BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHOUNTHONG SAYYASING
TUYỂN DỤNG, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
NGƯỜI THẨM PHÁN Ở CHDCND LÀO
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG QUỐC HỒNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Hoàng Quốc
Hồng, người đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt quá trình làm luận văn của
mình.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo đã trang bị cho tôi những
kiến thức thiết thực trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Và cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, những
người đã động viên tôi trong suốt quá trình học tập ở Việt Nam
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2014
Tác giả
Phounthong Sayyasing
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Các số liệu, trích dẫn tài liệu tham khảo trong luận văn đảm bảo trung thực.
Những kết luận khoa học trong luận văn là của tác giả và chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Phounthong Sayyasing
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYỂN
5
DỤNG, SỬ DỤNG, QUẢN LÝ THẨM PHÁN Ở CHDCND LÀO
1.1.
Tuyển dụng, sử dụng và quản lý Thẩm phán tại CHDCND Lào
5
1.1.1. Tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán tại CHDCND Lào
5
1.1.2. Quản lý Thẩm phán tại CHDCND Lào
11
1.2.
15
Vai trò của công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán của
CHDCND Lào
1.3.
Nguyên tắc tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán tại
17
CHDCND Lào
CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỂ TUYỂN
23
DỤNG, SỬ DỤNG, QUẢN LÝ THẨM PHÁN CỦA CHDCND LÀO
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán
23
tại nước CHDCND Lào
2.1.1. Các quy định pháp luật về tiêu chuẩn tuyển dụng thẩm phán
23
2.1.2. Hội đồng tuyển chọn thẩm phán
29
2.1.3. Các quy định pháp luật về quản lý thẩm phán
33
2.1.4. Các quy định pháp luật về sử dụng thẩm phán
38
2.2. Thực trạng hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán tại
40
nước CHDCND Lào
2.2.1. Thực trạng hoạt động tuyển dụng thẩm phán
40
2.2.2. Thực trạng sử dụng, quản lý thẩm phán
46
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
50
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG, QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG THẨM PHÁN TẠI CHDCND LÀO
3.1. Phương hướng chung hoàn thiện công tác tuyển dụng, sử dụng,
50
quản lý thẩm phán trong thời gian tới
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyển dụng, sử
52
dụng, quản lý thẩm phán
3.2.1. Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật về tuyển dụng, sử
52
dụng, quản lý, chế độ lương của thẩm phán
3.2.2. Giải pháp tổ chức thực hiện
54
KẾT LUẬN
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
61
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm
phán là nội dung quan trọng trong quá trình thực hiện cải cách các cơ quan
tư pháp nói riêng, bộ máy nhà nước nói chung. Nội dung tuyển dụng, sử
dụng, quản lý thẩm phán rất rộng, bao gồm nhiều khâu như tuyển chọn, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, thuyên chuyển, điều động, khen thưởng, kỉ luật… Vấn
đề đặt ra là làm thế nào cho công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm
phán vừa được bảo đảm được những nét chung như tuyển dụng, sử dụng,
quản lý cán bộ, công chức vừa bảo đảm được những nét đặc thù để thẩm
phán thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Nhà nước Lào đã
ban hành một loạt văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động tuyển dụng, sử
dụng, quản lý thẩm phán và đã thu được những thành quả nhất định.
Tuy vậy, các quy định pháp lý trong lĩnh vực tuyển chọn, quản lý, sử
dụng thẩm phán vẫn còn một số nhược điểm, hạn chế, bất cập nhất định.
Những điều đó đã gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến quá trình xét xử của
thẩm phán. Nhà nước và xã hội đòi hỏi cần phải có các trông trình khoa học
pháp lý xem xét và nghiên cứu hệ thống các quy định trong hoạt động tuyển
dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán để làm rõ các thành công và ưu điểm cũng
như chỉ rõ các nhược điểm và bất cập của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực
tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên, tác giả đã chọn vấn đề “Tuyển dụng,
quản lý, sử dụng người Thẩm phán ở CHDCND Lào” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học Luật của mình với mong muốn đóng góp một phần nhỏ
bé vào việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật trong hoạt động
tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán ở CHDCND Lào.
