Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa công ty với người có liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.22 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DƯƠNG VĂN QUÝ

NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC LÀ
THỐNG NHẤT, CÓ SỰ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP, KIỂM SOÁT
GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÁC QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THÁI DƯƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



BẢNG TỪ VIẾT TẮT

Hội đồng nhân dân

: HĐND

Nhà xuất bản

: Nxb

Tổ chức Chính phủ

: TCCP

Tổ chức Quốc hội

:

Tổ chức Toà án nhân dân

: TCTAND

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

: TCVKSND

Toà án nhân dân

: TAND


Ủy ban Thường vụ

: UBTV

Ủy ban nhân dân

:

Viện kiểm sát nhân dân

: VKSND

Xã hội chủ nghĩa

TCQH

UBND

: XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC LÀ THỐNG NHẤT, CÓ SỰ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP,
KIỂM SOÁT GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CÁC QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP ..... 12
1. 1. Khái quát về nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước ..... 12

1.2. Nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước theo Hiến pháp
một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................. 26
1.3. Quá trình hình thành, phát triển của nguyên tắc tổ chức, thực hiện
quyền lực nhà nước theo các bản Hiến pháp Việt Nam................................. 32
Kết luận chương 1 ................................................................................ 38
Chương 2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC LÀ THỐNG NHẤT, CÓ SỰ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP, KIỂM
SOÁT GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC
HIỆN CÁC QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP THEO
HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO NHẬN
THỨC, TIẾP TỤC CỤ THỂ HOÁ............................................................ 39
2.1. Nội dung nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013 .................... 39
2.2. Phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp theo Hiến pháp năm 2013 .................................................................... 56
Kết luận chương 2 ............................................................................ 63
KẾT LUẬN ....................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ra đời từ những đòi hỏi của xã hội phát triển đến một trình độ nhất
định. Nhưng nhà nước cũng “tựa hồ như đứng trên xã hội” [35, tr. 260], là công cụ
để giai cấp cầm quyền thống trị, áp bức xã hội. Nhà nước ra đời và tồn tại là tất yếu

khách quan của lịch sử, do đó quyền lực nhà nước cũng như việc tổ chức, thực hiện
quyền lực nhà nước luôn là những vấn đề quan trọng hàng đầu đối với mọi chế độ
xã hội có nhà nước, đồng thời cũng là tâm điểm của mọi tư tưởng, học thuyết chính
trị từ thời cổ đại đến nay. Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh không mệt mỏi
chống lại các thể chế độc tài, chuyên quyền nhằm hướng đến thiết lập và duy trì một
thể chế chính trị tốt đẹp, vì các quyền, nhân phẩm và hạnh phúc của người dân…
Tư tưởng xuyên suốt của các cuộc đấu tranh vì nền dân chủ từ Đông sang Tây, từ
thời cổ đại đến thời hiện đại được thể hiện tập trung ở chỗ quyền lực nhà nước nhất
thiết phải được tổ chức và thực hiện theo nguyên tắc nhất định, bảo đảm quyền lực
của nhân dân, phục vụ đời sống của người dân chứ không phải là thứ nô dịch, đàn
áp nhân dân. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ,
nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước lại càng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng.
Nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước được hiến pháp hầu hết
các quốc gia quy định. Đó là phương thức công khai trao quyền lực nhân dân cho
chính quyền, đồng thời giới hạn quyền lực của chính quyền nhằm bảo vệ các quyền
con người - một trong những giá trị lớn nhất của chủ nghĩa lập hiến, xây dựng nền
dân chủ.
Ở Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, một mặt về cấu trúc thì
quyền lực nhà nước được nhận thức, tổ chức thành các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Mặt khác, về bản chất và phương thức thực hiện thì quyền lực là thống
nhất và có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ góc nhìn khái quát, xuyên


2

suốt quá trình phát triển của nhà nước trong lịch sử, có thể gọi đây là nguyên tắc tổ
chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, nguyên tắc tổ

chức, thực hiện quyền lực nhà nước được hiến định ngay từ bản hiến pháp đầu tiên
của Việt Nam - Hiến pháp năm 1946 và luôn được kế thừa, phát triển, củng cố qua
các bản hiến pháp sau này - Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp
năm 1992. Đặc biệt, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được nhận thức và lần đầu
tiên chính thức được quy định tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001). Để tiếp tục phát huy nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước
đã được hiến định ở Việt Nam, khắc phục một trong những bất cập trong quy định
của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về nguyên tắc này là “chưa
làm sáng tỏ về tính độc lập tương đối của mỗi quyền, về sự chế ước lẫn nhau giữa
các nhánh quyền lực; vấn đề kiểm tra giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực không
bị tha hoá lạm dụng” [1, tr. 117], Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011, sau đây gọi tắt là Cương lĩnh
năm 2011) xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất;
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [11, tr. 85].
Thể chế hoá Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013 (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014), đã có sự bổ sung, phát triển nội dung mới rất
quan trọng là: “kiểm soát” việc thực hiện quyền lực nhà nước (bên cạnh sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước). Việc bổ sung, phát triển mới nguyên tắc này trong Hiến pháp năm 2013 đã
hoàn thiện một nguyên tắc cơ bản, mang tính nguyên lí, đóng vai trò là tư tưởng chỉ
đạo toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam thành nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Như vậy, từ quan điểm, nguyên


