cho tư tưởng con người trong triết học phương Tây trở nên phong phú và có một
sự phát triển mới về chất với các tư tưởng của các nhà triết học như: Kant, Hêghen,
Phơbách...
Tiểu biểu cho quan điểm về con người của Triết học Cổ Điển đức là quan điểm
của nhà Triết học PhơBách. Ông cho rằng, con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan
hệ giữa tư duy – tồn tại. Ông phê phán quan niệm con người một cách trừu tượng và
thần bí của Hêghen. Ông khẳng định con người là sản phẩm của tự nhiên, là “cái
gương của vũ trụ”, thông qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức được bản thân
mình. Đó là những “con người bằng xương, bằng thịt đang sống và làm việc, là chính
bản thân chúng ta. Bản chất của con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu
cầu và cả khả năng tưởng tượng của anh ta”. Tuy nhiên, Phơbách không nhận thấy
được bản chất xã hội của con người, không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là
cá thể nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định. Vì vây, theo nhận xét
của Ăngghen, con người trong quan niệm của Phơbách là con người phi lịch sử, phi
giai cấp v.v.
Tóm lai, bên cạnh những hạn chế, thì quan điểm về con người trong triết học cổ
điển Đức có những bước tiến bộ hơn những thời kỳ trước, con người không phải do
thần linh hay thượng đế tạo ra mà con người là sản phẩm trong quá trình phát triển của
tự nhiên. Chính vì thể, con người có khả năng đấu tranh để cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và hoàn thiện bản thân.
Nhìn chung, quan niệm về con người trong triết học phương Tây có những yếu tố
mới và tích cực hơn; những quan niệm ấy đã nhìn nhận được khả năng sáng tạo của
con người, xem xét xã hội trong sự vận động và phát triển và con người là một nhân tố
tích cực cho sự phát triển đó.
12
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
Trước khi học thuyết Mác ra đời đã tồn tại rất nhiều các quan niệm khác nhau về
con người của các trường phái triết học. Tuy nhiên, những quan niệm này vẫn chưa
mang tính cách mạng và khoa học thật sự. Đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, đặc biệt là sự
phát triển của triết học Mác đã làm thay đổi căn bản quan điểm về con người của nhân
loại. Con người được xem xét trên lập trường duy vật biện chứng, là chủ thể của các
quá trình: nhận thức, sản xuất của cải vật chất, sáng tạo ra lịch sử loài người và là mục
tiêu, động lực cho sự phát triển của xã hội. Đây chính là lí do làm cho quan điểm về
con người trong triết học Mác–Lênin thể hiện tính nhân văn và cách mạng sâu sắc.
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng tiền đề đầu tiên cho sự tồn tại con người
là sự sống của thể xác, mà theo chủ nghĩa duy vật đó là vật chất, “Vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất quyết định ý thức”. Thể xác của con người trước hết là vật thể
của giới tự nhiên. Ăngghen nhận xét: “với cả xương, máu mủ và đầu óc của chúng ta
là thuộc về giới tự nhiên” [3, tr.315]. Chính vì vậy, trong thể xác khả tử của con người
luôn có những nhu cầu tự nhiên (ăn, uống, ngủ, nghỉ, duy trì nòi giống,...), mà thiếu
những nhu cầu này thì con người không thể tồn tại được. Bên cạnh những nhu cầu ấy
con người còn chịu là sự tác động của quy luật và điều kiện tự nhiên: quy luật tiến hóa,
quy luật sinh tồn,... vật lí, hóa học, sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường,
di truyền và biến dị,....) giống như các loài sinh vật khác.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy
định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là phương diện xã hội của nó. Với phương pháp duy vật biện chứng, triết học
Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính chất
lịch sử, xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể
phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung là bằng bất cứ
cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình – đó là bước tiến do tổ chức cơ
thể con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như vậy con
người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình” [6, tr.387]. Thông qua hoạt
13
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
động sản xuất của cải vật chất; con người đã làm thay đổi cải biến giới tự nhiên “Con
vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, con người thì tái sản xuất ra giới tự nhiên”.[6, tr.388]
Tính chất xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất của cải vật
chất; hoạt động sản xuất của cải vật chất biểu hiện căn bản tính chất xã hội. Thông qua
lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời
sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập mối quan hệ xã
hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con người, đồng thời
hình thành nên nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước
đó, vạch ra bản chất của con người từ các mối quan hệ xã hội nhưng không tuyệt đối
hóa mặt xã hội trong đời sống con người, mà cho rằng con người là một thực thể thống
nhất về mặt tự nhiên và xã hội. Như vậy, với sự ra đời của triết học Mác thì vấn đề con
người được phân tích một cách khoa học và thấu đáo hơn, con người được xem xét
trong sự thống nhất, liên hệ và tác động qua lại giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, đây
cũng là nền tảng, cơ sở cho các ngành khoa học khác khi nghiên cứu về vấn đề con
người và việc phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH – HĐH hiện nay.
Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là sản phẩm của lịch sử, sự tiến hóa lâu dài của tự nhiên. Không có
giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Song, điều quan
trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. C.Mác khẳng định:
“Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn
cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay
đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. [6, tr.391]
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động và phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con
người thì trái lại, thông qua hoạt động của mình để làm phong phú thêm giới tự nhiên,
cải tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện, vừa là tiền đề cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
14
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
Trên cơ sở nắm bắt quy luật của xã hội, con người thông qua hoạt động sản xuất vật
chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và
nhu cầu của con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn
tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
Khi đề cập đến con người trong lực lượng sản xuất người ta thường chú ý đến
các yếu tố như: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của người lao động. Nhận
thức như vậy không sai nhưng chưa đầy đủ. Vì theo C.Mác, “con người trong lực
lượng sản xuất, phải là con người được phát triển cao về trí tuệ, khỏe mạnh về thể
chất, giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng
xử”. [1, tr.103]
Trong đó, trí tuệ không chỉ là những tri thức trừu tượng nằm trong đầu mà trước
hết là những khả năng được thể hiện trong các hoạt động xã hội, trong quá trình sản
xuất. Khỏe mạnh về thể chất không đơn thuần là sự cường tráng về thể lực, mà còn
bao hàm trong đó sự phát triển tốt về trí lực, tư chất thông minh, tâm lý, thần kinh và
tư duy sáng tạo cao trong lao động. Đạo đức không chỉ là lương tâm, danh dự, trách
nhiệm nói chung, mà trước hết nó được gắn bó với nghề nghiệp của mỗi người. Linh
hoạt và văn minh trong ứng xử là thích ứng nhanh trong mọi hoàn cảnh, luôn giành thế
chủ động trong mọi tình huống, xử sự một cách thông minh và lịch sự, đầy lòng nhân
ái, vị tha đậm tính nhân văn. Đối với người lao động hiện nay cũng như trong tương
lai, không chỉ dựa vào kinh nghiệm sản xuất mà ngày càng dựa vào tri thức lao động
thì mới có thể tạo ra phương thức sản xuất mới kéo theo xã hội ngày càng phát triển.
Do đó, muốn con người có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo và cống hiến trong
quá trình sản xuất thì phải chăm lo đến nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của con người,
đặc biệt là phải chú trọng đến công tác giáo dục và đào tạo. Trong tương lai, khi con
người tham gia vào quá trình sản xuất với tri thức trở thành một lực lượng sản xuất
trực tiếp và trở thành một nhân tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Vì vậy, chỉ có con người có trí thức (nguồn nhân lực) mới thực
sự là mục tiêu và động lực cho sự phát triển.