2
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Pháp luật về hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán của
CHDCND Lào là một vấn đề khá rộng và luôn có tính chất thời sự. Trong
những năm qua chỉ có một số công trình nghiên cứu pháp luật liên quan đến
lĩnh vực này như: giáo trình Luật học của Trường Đại học Quốc gia Lào, hội
thảo trong nước và hội thảo quốc tế… mà gần như chưa có một công trình
khoa học nào đề cập về vấn đề này. Các tài liệu này nhìn chung, chỉ nghiên
cứu bao quát tổng thể nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán mà chưa đi sâu
nghiên cứu vào hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu
sắc chế định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán, đồng thời
đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công tác tuyển
dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm
phán đáp ứng nhu cầu xét xử hiện nay là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết
đối với khoa học pháp lý ở nước CHDCND Lào.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến pháp luật của Lào về công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý
thẩm phán. Luận văn nghiên cứu nội dung pháp luật về công tác tuyển dụng,
sử dụng, quản lý thẩm phán qua các thời kì và thực trạng hoạt động tuyển
dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó,
tác giả đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về công tác tuyển
dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy
định này để tìm ra được những điểm còn hạn chế, bất cập. Từ đó đưa ra một
số giải pháp hoàn thiện mang tính khoa học và tính thực tế vấn đề này.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.
3
Trong luận văn này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào. Ngoài ra, tác giả còn dùng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích; phương pháp chứng minh; phương pháp
diễn giải; phương pháp lịch sử; phương pháp thống kê; phương pháp quy
nạp; phương pháp so sánh; v.v…
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày một cách có hệ
thống và phân tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định của pháp
luật trước đây cũng như hiện tại về hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý
Thẩm phán để thấy được quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện từng
bước qua từng giai đoạn của pháp luật ở Lào. Ngoài ra, tác giả luận văn cũng
trình bày những thành công và ưu điểm của pháp luật đồng thời cố gắng
trình bày đầy đủ những khuyết điểm và bất cập của các quy định pháp lý về
lĩnh vực này.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là lập luận một cách có sức
thuyết phục về việc cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành trong hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán; Luận văn nêu
ra phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ thẩm phán, đáp ứng nhu cầu xét xử hiện nay.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về hoạt động tuyển
dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán tại Lào.
4
- Phân tích, đánh giá các thực trạng các quy định của pháp luật về hoạt
động tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán tại Lào.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo kết
cấu của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về công tác tuyển dụng, sử dụng,
quản lý thẩm phán ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Chương 2. Các quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, quản lý
thẩm phán tại CHDCND Lào và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Phương hướng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán tại CHDCND Lào
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYỂN DỤNG, SỬ
DỤNG, QUẢN LÝ THẨM PHÁN Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO
1.1. Tuyển dụng, sử dụng và quản lý Thẩm phán tại CHDCND Lào
1.1.1. Tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán tại CHDCND Lào
- Theo Từ điển tiếng Việt tuyển dụng được định nghĩa: “Là quy trình sàng
lọc và tuyển dụng những người có đủ năng lực đáp ứng một công việc trong
một tổ chức…” (Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXb Từ điển Bách
khoa, Hà nội, Việt nam 2010). Theo định nghĩa này tuyển dụng là một công
việc đặc biệt thông qua đó tuyển chọn được những người có năng lực đáp
ứng một công việc nào đó trong cơ quan, tổ chức. Công tác tuyển dụng, là
một công việc với nhiều công đoạn khác nhau nhằm tìm kiếm, cung cấp, bổ
sung nguồn nhân lực phù hợp với công việc thuộc phạm vi chức năng nhiệm
vụ của cơ quan.
Tuyển dụng Thẩm phán là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tìm kiếm, lực chọn theo quy trình do pháp luật quy định. Quá trình đó tuyển
dụng những người có phẩm chất, đạo đức, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu
cầu chuyên môn xét xử các vụ án và đưa đi đào tạo nghiệp vụ để bổ nhiệm
Thẩm phán. Quá trình tuyển dụng còn phải chú trọng đến khả năng đáp ứng
với đặc thù nghề nghiệp mà họ sẽ phải đảm nhận. Tuyển dụng phải được chú
trọng mới đáp ứng với nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho tòa án. Công
tác này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ Thẩm phán sau này nên
phải tuân thủ đúng nguyên tắc và quy trình tuyển dụng phải khoa học, ưu
tiên những người có học hàm, học vị cao vì đây là nguồn nhân lực có chất
lượng cao đáp ứng với đặc thù công việc của tòa án.