3


tắc chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền (được thể
hiện tại Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2011), quan điểm: “quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” đã được thể chế hoá
thành nguyên tắc hiến định về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam
tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 như sau:“Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây là tư tưởng chủ đạo, nền
tảng, cơ sở chính trị - pháp lí mang tính nguyên tắc để xây dựng, tổ chức bộ máy
nhà nước và thực hiện quyền lực nhân dân của nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN hiện nay. Để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, ngày 28 tháng 11 năm
2013, Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi
hành Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trong đó có yêu cầu việc sửa đổi,
bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và phải được trình Quốc hội xem xét
thông qua chậm nhất vào kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 2015).
Việc tìm hiểu, nhận thức rõ những tư tưởng, nội dung về nguyên tắc tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 như trên
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng các dự án luật về tổ chức bộ máy
nhà nước Việt Nam hiện nay. Đồng thời việc này còn có ý nghĩa góp phần nâng cao
nhận thức về Hiến pháp, bảo đảm việc tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật
được nghiêm chỉnh.
Từ những nhận thức nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
theo Hiến pháp năm 2013”, làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ
Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội cho bản thân với mong muốn được đóng
góp một phần công sức của mình vào sự nỗ lực chung nhằm nâng cao nhận thức và
triển khai thi hành Hiến pháp hiện nay.



4

2. Tình hình nghiên cứu nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước nói chung là vấn đề quan
trọng, hết sức phức tạp, đóng vai trò làm nguyên lí, tư tưởng chỉ đạo, định hướng
cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Đặc biệt, trong công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vấn đề nguyên tắc tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước luôn được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm. Về nguyên
tắc này, từ phương diện nghiên cứu khoa học cũng đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu, nhiều bài viết đề cập dưới các góc độ và cấp độ khác nhau. Trong đó, phải kể
đến các công trình nghiên cứu, bài viết chủ yếu sau:
- Sách chuyên khảo của TS. Lê Quốc Hùng: “Thống nhất phân công và phối
hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam” Nhà xuất bản (Nxb) Tư pháp, Hà Nội, năm
2004. Cuốn sách đề cập các vấn đề về bản chất quyền lực nhà nước, sự thống nhất
của quyền lực nhà nước và cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước theo Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
- Sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Thị Hồi: “Tư tưởng phân chia quyền
lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước”, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, năm 2005. Cuốn sách trình bày về lịch sử ra đời và phát triển tư tưởng phân
chia quyền lực nhà nước cũng như sự thể hiện và áp dụng tư tưởng này trong thực
tiễn tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam.
- Sách chuyên khảo của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung: “Sự hạn chế quyền
lực nhà nước”, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005. Cuốn sách trình bày cơ
sở lý luận và nội dung của sự hạn chế quyền lực nhà nước mà ở bất kỳ nhà nước
nào cũng phải có.
- Sách chuyên khảo của TS. Trịnh Thị Xuyến: “Kiểm soát quyền lực nhà
nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, năm 2008. Cuốn sách tập trung làm sáng tỏ vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn.

- Sách chuyên khảo của PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng: “Tổ chức và kiểm soát
quyền lực nhà nước”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, năm 2011. Cuốn sách phân tích và lí


5

giải cách thức tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các kiểu và mô hình
nhà nước khác nhau, từ đó đưa ra kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Sách chuyên khảo của GS.TS. Trần Ngọc Đường: “Phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992”, Nxb. Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội, năm 2012. Cuốn sách phân tích cơ sở lý luận của phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam và đưa ra những đề xuất giải
pháp tiếp tục hoàn thiện góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
- Sách chuyên khảo của TS. Cao Anh Đô: “Phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam”,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2013. Cuốn sách tập trung nghiên
cứu nội dung phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Trong cuốn sách chuyên khảo của Viện Chính sách công và pháp luật:
“Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013”, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, 2014, TS. Đặng Minh Tuấn với chuyên luận:
“Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013” (tr. 672 691), có nội dung đề cập những điểm mới về thể chế hoá nguyên tắc phân công,
phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên san
Kinh tế - Luật, số 1 năm 2003 của tác giả Bùi Ngọc Sơn với nhan đề “Học thuyết
phân chia quyền lực - Một cách tư duy về quyền lực nhà nước” (tr.27 - 36). Nội
dung bài viết nêu lên khía cạnh tư duy của việc không áp dụng học thuyết phân
quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
- Bài viết đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5 năm 2007 (tr. 3- 8)
của tác giả TS. Nguyễn Minh Đoan có nhan đề: “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nội dung bài viết nêu một số nhận
thức cơ bản về nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và


