Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.38 KB, 18 trang )

I ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra quá trình tin học hoá trên nhiều lĩnh
vực hoạt động của xã hội loài người và đem lại nhiều hiệu quả to lớn.
Sự phát triển mạnh mẽ như “vũ bão” của tin học đã làm cho xã hội có nhiều
nhận thức mới về cách tổ chức các hoạt động. Nhiều quốc gia trên thế giới ý
thức được rất rõ tầm quan trọng của Tin học và có những đầu tư lớn cho lĩnh vực
này, đặc biệt trong giáo dục nâng cao dân trí về Tin học và đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Người Việt Nam có nhiều tố chất thích hợp với ngành
khoa học này, vì thế chúng ta hi vọng có thể sớm hoà nhập với khu vực và trên
thế giới.
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy được tầm quan trọng của ngành Tin học
và đã đưa môn học này vào nhà trường như những môn khoa học khác. Việc đổi
mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung
chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp
dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng
lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác
triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học như
bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm - thực hành, máy chiếu qua đầu, máy
chiếu đa chức năng.
Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị... mà đôi khi phương
pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện
đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất
lượng dạy và học có mặt hạn chế.
Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp dạy của giáo viên và
cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng dạy học. Chính vì cậy mà
bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và ứng
dụng. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi
đã tìm ra một số biện pháp hữu ích góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất
lượng bộ môn Tin học lớp 6.
Từ lí do trên, tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm “MỘT SỐ BIỆN


PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TRỰC QUAN MÔN TIN
HỌC LỚP 6”.
2. Mục đích của đề tài
Sáng kiến kinh nghiệm “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC TRỰC QUAN MÔN TIN HỌC LỚP 6” nhằm giúp cho
học sinh lớp 6:
- Nâng cao tính tích cực, chủ động của học sinh
- Giúp cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kĩ năng thực
hành.
- Tiếp thu các kiến thức mới thông qua các hình ảnh và mô hình mà giáo viên
đưa ra.
- Vận dụng các kiến thức đã học cũng như kiến thức vừa tiếp thu để thực hành.
1


3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh khối lớp 6 trường THCS Lê Văn Tám.
4. Phạm vi và thời gian thực hiện
- Do điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị của trường nên phạm vi nghiên
cứu và thực hiện là với môn Tin học tại 2 lớp 6/2, 6/7 của trường THCS Lê Văn
Tám trong năm học 2015 – 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp khảo sát
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2. Cơ sở lí luận
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học, chúng ta

mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được
lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh
nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.
Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời
đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng
đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng
những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học
được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội
dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng
trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.
Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp
học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa
Tin học vào nhà trường nói chung và THCS Lê Văn Tám nói riêng là một việc
làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.
Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm
trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy Tin học trong nhà trường hiện nay đối
với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của
môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có
tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy
2


tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật
và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách
tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học
sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kĩ năng thực hành là một
nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.
Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết quả cao thì người
giáo viên ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy

học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ
các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan
hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.
2. Cơ sở thực tiễn
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu
chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo
viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động
mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố
vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học
sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên
môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp
dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy
học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Để áp dụng phương pháp này vào dạy
Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu, máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp
dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.
Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải
tiếp xúc với máy tính nhiều, nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì
các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì
sẽ chóng quên. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn, gia đình không
có điều kiện để mua máy tính cho con em học. Theo thống kê của giáo viên dạy
thì không có em nào có máy vi tính ở nhà.

3



Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không
hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự
rèn luyện yếu.
Qua điều tra những tiết học đầu tiên về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến
hành đã thu được kết quả như sau:
* Về khâu tiếp nhận lý thuyết:
Tổng
Giỏi
SL
%
số
6/2
25
2
8,0
6/7
19
1
5,3
* Về kĩ năng thực hành:
Lớp

Khá
SL
%
5
20,0
2
10,5


TB
SL
8
5

%
32,0
26,3

Yếu
SL
%
6 24,0
5 26,3

Kém
SL
%
4 16,0
6 31,6

Thực hành
Tổng Tự thao tác sau khi có Thao tác cần có hướng
Lớp
Chưa biết thao tác
số
hướng dẫn
dẫn thường xuyên
SL
%

