Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hiệu quả quản lý sử dụng vốn.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.45 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản của K.Marx là một trong những lý luận
quan trọng hàng đầu và nó có giá trị rất lớn đối với hệ thống lý luận của ông. Việc
chúng ta nghiên cứu nó để vận dụng là một công việc hết sức cần thiết và đòi hỏi sự tỉ
mỉ và sáng suốt cao. Cần đứng trên một cái nhìn khách quan mà không phải là một cách
hiểu áp đặt và tuỳ tiện. Bởi sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa
quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá
trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất, cần
nghiên cứu quá trình lưu thông cùng những quan hệ bóc lột của tư bản, giải thích được
đầy đủ những biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa tư bản...

1
T - H
NỘI DUNG
TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN:
Sự tuần hoàn của tư bản ở đây là gì?
Nó được hiểu như một chu kỳ hay một vòng quay của tiền tệ (Tư bản), sự tuần hoàn đó nó
sẽ không mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, nó được hiểu qua công thức sau:
T - H - T'
T - là số tiền tệ (tư bản), bỏ ra ban đầu để mua tư liệu sản xuất, sức lao động, sau đó biến
thành "H" đem bán để thu về một lượng giá trị là T'. T' ở đây là số tiền hay giá trị kết tinh của
sản xuất hàng hoá mà chúng ta nói một cách chính xác hơn là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được
qua quá trình đầu tư sản xuất. Mỗi quá trình của tư bản, tiền tệ càng lớn thì lợi nhuận thu được
càng cao tức "T' " và để minh chứng cho những khái niệm trên đây, chúng ta sẽ xem kỹ hơn các
qúa trình chu chuyển của tư bản trong bài dưới đây để từ đó có thể hiểu rõ hơn về quá trình tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản!
1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của tư bản.
Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức
và thực hiện ba chức năng.
Giai đoạn thứ nhất - Giai đoạn lưu thông: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách
người mua, thực hiện hành vi T - H, tức là mua.


Giai đoạn thứ hai - Giai đoạn sản xuất: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã
mua, tức tiến hành sản xuất, kết quả là nhà tư bản có được một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị
các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó.
Giai đoạn thứ ba - Giai đoạn lưu thông: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người
bán, thực hiện hành vi H' - T', tức là bán.
1.1 Giai đoạn thứ nhất: T - H: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất,
để mua tư liệu sản xuất (TLSX) và sức lao động (SLĐ).
Về hình thức, T - H ở đây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệ được sử dụng làm
phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tuy nhiên xét về mục đích thì có sự
khác biệt, tiền ở đây tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua được hàng hoá sức lao động và
tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T - H không chỉ đơn thuần
2
T - H
T - H
biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng hoá, mà nó đã bước vào các giai đoạn vận
động tuần hoàn của tư bản.
Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những phải phù hợp với loại
hàng hóa cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo đảm cho
quá trình sản xuất được tiến hành bình thường và nhất là để sử dụng được triệt để toàn bộ thời
gian lao động của công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không không đủ việc làm.
Ngược lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận dụng để tạo ra sản phẩm.
Do đó, lòng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản cũng không được thoả mãn.
Quá trình này thể hiện như sau:
Slđ
TLsx
Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - SLĐ (việc mua sức lao động) là yếu tố đặc trưng
khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành vi T - TLSX chỉ cần thiết để sức lao
động đã mua có thể hoạt động được song T - SLĐ được coi là nét đặc trưng của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện
rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền

tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động
biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ, những người mua
là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời
hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đã đẻ ra
mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm
cho chức năng của tiền tệ là công cụ của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức năng
của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn bị tách rời nhau,
quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê đã có rồi, thì tiền của nhà tư bản
ứng ra để thực hiện hành vi:
Slđ
Tlsx
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái các
yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là hình thái tư bản sản xuất.
Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
1.2 Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn sản xuất ...... SX.....:
3
T - H
T - H
T - H
Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một tư
bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện được bằng cách bán ngay các hàng hoá
đã mua mà chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy sản xuất ra một hàng hoá
mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến giai
đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoá đã mua, tức sản xuất. Quá trình này có thể biển
diễn như sau:
Slđ
Tlsx
Quá trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình thái xã
hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc
thù này không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì

vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi
thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó để biến thành
một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được tạo ra khác cả về
giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này
là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị bằng giá trị của tư bản hao phí sản
xuất ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai
đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
1.3 Giai đoạn thứ ba: H ' - T'
Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động. Trong giai đoạn này tư bản tồn tại
dưới hình thái tư bản hàng hóa, với chức năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã
sản xuất. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng
hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.
Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H' - T'. Xét về hình thức, hàng hóa ở đây
không khác gì hàng hoá thông thường, hàng hoá tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện chức
năng vốn có của hàng hoá là bán để lấy tiền. Nhưng về bản chất, nó là tư bản hàng hoá, có giá
trị bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo đúng quy
luật giá trị của nó thu về được T', nghĩa là thu về được số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban
đầu. Chức năng của H' không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn
còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong qúa trình sản xuất.
4
.... SX.... H'
T - H
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục
đích của tư bản được thực hiện. Tư bản quay trở lại hình thái ban đầu, với số lượng lớn hơn
trước.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có công thức:
Slđ
Tlsx
Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình
thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hoá hình thái là có bấy nhiêu thời

kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản. Trong ba giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc
lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua ba
giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái của tư bản công nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và
tư bản hàng hóa rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng
lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản.
2. Điều kiện để cho tuần hoàn Tư Bản được bình thường
Sự vận động của TB chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục, kế
tiếp nhau.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của
nó không ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong
một thời gian nhất định. Hay nói khác đi, tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình
thường khi thỏa mãn hai điều kiện: một là, các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; hai là, các
hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một cách đều đặn.. Do đó, sự vận động tuần
hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là sự vận động không đứt
quảng. Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hoàn này bị đình trệ
5
T - H
………sản xuất……..H' - T
G. đoạn I
Hình thức tư bản
tiền tệ.
Chức năng: mua
các yếu tố sản xuất
G. đoạn II
Hình thức tư bản
sản xuất.
Chức năng sản xuất
ra hàng hoá tạo ra
giá trị thặng dư
G. đoạn III.

Hình thức tư bản hàng
hoá.
Chức năng thực hiện
giá trị và giá trị thặng

×