6
Ở Lào, Thẩm phán là ngạch công chức thuộc cơ quan tòa án, đồng
thời thẩm phán cũng là một chức danh nhà nước trong hệ thống cơ quan tư
pháp. Theo từ điển tiếng Lào thì chức danh của cán bộ công chức là tên gọi
thể hiện cấp bậc, quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi công chức. Trong khoa học
pháp lý thường sử dụng thuật ngữ chức danh tư pháp để chỉ những người có
chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tố tụng. Theo đó “chức danh tư pháp”
là “tên gọi thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, chức năng đặc thù công việc
của những người thường xuyên và trực tiếp tiến hành hoạt động tư pháp.”
Thẩm phán là chức danh tư pháp thể hiện vị trí chuyên môn, cấp bậc, quyền
hạn nhiệm vụ trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp. Luật Tổ chức tòa án
nhân dân năm 1989 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định “Thẩm phán là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa
án”. Như vậy khái niệm Thẩm phán dùng để chỉ những người làm công việc
xét xử chuyên nghiệp, được tuyển dụng, sử dụng theo một quy trình chặt
chẽ, làm việc thường xuyên trong cơ quan tòa án, thực hiện nhiệm vụ xét xử
nhân danh Nhà nước.
Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật. Các Mác đã khẳng định: “Đối
với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm phán
có trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường hợp
cá biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương
tri… Thẩm phán độc lập không thuộc về tôi cũng không thuộc về Chính phủ.
Thẩm phán xem xét hành động của tôi, trên cơ sở một đạo luật nhất định.”
Áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp, ở đây không phải là cứng nhắc mà
là một quá trình tư duy sáng tạo, phải huy động tổng thể những hiểu biết cả
về pháp luât và những hiểu biết tổng hợp về xã hội, con người để đưa ra
phán quyết hợp với lẽ phải, sự công bằng. Xuất phát từ tính chất khó khăn
7
phức tạp và yêu cầu đạt đến trình độ chính xác cao của hoạt động xét xử,
pháp luật quy định “khi tiến hành xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”. Nguyên tắc này xác định trách nhiệm của thẩm phán chỉ tuân
theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị tác động từ bên ngoài,
không bị tình cảm cá nhân và quyền lợi riêng tư ảnh hưởng đến việc xét xử.
Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của
mình. Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước do vậy phán quyết của
thẩm phán thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể,
phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của pháp luât, bản chất của nhà nước.
Ở đó con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, pháp luật vì con
người, cho con người, đề cao quyền con người trở thành hiện thực. Qua đó
cho thấy hoạt động xét xử của Thẩm phán có vai trò rất lơn. Trước hết là sự
ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỉ cương của xã hội,
sự tự do và an toàn của con người… Việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp
luật, đúng người, đúng tội không những có tác dụng trừng trị, giáo dục, cải
tạo các phần tử phạm tội mà còn góp phần ngăn chặn phòng ngừa các ảnh
hưởng tiêu cực đối với nhà nước và xã hội.
Với vai trò là người trực tiếp áp dụng pháp luật, là nhân tố quyết định
đến chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của ngành tòa án. Như vậy, một
người được tuyển chọn và để được bổ nhiệm vào chức danh thẩm phán trước
tiên phải có đủ tiêu chuẩn như công chức nói chung, đồng thời phải đáp ứng
các tiêu chuẩn đặc thù của Thẩm phán.
Hiểu một cách cụ thể thì tuyển dụng là lựa chọn người để làm việc. Với ý
nghĩa như vậy, bất kì một cơ quan, đơn vị nào có nhu cầu sử dụng nhân lực
thì đều phải tiến hành hoạt động tuyển dụng. Trong nền kinh tế thị trường
việc phát triển nguồn nhân lực phải dựa vào hoạt động tuyển dụng. Công tác
tuyển chọn nhân lực có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của bộ
8
máy nhà nước nói chung và hoạt động xét xử của tòa án nói riêng. Hầu hết
các quốc gia đều coi công tác tuyển dụng nhân lực mang tầm chiến lược.
Tuyển dụng phải theo nguyên tắc cạnh tranh giữa các ứng viên, như
vậy mới đúng nghĩa là “tuyển”. Trong phần lớn các lĩnh vực, số lượng việc
làm được tạo ra thường ít hơn số lao động tìm việc. Do vậy, khi có nhiều
ứng viên tham gia tuyển dụng cho một vị trí việc làm có hạn sẽ khiến người
tuyển dụng có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn, nếu thực hiện một cách công
bằng sẽ lựa chọn người có trình độ chuyên môn cao nhất, xứng đáng nhất.