15
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng và phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ CNH - HĐH
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nguồn
lực con người
Trong thực tế đấu tranh của cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi
thành lập dưới sự lãnh đạo, tổ chức, rèn luyện của chủ tịch Hồ Chí Minh, con người
Việt Nam đã thực sự được quan tâm được chọn làm mục tiêu của cuộc kháng chiến kiến quốc. Không chỉ với các nhà lãnh đạo, quản lí nhà nước, tư tưởng quan điểm của
Đảng ta, của chủ tịch Hồ Chí Minh về con người là: “Con người là trên hết”, “Con
người là quyết định”. [10, tr.145]
Khi bàn về giáo dục con người, tầm vóc quan trọng của con người, trong xây
dựng và phát triển đất nước, Hồ Chí Minh vẫn nhất quán với tư tưởng xuyên suốt của
mình:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Thấm nhuần lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, trung thành với sự nghiệp và tư
tưởng của Người, dù là đấu tranh giành độc lập dân tộc, hay xây dựng đất nước theo
định hướng XHCN, Đảng và nhân dân ta vẫn mãi làm theo tư tưởng và lời dạy của
Người. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng khẳng định: “Nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững,... Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định phát triển của đất nước
trong thời kỳ CNH – HĐH. Cũng trong kỳ Đại hội này, Đảng ta lấy việc phát triển
nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là một trong ba khâu đột phá
đưa đất nước vào thời kỳ CNH – HĐH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc”. [10,
tr.147]
Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học đó, Đại hội lần thứ X của
Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” [12, tr.187]. Qua các thời kỳ phát triển
16
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức được tầm quan trọng của công tác thu hút và phát
huy nguồn nhân lực trong và ngoài nước nhằm tạo tiền đề và nguồn nội lực mạnh mẽ
giúp đất nước thực hiện thành công quá trình CNH - HĐH, vững bước tiến lên và phát
triển bền vững. Sự nghiệp CNH - HĐH của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong những năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đời
sống nhân dân cũng từng bước được cải thiện, bộ mặt xã hội có những thay đổi đáng
kể. Một trong những tiền đề tạo ra sự thành công đó là Đảng đã đánh giá đúng vị trí,
vai trò của việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước, từng bước xây dựng và phát triển kinh tế tri thức đáp ứng nhu cầu hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
Trong hơn 20 năm đổi mới Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: “trí thức là
tài sản quý báo là động lực để phát triển đất nước” và có nhiều chủ trương, chính sách
về công tác cán bộ, phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo, trong đó có
những nội dung tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức phát huy năng lực, cống
hiến cho sự nghiệp đổi mới, CNH - HĐH đất nước. Từ quan điểm mang tính chiến
lược này, định hướng chính sách đối với trí thức nhằm thu hút nguồn nhân lực Đảng ta
nhấn mạnh: “Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát
huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát
minh, sáng tạo. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của
trí thức cho công cuộc phát triển đất nước”. [24, tr.454]
Về chính sách đào tạo và bồi dưỡng trí thức: Đảng và Nhà nước đã có chủ
trương, chính sách quan trọng, Nghi quyết Đại hội X nhấn mạnh nhiệm vụ “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao”, tạo đà phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo. Sự
phát triển rất nhanh về số lượng, quy mô, mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng; sự
chuyển biến bước đầu về phát triển nguồn nhân lực đã góp phần xây dựng đội ngũ trí
thức ở nước ta.
Thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách về đào tạo và bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ, chính sách đặc thù cho trí
thức. Mở rộng từng bước nâng cao hệ thống đào tạo, nhờ đó độ ngũ trí thức đã phát
triển nhanh về số lượng. Đầu tư ngân sách cho khoa học, công nghệ, văn học, nghệ
thuật và tạo điều kiện cho trí thức hoạt động; tổ chức xét tặng giải thưởng nhà nước
17
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
(giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng khoa học - công nghệ - VIFOTEC); phong các
chức danh khoa học (giáo sư, phó giáo sư) và các danh hiệu cao quý khác như Nhà
giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân,… Là những hoạt động trực tiếp cổ vũ, khích lệ,
tôn vinh đối với trí thức, tạo niềm tin và động lực cho trí thức”.
Chính sách đãi ngộ và tôn vinh trí thức trong nước: Nhà nước ta luôn chú trọng
việc khuyến khích các sáng kiến, sáng chế, động viên hơn nữa lao động, sáng tạo của
đội ngũ trí thức; trọng dụng, đãi ngộ người có cống hiến quan trọng; có chính sách
chăm lo điều kiện việc làm, lợi ích vật chất, tinh thần của người nghiên cứu, phát
minh. “Nhà nước trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho họ sáng tạo
và cống hiến; có chính sách và biện pháp để thu hút nhân tài vào việc thực hiện các
nhiệm vụ khoa học công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước;… có chế độ đãi ngộ
tương xứng với cống hiến và có chế độ ưu đãi đặt biệt đối với cá nhân có công trình
khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc, có cống hiến lớn đối với đất nước,… Nhà
nước có chính sách thỏa đáng về lương, điều kiện làm việc, chỗ ở đối với cá nhân hoạt
động khoa học và công nghệ”. [16]
Chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài: Nghị quyết 36NQ/TW ngày 23/6/2004 của Bộ chính trị đã khẳng định: “Hoàn chỉnh việc xây dựng
chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức, kiều bào
vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng, đối với những
chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả
năng tư vấn quản lí, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước góp
phần phát triển nền văn hóa - kỹ thuật của nước nhà” [25]. Nhà nước khuyến khích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và được hưởng các ưu đãi về thuế, sử dụng đất và
các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trí thức người Việt Nam ở
nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức cá nhân nước ngoài được hợp tác và phát triển tại
Việt Nam.