SL
%
SL
%
6/2
5
20,0
10
40,0
10
40,0
25
6/7
5
26,3
5
26,3
9
47,4
19
Qua kết quả trên thì đa phần các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các
em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn
của giáo viên. Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin
học luôn suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí
thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời
gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau
đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
a. Trực quan hoá thông tin dạy học

Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học
tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô
hình, vật thật,… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.
Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy
học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên cơ sở máy tính,… dụng cụ trực quan có thể
được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và

4


các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy
học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học
bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong
cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một
khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm
tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo
dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng
cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả
rất cao.
Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo
viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó
là gì, phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.
Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan. Ví dụ dạy bài: Máy
tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới
thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm (con chíp),
thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD,
DVD…hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp
bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và

thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.
Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với
đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì
phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội
dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.
Chẳng hạn: khi nói đến máy tính hoặc máy in thì ta đưa hình ảnh minh họa,
bằng quan sát trực quan như thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất.

b. Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn
ngữ, biểu trưng đồ hoạ, biểu trưng tranh ảnh
5


Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên
người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và
trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy
học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho
nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính
trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong
nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại
hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.
* Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ
Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẽ hoặc
câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng
trực quan bằng ngôn ngữ.
Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” tiết PPCT 6, 7 và quan
sát hình vẽ “SƠ ĐỒ CẤU TRÚC CỦA MỘT MÁY TÍNH” trong sách giáo khoa
Tin học 6. Học sinh đã có rất nhiều nhầm lẫn và trừu tượng về máy tính, nhất là
khi giáo viên thực hiện phương pháp dạy học mới, phương pháp “Lấy học sinh

làm trung tâm”. Ví dụ như sơ đồ cấu trúc máy tính dưới đây:
Bộ nhớ ngoài

Bộ xử lí trung tâm
Bộ điều
khiển

Bộ số học/logic

Thiết bị vào

Thiết bị ra
Bộ nhớ ngoài

Hình 1. Sơ đồ cấu trúc máy tính

Khi dạy bài này, giáo viên đưa ra các câu hỏi sau đây:
Câu hỏi 1: Em hãy quan sát hình ảnh trong sách giáo khoa và cho biết máy
tính gồm bao nhiêu bộ phận?
Thoạt đầu, học sinh sẽ trả lời là gồm có 4 bộ phận: CPU và bộ nhớ trong;
bộ nhớ ngoài; thiết bị vào; thiết bị ra… mà thực tế thì máy tính được cấu thành
từ năm bộ phận. Như vậy, nhìn vào sơ đồ trong sách giáo khoa Tin học 6 học
sinh đã nhóm CPU và Bộ nhớ trong thành một bộ phận (vì chúng cùng được
đóng một khung), còn các bộ phận khác thì đa phần học sinh đều trả lời đúng.
6


Điều đó cho ta thấy rằng nếu không mô tả bằng thiết bị vật lí cụ thể thì học sinh
sẽ nhầm lẫn, hiểu biết lệch lạc.
Câu hỏi 2 : CPU là gì ? Tầm quan trọng của CPU như thế nào ? Em biết các

hãng sản xuất CPU hiện nay không ?
Tất nhiên là học sinh sẽ trả lời như khái niệm trong sách giáo khoa : CPU
là đơn vị xử lí trung tâm và là bộ phận quan trọng nhất của máy tính,…các
hãng sản xuất CPU như Intel, AMD, IBM. CPU bao gồm các bộ phận CU, ALU,
Thanh ghi.
Theo kiểu trả lời này
thì học sinh chưa thực sự
hiểu biết về CPU, còn
mang tính học vẹt, hiểu
biết mông lung, thậm chí
Hình 2. CPU
không biết được CPU có
kích thước thực (kích thước vật lí) là bao nhiêu (trong khi trên thị trường thì
đang lưu hành CPU công nghệ nano). Nhiệm vụ của giáo viên là phải diễn giải
thêm cho học sinh để học sinh nắm vững hơn khái niệm CPU, nhưng chỉ diễn
giải và mô tả bằng hình ảnh trong sách giáo khoa thì học sinh cũng khó nắm bắt
được kiến thức về CPU. Vậy ta có thể lấy một chiếc CPU nào đó để cho học
sinh quan sát trực quan không? Thực tế tôi đã lấy một chiếc CPU cho học sinh
quan sát, kết quả là học sinh rất chăm chú và đặt ra rất nhiều câu hỏi xoay quanh
vấn đề này.
Câu hỏi 3: Em hãy cho biết sự phân biệt lớn nhất giữa Bộ nhớ trong và Bộ
nhớ ngoài, kể các loại của hai bộ nhớ trên?
Đa phần học sinh trả lời bộ nhớ trong là bộ nhớ nằm bên trong, bộ nhớ
ngoài là bộ nhớ nằm bên ngoài. Câu trả lời lấp lửng là do học sinh chưa được
thấy một chiếc máy tính như thế nào? Nếu nói nằm bên trong vỏ máy thì cả hai
bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài đều nằm bên trong vỏ máy.
Trả lời câu hỏi trên phải là “Bộ nhớ trong khi tắt máy hay cúp nguồn điện
của máy tính thì dữ liệu trên bộ nhớ này sẽ mất, còn Bộ nhớ ngoài thì lưu dữ
liệu ngay cả khi tắt máy hoặc không có nguồn điện”. Ngoài ra, còn một số phân
biệt khác như: dung lượng, cấu trúc vật lí, tốc độ truy xuất dữ liệu,…