Tuyển dụng cán bộ, công chức là hoạt động của quản lý hành chính
Nhà nước, để lựa chọn một số người đủ tiêu chuẩn, năng lực, phẩm chất đạo
đức, phẩm chất nghề nghiệp vào những vị trí nhất định trong bộ máy nhà
nước. Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng và quyết định tác động đến
mọi mặt hoạt động kinh tế, xã hội, vì vậy việc tuyển dụng cán bộ công chức
là chủ trương của Đảng và Nhà nước, có vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng cán bộ công chức có đủ phẩm chất năng lực, tuyển dụng được nghiên
cứu, xây dựng một cách nghiêm túc, chặt chẽ vì khi tuyển dụng phải có sự
lựa chọn những con người có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất thực sự để
đảm nhiệm công việc, nhất là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Tùy theo tính chất, chức năng, nhiệm vụ của từng loại cơ quan mà tiêu
chuẩn, điều kiện, hình thức tuyển dụng có khác nhau. Tuyển dụng là khâu
đầu tiên có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng đội ngũ cán bộ công chức do đó
cần phải tuân thủ những nguyên tắc chung nhất định và quy trình khoa học
từ hình thức đến nội dung thi tuyển.
Sử dụng cán bộ, công chức là quá trình sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực
của tổ chức vào các vị trí khác nhau trong tổ chức. Sử dụng nhân lực có thể
được hiểu là quá trình sắp xếp, bố trí nhân sự vào các vị trí công việc của tổ
chức, khai thác và phát huy tối đa năng lực làm việc của nhân sự nhằm đạt
9
hiệu quả cao của công việc thông qua đó đạt được mục tiêu của tổ chức đề
ra.
Trong Bộ máy Nhà nước, Tòa án nhân dân có một vị trí đặc biệt. Tòa án
nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và
các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào. Chỉ các tòa án này mới có quyền xét xử và giải quyết các vụ
án hình sự, các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, hành
chính và các vụ việc pháp lý khác theo quy định của pháp luật thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Bằng hoạt động của mình Tòa án bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền dân chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Đồng thời thông
qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân ý thức pháp luật,
tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, tham gia cuộc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm và các vi phạm.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là nhân tố hạt nhân,
đối tượng quan trọng trong việc đổi mới Tòa án, tăng cường chất lượng xét
xử của Tòa án. Dù ở vị trí công tác nào chúng ta cũng có thể khẳng định
rằng Thẩm phán là một chức danh thực hiện nghề nghiệp đặc thù. Nghề
nghiệp đó có ảnh hưởng lớn đối với tính công minh của pháp luật, uy tín về
nền công lý của một quốc gia. Vì vậy cần phải có những quy định về tiêu
chuẩn, đạo đức của người Thẩm phán. Tiêu chuẩn đó cần được quy định rõ
ràng, phù hợp với vị trí, trọng trách cao cả của Thẩm phán trong xã hội và
phải được công bố công khai để nhân dân tham gia giám sát, để tự mỗi
người cân nhắc và quyết định trước khi bước vào nhận trọng trách của một
Thẩm phán. Chính vì những ý nghĩa quan trọng như vậy nên công tác tuyển
dụng, sử dụng Thẩm phán càng được chú trọng đặc biệt bởi thông qua công
10
tác này Nhà nước mới có thể chọn lọc và sử dụng được những công dân ưu
tú, hội tụ đủ những điều kiện để đảm bảo cho công tác xét xử được công
bằng, đúng pháp luật.
Như vậy có thể hiểu tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán là việc lựa chọn
và sử dụng những công dân Lào có năng lực, phẩm chất, trình độ làm công
tác xét xử tại các cơ quan Tòa án và được thực hiện theo những quy định
chặt chẽ về điều kiện, phương thức. Theo quy định của pháp luật Lào hiện
hành thì công tác tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán bao gồm:
- Điều kiện, thẩm quyền tuyển dụng Thẩm phán
- Thi tuyển, xét tuyển Thẩm phán
- Trình tự, thủ tục tuyển dụng Thẩm phán
- Tập sự
- Bố trí, phân công công tác và chuyển ngạch (Ngạch là tên gọi thể hiện thứ
bậc về năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán )
- Nâng ngạch
- Điều động, luận chuyển, biệt phái Thẩm phán (Điều động là việc Thẩm
phán được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển từ cơ quan, tổ chức,
đơn vị
này đến làm việc ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác; Luân chuyển là việc Thẩm
phán được cử hoặc bổ nhiệm giữ một chức danh lãnh đạo, quản lý khác
trong một thời hạn nhất định để tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng và rèn
luyện theo yêu cầu của nhiệm vụ; Biệt phái là việc Thẩm phán của cơ quan
này được cử đến làm việc tại cơ quan khác theo yêu cầu nhiệm vụ)
- Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm Thẩm phán (Bổ nhiệm là việc
Thẩm phán được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một
11
ngạch theo quy định của pháp luật; Miễn nhiệm là việc Thẩm phán được thôi
giữ chức vụ, chức danh khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ
nhiệm; Từ chức là việc Thẩm phán đề nghị được thôi giữ chức vụ khi chưa
hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm.)