Như vậy, bước sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn lấy việc xây dựng và phát
triển nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển
nhanh, bền vững, chú trọng việc gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
18
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực con người
Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa rất độc đáo về con người: "Chữ Người
theo nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào các
nước. Rộng hơn nữa là cả loài người" [2, tr.262]. Với cách hiểu này con người có tính
cách xã hội, là con người xã hội, là thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định.
Cộng đồng đó như nhân dân ta thường quan niệm từ lâu, đó là cộng đồng ba cấp độ
nhà – làng – nước; còn Hồ Chí Minh lại chỉ ra một cách cụ thể hơn: đó là gia đình, họ
hàng, làng sớm, dân tộc, đất nước, cho đến cả nhân loại.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh con người không phải là một cá thể biệt lập. Chỉ có
trong quan hệ xã hội, thực tiễn xã hội, con người mới có lao động, ngôn ngữ và tư duy,
chế tạo công cụ lao động,… mới trở thành con người phân biệt với mọi loài động vật
khác. Đối với người Việt Nam những cộng đồng gia đình, họ tộc, làng xã dân tộc đã
tạo thành tính cộng đồng bền vững được bồi đắp qua trường kỳ lịch sử dựng nước và
giữ nước. Từ đó, hình thành nên chủ nghĩa yêu nước truyền thống, thành chủ nghĩa
dân tộc chân chính mà Hồ Chí đã coi là “động lực vĩ đại” thậm chí là “động lực duy
nhất” thúc đẩy sự phát triển của đất nước và là động lực của chủ nghĩa xã hội. Nói đến
vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong đấu tranh giành độc lập dân tộc,
cũng như trong xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nêu lên luận điểm: “Chèo thuyền
cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” hoặc “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh người cán bộ là “đầy tớ của nhân
dân” phải luôn gần dân, quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, đồng thời, phải biết
lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Để từ đó, kịp thời đưa
ra những chủ trương, đường lối phát triển đúng đắn, phù hợp với tâm tư và nguyện
vọng của toàn thể nhân dân.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong
phú. Xét đến cùng, các động lực muốn phát huy được tác dụng đều phải thông qua con
người, con người là động lực quan trong nhất của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
do đó bao trùm lên tất cả vấn đề là động lực con người. Theo Hồ Chí Minh động lực
con người được xét trên cả hai bình diện cộng đồng và cá nhân. Hồ Chí Minh đã đề
cập đến một hệ thống các nội dung, biện pháp vật chất và tinh thần, nhằm xây dựng và
phát triển động lực con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội:
19
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
Tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người
Là một nhà duy vật Mácxit, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn
gắn với nhu cầu vật chất và lợi ích của họ. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh huy động sức mạnh lý tưởng (lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa anh
hùng…) cũng như đem lại lợi ích vật chất (ruộng đất, cơm áo, nhu cầu vật chất hàng
ngày) cho cộng đồng và mỗi cá nhân. Đi vào chủ nghĩa xã hội là đi vào một trận tuyến
mới, do đó theo người cùng phải biết kích thích động lực mới đó là lợi ích cá nhân
chân chính của người lao động. Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân
nhưng hơn ai hết, Người rất quan tâm đến con người, khuyến khích lợi ích cá nhân
chính đáng, coi trọng động lực cá nhân, tìm tòi chính sách để kết hợp hài hòa giữa lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân.