Các loại bộ nhớ: học sinh trả lời có thể nói giống hệt nội dung sách giáo
khoa vì thực tế học sinh chưa bao giờ thấy các thiết bị nói trên.

7


Giáo viên chỉ có thể mô tả bằng hình ảnh trên sách giáo khoa hoặc
Projector.

ROM
RAM

Hình 3 . Bộ nhớ trong

USB

CD-ROM

FDD

HDD

Hình 4. Bộ nhớ ngoài

Còn nếu lấy một chiếc máy tính để mô tả thì rất là khó vì phải tháo lắp rất
phiền hà.
Câu hỏi 4: Em hãy kể tên các thiết bị vào và thiết bị ra?
Học sinh sẽ liệt kê được các thiết bị vào (Input devices):
1. Bàn phím (Keyboard);
2. Chuột (Mouse);

3. Webcam (Máy quay phim qua Internet);
4. Máy quét ảnh (Scanner);

Bàn phím

Chuột

Webcam

Máy quét

Modem

Hình 5. Thiết bị vào

8


Học sinh quan sát được các thiết bị trên thông qua các hình ảnh được mô tả
trong sách giáo khoa Tin học 6. Thực ra các thiết bị đó rất thường gặp.
Ngoài các thiết bị trên đa phần học sinh không thể biết thêm các thiết bị
khác nữa, ví dụ để đưa âm thanh vào máy tính như Micro, chuyển đổi tín hiệu
Internet như Modem, Router, các thiết bị chống trộm như camera,…
Học sinh sẽ liệt kê được các thiết bị ra(Output Devices):
1. Màn hình (Monitor);
2. Máy in (Printer);
3. Máy chiếu (Projector);
4. Loa và tai nghe (Speaker and Headphone);
Đa phần học sinh trả lời đúng và đủ tên các thiết bị ra nói trên. Nhưng tất cả


Monitor

Printer
Projector

Speaker

Hình 6. Thiết bị ra

đều là quan sát trong sách giáo khoa.
Trong sách giáo khoa không giới thiệu thiết bị Modem là thiết bị vào,
nhưng trong sách bài tập Tin học 6 lại giải thích thiết bị Modem vừa là thiết bị
vào vừa là thiết bị ra. Điều nay gây cho học sinh lúng túng, yêu cầu giáo viên
phải có giải thích chính xác và rõ ràng cho học sinh.
Với thiết bị này tôi đã giải thích cho học sinh như sau:

9


MODEM được viết tắt từ MODULATE/ DEMODULATE nghĩa là bộ điều
chế/giải điều chế tín hiệu số tương đương tín hiệu điện thoại và ngược lại. Vì kết
nối Internet thông qua đường dây diện thoại. Do đó, có thể xem Modem vừa là
thiết bị vào vừa là thiết bị ra.
* Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ hoạ
Biểu trưng đồ hoạ được tạo ra bằng nhiều cách đồ họa liên quan với hình
ảnh, đồ hoạ liên quan với khái niệm, đồ hoạ tuỳ ý… Việc dạy học trực quan
bằng biểu trưng đồ hoạ trong Tin học giúp người học có thể thao tác nhanh các
bước thực hành – đây là yêu cầu cần đạt của người học Tin học, dựa vào các
biểu trưng đồ hoạ này học sinh có thể phát hiện ra khái niệm, ý nghĩa của nó.
Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần

cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)…nhanh qua các
biểu tượng.
Giáo viên đưa các biểu tượng:

Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng:

? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng
- Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu
lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu
tượng sau.
HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các
em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.
- Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem
văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu
tượng sau.

* Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh

10


Biểu trưng hình ảnh được tạo ra như ảnh chụp, tranh minh hoạ, tranh vẽ.
Tất cả đều phản ánh sự vật và ý nghĩa dưới dạng các biểu trưng cụ thể và mang
tính hiện thực cao, người học có khả năng phiên dịch các biểu trưng hình ảnh
thành các vật tương tự trong thế giới hiện thực.
Khi dạy bài “Hệ điều hành Windows” để giúp học sinh sớm hình thành kỉ
năng làm việc với máy tính như khởi động máy tính, tắt máy tính hay phân biệt
các đối tượng trên màn hình máy tính ta tiến hành đưa một số hình ảnh liên
quan.


Các biểu tượng chương trình

Thanh công việc

* Kết hợp các loại hình trực quan
Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các
loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết
học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.
Ví dụ: Khi dạy bài “Giới thiệu hệ soạn thảo văn bản”, “Quản lý tệp văn bản”,
“Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan.

11


Thanh
Menu bar

Thước ngang
Thanh
Tool bar

Thanh
Formating

- Dạy bài “Định dạng văn bản” ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh
thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dễ
tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

c. Xây dựng các kĩ năng, thực hành
* Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng


12


Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các
dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt
được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”: Nối các ý của cột A, B, C, D
sao cho hợp lý.
A

B

Ctrl + O
Ctrl + N
Ctrl + S
Alt + F4

File \ Open
File \ Save
File \ Exit
File \ New

C

D
Tạo tập tin văn bản mới
Đóng tập tin văn bản
Mở văn bản đã có
Lưu văn bản


* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù
hợp.
(1) Edit \ Copy
(2) Edit \ Cut
(3) Edit \ Paste
(4) Delete

(5) Ctrl + V
(6) Ctrl + C
(7) Ctrl + X

Các bước sao chép khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào…......... (hay bấm
tượng….......)
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào…......... (hay bấm
tượng….......)
Các bước chuyển khối
Bước1. Chọn khối
Bước2. Click vào…......... (hay bấm
tượng….......)
Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.
Bước4. Click vào…......... (hay bấm
tượng….......)
Các bước xoá khối
Bước1. Chọn khối

tổ hợp phím…...


hoặc Click biểu

tổ hợp phím…...

hoặc Click biểu

tổ hợp phím…...

hoặc Click biểu

tổ hợp phím…...

hoặc Click biểu

13


Bước2. Click vào…......... (hay bấm phím…...
hoặc Click biểu
tượng…………......)
* Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy
Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh
nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy,
học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính
theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh
nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.
d. Học bằng chơi, chơi mà học. Giải trí thư giãn.
Để cho học sinh có hứng thú học tập, tạo kích thích tìm tòi, đồng thời góp
phần thư giãn cho các em thì trước khi kết thúc tiết học (5-10 phút) tôi thường tổ

chức cho các em chơi một số trò chơi như: ong tìm chữ, ô số bí ẩn, vượt chướng
ngại vật, … hay cho học sinh vẽ hình tự do bằng chương trình Paint mà qua các
chương trình này học sinh được hình thành các kĩ năng sử dụng chuột, các thao
tác với chuột.
Với các giải pháp thực hiện nói trên nên năm học 2015 – 2016, 2 lớp 6/2,
6/7 trường THCS Lê Văn Tám đã đạt được kết quả đáng khả quan.
4. Hiệu quả
Qua một thời gian thực hiện ứng dụng các dụng cụ trực quan vào dạy học
tin học lớp 6 tôi nhận thấy:
- Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một
cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó học
sinh có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ
kiến thức lâu hơn
- Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng
hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ
kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng
các mức như sau.
* Về mức độ tiếp thu lý thuyết:
Tổng
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Lớp
SL
%
SL
%

SL % SL
%
SL
%
số
56,
6/2
25
1
4,0
8
32,0 14
0
2
10,5
0
0,0
6/7
19
0
0,0
4
21,0 14 73,7 1
5,3
0
0,0
14