- Đánh giá Thẩm phán
Việc sử dụng Thẩm phán là việc bố trí, sắp xếp khai thác hiệu quả khả năng
đội ngũ Thẩm phán đang công tác tại tòa án nhân dân các cấp. Việc sử dụng
đôi ngũ Thẩm phán phải phù hợp với năng lực xét xử của họ. Đề bạt cất
nhắc phải đúng lúc, đúng người, đúng việc. Trong dụng người có tài năng.
Kết hợp hài hòa giữa thành tích công tác với chính sách tiền lương và các
chế độ đãi ngộ khác.
1.1.2. Quản lý Thẩm phán tại CHDCND Lào
Hiện nay trong khoa học quản lý chưa đưa ra khái niệm quản lý nhà nước
đối Thẩm phán. Chính vì vậy, để dễ dàng tiếp cận và hiểu về vấn đề này,
phải đi từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước
Theo Từ điển tiếng Việt, quản lý là “Tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định” (Tr 772, Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ
học, Nxb khoa học Xã hội, Trung tâm Từ điển học Hà nội Việt nam 1994)
Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học giải thích quản lý là: “Tác động có
mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất
kỳ nơi nào, luc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt động chung của con
người. mục đích và nhiệm vụ của quản lý là điều khiển chỉ đạo hoạt động
chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo
thành hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hướng hoạt động chung
đó theo những phương hướng thống nhất, nhằm đạt được mục tiêu đã định
trước…” Còn đối với quản lý nhà nước Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật
12
học giải thích: quản lý nhà nước là: “Tác động của chủ thể mang quyền lực
nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới đối tượng quản lý nhằm thực hiện các
chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước
đều làm chức năng quản lý nhà nước. Pháp luật là phương tiện chủ yếu để
quản lý nhà nước. Nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội hoặc
các cá nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà
nước” (Tr 95, 96 Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà nội, NXb Công an Nhân dân, Hà nội 1999)
Từ điển Bách khoa Lào định nghĩa “Quản lý là chức năng và hoạt
động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật,
xã hội) bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định duy trì sự hoạt động
tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình mục tiêu của hệ thống đó.”
Ngoài những quan niệm trên về quản lý và quản lý nhà nước. Một quan
niệm chung nhất về quản lý được thừa nhận rộng rãi, đó là định nghĩa về
quản lý của ngành điều khiển học. “quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ
thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trính ấy vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đã định trước”. Các quan
niệm trên tiếp cận giải thích quản lý, quản lý nhà nước ở những góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, các quan niệm này có những điểm chung như sau: Hoạt
động quản lý phải được con người, tổ chức do con người xây dựng nên tiến
hành quản lý. Hoạt động quản lý phải hướng tới mục tiêu nhất định. Đối
tượng quản lý là con người, một hệ thống máy móc, dây chuyền công nghệ,
thế giới tự nhiên Có thể nói rằng, quản lý là sự tác động lên một hệ thống
nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là
một phạm trù xuất hiện trước khi có nhà nước với tính chất là một loại lao
động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được
13
phát sinh từ lao động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng
là một loại hoạt động lao động. Như vậy quản lý xã hội không phải là sản
phẩm của sự phân chia quyền lực mà là sản phẩm của sự phân công lao động
nhằm liên kết và phối hợp hoạt động chung của con người.
Quản lý nhà nước được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước, phương tiện
quản lý là pháp luật, đối tượng quản lý là các cá nhân, tổ chức. Nghiên cứu
về quản lý, quản lý nhà nước từ đó có thể hiểu quản lý nhà nước về Thẩm
phán là một lại hình quản lý nhà nước chuyên biệt có đối tượng là Thẩm
phán. Khi tiến hành hoạt động quản lý đối với Thẩm phán làm phát sinh các
mối quan hệ hành chính giữa cơ quan tòa án với cá nhân Thẩm phán.