Tác động vào các động lực, chính trị - tinh thần
Trong những hoàn cảnh khó khăn của cách mạng và kháng chiến, khi các điều
kiện vật chất còn thiếu, Hồ Chí Minh đề cập hàng đầu việc phát huy các động lực
chính trị, tinh thần của nhân dân ta. Đặc biệt là việc thực hiện dân chủ, bởi vì theo
Người dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, dân làm chủ. Người nhắc nhở: các hợp
tác xã phải làm cho người nông dân xã viên thấy “mình là người chủ tập thể của hợp
tác xã, có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của hợp tác xã. Có thế thì xã
viên mới đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất, hợp tác xã sẽ phát triển không ngừng”
[15, tr.110]. Muốn thế thì cán bộ không được chuyên quyền, độc đoán “cái gì cũng
dùng mệnh lệnh ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình
rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo…”. Nói cách khác là phải thực
hành dân chủ mà theo Hồ Chí Minh đó là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi
khó khăn. Người nói nếu dân chúng thật sự có quyền dân chủ, cán bộ, đảng viên xung
phong, gương mẫu thì mọi kế hoạch sản xuất sẽ thực hiện được thắng lợi.
Tóm lại, Hồ Chí Minh coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá
nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân
với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối
ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng
xã hội và giải phóng chính bản thân con người và xây dựng CNXH đó chính là những
luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
20
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
1.3. Một số khái niệm cơ bản
1.3.1 Khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công
hay thất bại trong việc phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, do vậy tất cả các
nước trên thế giới đều quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực. Thuật ngữ nguồn
nhân lực (hurman resourses) xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX khi có sự thay
đổi căn bản về phương thức quản lí, sử dụng con người trong kinh tế lao động. Có thể
nói sự xuất hiện của thuật ngữ “nguồn nhân lực” là một trong những biểu hiện cụ thể
cho phương thức quản lí mới so với phương thức quản lí cũ trong việc sử dụng nguồn
lực con người.
Đến nay có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực như:
Trong báo cáo của Liên Hợp quốc đánh giá về những tác động của toàn cầu hóa
đối với nguồn nhân lực đã đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực: “là trình độ lành
nghề, kiến thức và năng lực thực tế cùng với những năng lực tồn tại dưới dạng tiềm
năng của con người” [26]. Quan niệm theo hướng tiếp cận này có phần thiên về chất
lượng của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên
ngoài của mỗi cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành
công, đây được mục tiêu của tổ chức.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm
thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực
con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền
tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Tuy có những cách định
nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực, nhưng điểm chung mà ta có thể nhận thấy từ các
định nghĩa trên là khi nói tới nguồn nhân lực là muốn nói tới số lượng và chất lượng
của nó:
Số lượng nhân lực: là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao
động cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Nói đến nguồn nhân lực của bất kỳ một tổ
chức, một địa phương hay quốc gia nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người?
và sẽ thêm bao nhiêu người nữa trong tương lai? Đây là những câu hỏi cho việc xác
21
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
định số lượng nguồn nhân lực. Sự phát triển của số lượng nguồn nhân lực dựa trên hai
nhóm yếu tố bên trong (ví dụ: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao
động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia tăng dân số hay lực lượng lao
động do di dân.
Chất lượng nhân lực: là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như trí tuệ,
trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khỏe, thẩm mỹ,… của người lao động.
Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét
đánh giá nguồn nhân lực. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
Nhà tương lai học người Mỹ Alvintoffler cùng khẳng định: “Mọi nguồn nhân
lực tự nhiên điều có thể bị khai thác cạn kiệt chỉ riêng có trí tuệ là vô tận, bởi vì tri
thức có tính chất không bao giờ hết” [14, tr.151]. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố
quan trọng nhất của nguồn nhân lực vì đây là nhân tố then chốt quyết định chất lượng
và giá trị nguồn nhân lực.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều
cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên
hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng
con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
nguồn nhân lực. Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao
năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử
dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân
công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia:
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí
lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về
cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính
là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã
hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với
nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía
cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.
22
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
1.3.2. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN Đảng
ta xác định: "CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ quản lí kinh tế – xã hôi từ sử dụng sức lao động thủ công
là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học - công nghệ tạo ra
năng xuất lao động xã hội cao". Thực chất CNH – HĐH ở nước ta là quá trình tạo ra
những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương
pháp – những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nôi dung cốt lõi
của quá trình CNH – HĐH ở nước ta là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao
động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt đến năng suất lao động xã hội cao.