Qua kết quả trên thể hiện rõ việc cải tiến phương pháp dạy học trong các

bài giảng tin học đã có hiệu quả, học sinh đã chủ động trong các thao tác thực
hành cụ thể là:
+ Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí thuyết
đạt 93,1%.
+ Số em chưa hiểu bài chiếm tỉ lệ 6,8%.
So sánh với khảo sát đầu năm:
+ Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí thuyết
đạt 52,3 tăng 40,8%.
+ Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu chiếm tỉ lệ 47,7% giảm 40,9%.
+ Số lượng học sinh kém không còn.
* Về kĩ năng thực hành:
Thực hành
Tổng Tự thao tác sau khi có Thao tác cần có hướng
Lớp
Chưa biết thao tác
số
hướng dẫn
dẫn thường xuyên
SL
%
SL
%
SL
%
6/2
20
80,0
5
20,0
0

0
25
6/7
13
68,4
6
31,6
0
0
19
+ Số lượng học sinh tự thao tác sau khi có hướng dẫn tăng 52,3%.
+ Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên giảm 9,1 %.
+ Chưa biết thao tác không còn.
5. Bài học kinh nghiệm
Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy để nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau:
- Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một
niềm vui niềm say mê trong học tập của học sinh. Giáo viên luôn tạo ra những
thách thức vừa sức, tổ chức những hoạt động tự lực của học sinh trong từng tiết
học.
- Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác
dụng của các thiết bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có như vậy mới gây
được hứng thú học tập của các em. Bên cạnh mỗi tiết dạy giáo viên luôn nỗ lực
chuẩn bị các đồ dùng trực quan đầy đủ phù hợp với nội dung bài dạy. Từ đó,
giáo viên mới tạo được sự hứng thú bộ môn cho các em.
- Bên cạnh đó giáo viên phải biết vận dụng các kiến thức trong bài dạy
vào các hoạt động thực tế có liên quan và giải thích cụ thể, từ đó các em có nhu
cầu tìm hiểu về môn học.
15



III. KẾT LUẬN
Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học trực quan là
con đường tốt nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy trong đó phương tiện
dùng công cụ trực quan đặc biệt có hiệu quả tốt giúp người học hiểu và nắm
chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng dụng cụ trực quan vào quá trình dạy học
là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả của giáo
dục cao.
Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng
thì điều đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng
thú học tập bộ môn. Giờ học phải thu hút sự chú ý ham học hỏi của học sinh,
tạo cho các em lòng tin vào khả năng của mình, nhiệt tình ham mê học tập. Trên
đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc sử dụng phương pháp học dạy trực
quan và sử dụng giáo cụ trực quan trong giảng dạy Tin học. Rất mong ý kiến
đóng góp của đồng nghiệp. Xin chân thành cám ơn.
* Kiến nghị
- Đề nghị nhà trường trang bị thêm máy chiếu để phục vụ cho việc dạy học bằng
máy chiếu được thuận lợi hơn.
- Tổ chức những cuộc hội thảo về phương pháp giảng dạy để giáo viên rút kinh
nghiệm và tìm ra các phương pháp giảng dạy hay, phù hợp với đối tượng học
sinh.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đúc kết được từ trong quá trình
thực dạy, tuy nó không nhiều nhưng hy vọng nó sẽ giúp ích cho quý thầy, cô dạy
tốt cũng như các em học sinh có thể học tốt hơn đối với môn học này. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến, nhận xét chân tình của quý thầy (cô).
Xin cảm ơn!
Liên Sang, ngày 01 tháng 09 năm 2016
Người thực hiện

Trần Thị Thanh Tuyền


16


MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………...Trang 1, 2
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………...Trang 1
2. Mục đích của đề tài………………………………………...Trang 1
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………...Trang 2
4. Phạm vi và thời gian thực hiện………………………….....Trang 2
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………..............Trang 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………....Trang 2 15
1. Cơ sở lí luận……………………………………………….Trang 2
2. Cơ sở thực tiến…………………………………………….Trang 3,4
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề…………......Trang 5 13
4. Hiệu quả…………………………………………………...Trang 14
5. Bài học kinh nghiệm………………………………………Trang 15
III. KẾT LUẬN……………………………………………..Trang 15, 16

17


18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×