Trong mối quan hệ quản lý này bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý… và trong
hoạt động quản lý Thẩm phán một số yếu tố cần phải chú ý như: yếu tố con
người, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền lực, yếu tố văn hóa…
Tóm lại, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các
đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất kì nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó
và lúc đó có hoạt động chung của con người. Mục tiêu và nhiệm vụ của quản
lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp với các
hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hành động thống nhất của
tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước. Quản lý được thực hiện bằng
tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng và tạo sự thống nhất trong
quản lý.
Quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của
Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp
luật Nhà nước đối với các quá trình của xã hội và mọi hành vi hoạt động của
con người do các cơ quan trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ
14
sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước nhằm duy trì
sự ổn định và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, nhằm
thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, có thể hiểu quản lý Thẩm phán là hoạt động quan trọng,
đảm bảo cho các chính sách, quy định của pháp luật về Thẩm phán được
thực thi trên thực tế, bảo vệ và phát triển đội ngũ Thẩm phán. Thông qua
công tác quản lý Thẩm phán các cơ quan có thẩm quyền nắm được tình hình
đội ngũ Thẩm phán, những hạn chế còn tồn tại, nhu cầu tuyển dụng, đào tạo,
bồi dưỡng để từ đó có quy hoạch, sử dụng hợp lý theo chức năng, yêu cầu
của mỗi Tòa án và bộ máy Nhà nước nói chung. Quản lý Thẩm phán được
thể hiện qua việc:
+ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Thẩm phán
+ Xây dựng kế hoạch, quy hoạch Thẩm phán
+ Quy định ngạch, chức danh, mã số Thẩm phán; mô tả, quy định vị trí việc
làm và cơ cấu Thẩm phán.
+ Xác định số lượng và quản lý biên chế Thẩm phán.
+ Tổ chức thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng Thẩm phán.
+ Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với Thẩm phán.
+ Tổ chức thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối
với Thẩm phán.
+ Tổ chức thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật đối với Thẩm phán.
+ Thực hiện chế độ thôi việc, nghỉ hưu đối với Thẩm phán.
+ Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê và quản lý hồ sơ Thẩm phán.
15
+ Thanh tra, kiểm tra việc thi hành quy định của pháp luật về Thẩm phán.
+ Chỉ đạo, tổ chức giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán
1.2. Vai trò của công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán của
CHDCND Lào.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng
đội ngũ cán bộ vững mạnh. Người khẳng định “Cán bộ là gốc của mọi
việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém,
“Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong” (Tô Tử Hạ (1998), công chức và vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, NXb. Chính trị Quốc gia,
Hà nội). Nhận định của Người về cán bộ, công chức đến nay vẫn nguyên
tính thời sự, là kim chỉ nam cho hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý
công chức nói chung của các cơ quan nhà nước Lào trong đó có tòa án
Vai trò của công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán trong việc
thúc đẩy sự phát triển và định hướng cho hoạt động xét xử là không thể phủ
nhận. Nhờ sự thừa nhận chính thức của pháp luật mà các hoạt động xét xử
phát sinh và cũng bằng chính pháp luật quy định về tuyển dụng, sử dụng,
quản lý mà Nhà nước xây dựng nên đội ngũ Thẩm phán có chất lượng, đảm
bảo cho hoạt động xét xử công bằng, minh bạch. Công tác này có vai trò
quan trọng, phản ánh mức độ chất lượng của đội ngũ Thẩm phán, từ đó phản
ánh chất lượng của hoạt động xét xử.
Vai trò của Nhà nước trong công tác này có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc
biệt. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong thực tiễn phát triển của hệ thống
Tòa án Lào những năm vừa qua. Những thành tựu của công cuộc đổi mới cơ
chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhằm nâng cao chất lượng
Thẩm phán đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của hoạt
động xét xử. Đó là chủ trương đúng đắn, cần thiết, phù hợp với xu thế chung
16
trên thế giới và thực tiễn phát triển ở Lào. Những kết quả đạt được trong thời
gian qua về công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán là phù hợp
với ý đồ và lợi ích lâu dài, phương hướng của Lào về hoạt động tư pháp, đáp
ứng được những mục tiêu chủ yếu của việc thực hiện các chính sách của
Đảng và nhà nước, tạo dựng được những cơ sở quan trọng cho hoạt động xét
xử trong tình hình mới.