1.3.3. Vai trò của nguồn nhân lực đối với CNH – HĐH
Ở nước ta, CNH – HĐH chỉ có thể thành công một khi chúng ta biết phát huy
sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó “lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Cần nhận thức một
cách sâu sắc rằng, con người là giá trị tối cao, luôn ở vị trí trung tâm và giữ vai trò
quyết định cho sự thành bại của quá trình CNH – HĐH. Chính vì vậy, không phát huy
nguồn lực con người, không đảm bảo quá trình “tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
bảo vệ môi trường”; thì không thể thực hiện thành công quá trình CNH – HĐH.
Tóm lại, CNH – HĐH ở nước ta phải dựa trên một tổng thể các nguồn lực: vốn,
đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực,... Mỗi một nguồn lực có một vị trí và vai trò riêng
của mình; trong đó nguồn nhân lực luôn ở vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định
không chỉ đối với các nguồn lực khác, mà còn quyết định toàn bộ quá trình phát triển
của CNH – HĐH. Bời vì, các nguồn lực khác có giới hạn nhất định, khai thác chúng
đến một lúc nào đó cũng phải cạn kiệt; chỉ có nguồn nhân lực với trí tuệ và chất xám
có khả năng tái sinh đến vô tận. Đồng thời, các nguồn động lực khác không thể trở
thành động lực của sự phát triển; muốn trở thành động lực chúng phải thông qua sức
mạnh, trí tuệ của con người. Con người với tất cả những phẩm chất tích cực (kinh
nghiệm, trí tuệ, sáng tạo,...) của mình có thể trở thành động lực phát triển của quá trình
CNH – HĐH nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung.
23
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
CHƯƠNG 2
TỈNH HẬU GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC (2005 – 2010)
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh
Hậu Giang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Hậu Giang được thành lập theo nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI và Nghị
định số 05/2004/NĐ-CP ngày 02/01/2004 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở chia
tách từ tỉnh Cần Thơ. Là một trong 13 đơn vị hành chính cấp tỉnh thành của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, Hậu Giang nằm ở khu vực trung tâm của tiểu vùng Tây
sông Hậu, có vị trí trung gian giữa vùng thượng lưu châu thổ sông Hậu (An giang,
Thành phố Cần Thơ) với vùng ven biển Đông (Sóc Trăng, Bạc Liêu và cũng là vùng
trung gian của hệ thống sông Hậu (Chịu ảnh hưởng triều biển Đông) với hệ thống sông
cái lớn (chịu ảnh hưởng triều biển Tây). Tổng diện tích tự nhiên 1.607,73Km2. Theo
các tuyến đường bộ, cự li từ thị xã Vị Thanh trung tâm tỉnh đến các trung tâm lớn như
sau: Thành phố Hồ Chí Minh 240km, thành phố Cần Thơ 60km, thị xã Rạch Giá (Kiên
Giang) 60km, thị xã Sóc Trăng 90km, thị xã Bạc Liêu 75km.
* Ranh giới hành chính
- Phía Bắc giáp thành phố Cần Thơ
- Phía Nam giáp tỉnh Sóc Trăng
- Phía Đông giáp sông Hậu và tỉnh Vĩnh Long
- Phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang và tỉnh Bạc Liêu
* Tọa độ địa lí
Tỉnh Hậu Giang nằm trong giới hạn:
- 105019’39”
- 105053’49” kinh độ Đông
- 9034’59”
- 9059’39” vĩ độ Bắc
* Các trục giao thông quan trọng ở Hậu Giang
- Về đường bộ: Trục Quốc lộ 1A, Quốc lộ 61, Đường tỉnh 931.
24
GVHD: Th.s.GVC. Nguyễn Đại Thắng
SVTH: Nguyễn Thanh Tú
- Về đường thủy: Trục sông Hậu, kênh xáng Xà No, kênh Quản lộ Phụng Hiệp,
kênh Nàng Mau.
Bảng đồ địa giới hành chính tỉnh Hậu giang
* Tổ chức hành chính: Tỉnh Hậu Giang với tổng diện tích tự nhiên là:
1.607,73 km2 các đơn vị hành chính bao gồm 02 thị xã, 05 huyện, 73 đơn vị hành
chính cấp xã, phường, thị trấn.
- Thị xã Vị Thanh: 119 km2 với 05 phường và 03 xã.
25