Những kết quả có được là do nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến vai
trò của Nhà nước. Nhà nước đề ra những tiêu chuẩn để lựa chọn, bổ nhiệm
những Thẩm phán đạt yêu cầu, quản lý và sử dụng Thẩm phán một cách hiệu
quả là then chốt, điều kiện để cho các hoạt động xét xử được đảm bảo công
bằng, khách quan. Vai trò của công tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm
phán đối với hoạt động xét xử được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thông qua công tác tuyển dụng Thẩm phán, Nhà nước tuyển chọn được
những con người có phẩm chất, năng lực, trí tuệ và đạo đức đảm bảo đảm
đương được hoạt động nghề nghiệp đặc thù là xét xử. Dựa vào tính chất,
chức năng, nhiệm vụ của Thẩm phán mà tiêu chuẩn, điều kiện, hình thức
tuyển dụng có những điểm đặc thù. Đây là khâu đầu tiên có ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng đội ngũ Thẩm phán do đó phải tuân thủ những nguyên tắc
chung nhất định và quy trình khoa học từ hình thức đến nội dung tuyển
chọn…
- Thông qua công tác sử dụng Thẩm phán, Nhà nước lựa chọn, bố trí, sử
dụng đúng cán bộ sẽ phát huy hiệu quả hoạt động của tổ chức đó, là điều
kiện để Thẩm phán cống hiến, phát huy năng lực, đồng thời sẽ góp phần
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
- Thông qua công tác quản lý Thẩm phán, Nhà nước nắm được tình hình đội
ngũ Thẩm phán, những hạn chế còn tồn tại, nhu cầu tuyển dụng đề từ đó có
17
quy hoạch, sử dụng hợp lý theo chức năng, yêu cầu của mỗi địa phương, mỗi
thời kì.
1.3. Nguyên tắc tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán tại CHDCND
Lào
Tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán nói riêng, tuyển dụng, sử
dụng, quản lý cán bộ công chức nói chung là hoạt động quan trọng, đảm bảo
cho các chính sách, quy định pháp luật về cán bộ công chức được thực thi
trên thực tế, bảo vệ và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Thông qua công
tác quản lý, các cơ quan có thẩm quyền nắm được tình hình đội ngũ cán bộ,
công chức, những hạn chế còn tồn tại, nhu cầu tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng để từ đó có quy hoạch, sử dụng hợp lý theo chức năng, yêu cầu của
mỗi cơ quan, tổ chức và bộ máy nhà nước nói chung. Tuyển dụng, sử dụng,
quản lý Thẩm phán cũng như tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công
chức được thể hiện qua việc ban hành các văn bản pháp luật, quy chế tòa án;
lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ thẩm phán, quy định chức danh
và tiêu chuẩn, biên chế; tổ chức thực hiện quản lý, sử dụng và phân cấp quản
lý Thẩm phán; ban hành quy chế thi tuyển, nâng ngạch; đào tạo, bồi dưỡng,
đánh giá cán bộ; chỉ đạo tổ chức thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ,
chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỉ luật; thực hiện việc thống kê, thanh tra,
kiểm tra việc thi hành các quy định và chỉ đạo, tổ chức giải quyết các khiếu
nại, tố cáo đối với Thẩm phán v.v… Bên cạnh đó, vai trò lãnh đạo toàn diện
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với nhà nước sẽ là những yếu tố
quan trọng trong việc thiết lập các nguyên tắc cơ bản để tuyển dụng, sử
dụng, quản lý Thẩm phán nói riêng, cán bộ công chức nói chung. Đó là:
a. Nguyên tắc tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
18
Tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán phải dựa trên những quan
điểm tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào. Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh, vững bước lên chủ nghĩa xã hội. Công
tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu
đó. Mặt khác quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng bảo vệ tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và
đào tạo Thẩm phán nâng cao kiến thức, năng lực của mình.
Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng phát triển truyền
thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Gắn việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán với xây dựng tổ chức và đổi
mới, cơ chế chính sách
Nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, bồi dưỡng Thẩm
phán.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác quản lý Thẩm phán và quản lý đội
ngũ cán bộ công chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy
trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
b. Nguyên tắc tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán phải lựa chọn người
có năng lực, trình độ. Đặc biệt chú trọng tuyển dụng người có tài năng
không phân biệt giói tính, thành phần giai cấp dân tộc.
tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán là tuyển dụng, sử dụng, quản lý
nguồn nhân lực đặc biệt.
Thẩm phán làm việc trong hệ thống cơ quan tòa án là một lực lượng
lao động đặc biệt trong xã hội, chuyên thực hiện công việc xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, lao động, thương mại. Do đặc thù công việc nên khi tuyển
19
dụng thẩm phán nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến trình độ, năng lực làm
việc của họ. Việc tuyển dụng phải thông qua hình thức thi tuyển là chủ yếu.
Trước khi thi tuyển cơ quan tòa án phải thông báo công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng công khai về thời gian thi tuyển,điều kiện
dự thi tuyển. Thông qua việc thu và xét duyệt hồ sơ bước đầu đã lựa chọn
được những người có đủ tiêu chuẩn để dự thi tuyển. Sau khi thi tuyển cơ
quan tòa án lựa chọn được người có trình độ vào làm việc ở tòa án và những
người này được đưa đi đào tạo nghề thẩm phán, sau đó được bổ nhiệm thẩm
phán, từ đó họ trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử nhân danh nhà nước để
tuyên án đối với một kẻ có tội hoặc phán quyết một tranh chấp xảy ra trong
lĩnh vực thương mại, lao động, dân sự… Ngoài ra trong những trường hợp
đặc biệt những người có tài năng không phải dự thi tuyển, được đặc cách xét
tuyển dụng và được đưa đi đào tạo nghề thẩm phán.
- Sử dụng, quản lý đội ngũ thẩm phán trong hệ thống cơ quan tòa án phải
tuân thủ những nguyên tắc do pháp luật quy định luật quy định đó là:
+ Công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người đối với nền công vụ bao gồm
cả vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, đảng phái, giới tính.
+ Cơ hội việc làm như nhau, cả về điều kiện.
+ Đánh giá tuyển chọn dựa vào tiêu chí chứ không dựa vào con người
+ Tiền lương phải được xác định trên cơ sở công việc, phải bình đẳng
+ Thẩm phán không chỉ đơn thuần là người làm công cho nhà nước mà còn
thay mặt Nhà nước đưa ra các bản án, quyết định có hiệu lực, ảnh hưởng
trực tiếp tới quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Vì vậy các quy tắc, quy
chế công vụ không phải nhằm điều tiết mối quan hệ giữa người lao động mà
nhằm bảo vệ người thẩm phán khi thực thi vai trò xã hội hội đặc biệt của họ
và đồng thời xác định những tiêu chuẩn nghề nghiệp của họ.
20
c. Nguyên tắc tuyển dụng, sử dụng, quản lý thẩm phán gắn với quy hoạch
nhân sự và yêu cầu đòi hỏi của xã hội.
- Nguyên tắc này giúp tòa án tuyển dụng, đào tạo thẩm phán phù hợp với
yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Đồng thời tạo nên đội ngũ thẩm phán có phẩm
chất, trình độ, năng lực số lượng phù hợp với biên chế đã được tính toán, trù
liệu từ trước. - Nguyên tắc tương xứng với yêu cầu công việc
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi khi lựa chọn, bố trí và sử dụng Thẩm phán
phải xem xét phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiện hiện có của người
Thẩm phán có đáp ứng được yêu cầu công việc không. Chỉ khi có sự tương
xứng với yêu cầu công việc thì Thẩm phán mới thực thi công vụ có hiệu quả.
Tuyển dụng, sử dụng, quản lý Thẩm phán là nhằm phát triển đội ngũ Thẩm
phán đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước và quản lý xã hội. Tuyển dụng, sử dụng,
quản lý thẩm phán phải luôn gắn liên với đào tạo, bồi dưỡng, tạo cơ hội để
thẩm phán được thăng tiến theo chức nghiệp, công trạng.
d. Nguyên tắc được hưởng các chế độ đãi ngộ tương xứng với công việc mà
thẩm phán đang đảm trách
Quan hệ lao động giữa cơ quan tòa án và thẩm phán là mối quan hệ đặc biệt.
Tính chất đặc biệt của quan hệ này do chính bản chất của hoạt động xét xử
các vụ án do tòa án thực hiện quyết định. Người thẩm phán với tư cách là
công chức trong cơ quan tòa án, chịu sự phân công của chánh án thực hiện
hoạt động xét xử và khi xét xử thì phải độc lập tuân theo pháp luật. bên cạnh
đó chánh án còn là người làm nhiệm vụ quản lý đảm bảo các chế độ đãi ngộ
cho người thẩm phán như lương, thưởng, bảo hiểm xã hội, khen thưởng,
nghỉ lễ, tết, nghỉ hàng năm…Đặc biệt là lương của thẩm phán. Thẩm phán
được hưởng lương theo ngạch, bậc phù hợp với thâm niên công tác, thành
tích trong công tác. Chính các chế độ đãi ngộ của nhà nước làm cho thẩm