6

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
- Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 (266) năm 2014 (tr.
3 - 11) của tác giả PGS.TS. Đinh Xuân Thảo với nhan đề: “Nguyên tắc tổ chức bộ
máy nhà nước trong Hiến pháp 2013”. Nội dung bài viết nêu quan điểm của Đảng
và Nhà nước Việt Nam về sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước
và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp mới.
- Bài viết đăng trên Đặc san của Tạp chí luật học: “Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) - Bước tiến mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam”
(tr. 34 - 45) của TS. Tô Văn Hoà với nhan đề: “Mối quan hệ giữa các cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013”. Nội dung bài viết nêu một số khái niệm cơ
bản về quyền hành pháp, quyền tư pháp, cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ
quan thực hiện quyền tư pháp, hai nguyên tắc tác động tới mối quan hệ giữa các cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan
hành pháp và cơ quan tư pháp trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp năm 2013.
- Bài viết đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 224 (9/2014, tr. 14 - 18)
của PGS.TS. Lương Thanh Cường với nhan đề: “Tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước trong Hiến pháp” có nội dung làm rõ, khẳng định nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực nhà nước, nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” làm rõ sự xác lập nguyên tắc phân định thẩm

quyền giữa Chính phủ với chính quyền địa phương.
- Bài viết đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3 (2015, tr. 3 - 11) của
GS.TS. Nguyễn Đăng Dung có nhan đề:“Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền theo tinh thần của Hiến
pháp năm 2013”. Nội dung bài viết làm rõ sự thống nhất, kiểm soát quyền lực nằm
ngay trong sự phân công, phân nhiệm, tức là phân quyền và ở bất kỳ việc tổ chức


7

nhà nước theo mô hình phân quyền nào, thì hành pháp vẫn can thiệp sang lĩnh vực
lập pháp, thậm chí lập pháp là nhu cầu của hành pháp.
- Trên Tạp chí cộng sản điện tử, truy cập ngày 18/6/2014 tại địa chỉ
có bài viết của GS.TS.
Trần Ngọc Đường “Về quyền lực nhà nước và sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp hiện nay”. Bài có nội dung làm rõ về mặt lý luận tính thống nhất của quyền
lực nhà nước và việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- TS. Nguyễn Văn Cương (2014) có bài viết: “Quyền hành pháp theo Hiến pháp
năm 2013: Một số phân tích và bình luận”, Bộ Tư pháp, truy cập ngày 25/8/2014 tại địa
chỉ: />aspx?ItemID=5264. Bài viết trình bày các quan niệm về quyền hành pháp của
Montesquieu, của các nhà nghiên cứu luật học ở Việt Nam và đưa ra những gợi mở
về quyền hành pháp từ góc độ so sánh.
Trên thế giới, nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước là vấn đề
được giới học giả chú trọng từ lâu và đã trở thành vấn đề có bề dày lịch sử với nhiều
công trình nghiên sâu sắc mang tính kinh điển phải kể đến như:
- Những luận cương liên bang của Hoa Kỳ được nêu trong cuốn sách tham
khảo của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội “Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp
hiến - Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài” (tr. 73 - 210), Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, năm 2012. Từ góc độ triết học và chính trị học, giá trị nổi bật của

những Luận cương Liên bang đã phân tích về những nguyên tắc tổ chức và cách
thức giám sát quyền lực nhà nước trong chính thể cộng hoà.
- Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của thời kỳ khai sáng, mở
đường cho cách mạng Pháp và Tuyên ngôn nhân quyền Pháp năm 1789 đó là Khế
ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau và được GS. Dương Văn Hoá dịch, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, năm 2014. Tác phẩm là bản họa đồ xây dựng một chính quyền “của


8

dân, do dân và vì dân”. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ tập trung bàn về vấn đề một chính
quyền do dân làm chủ, không bàn luận sâu về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước.
- Cuốn sách “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu do Hoàng Tham Đạm
dịch được Nxb. Giáo dục - Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Hà Nội, năm 1996. Trong tác phẩm này, Montesquieu phân tích, luận giải
quyền lực nhà nước phải được phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp và được giao cho các cơ quan nhà nước độc lập. Tuy mô hình nhà nước pháp
quyền là hình mẫu chung cho các kiểu nhà nước hướng tới nhưng tùy từng điều
kiện cụ thể, phù hợp với tình hình của mỗi quốc gia, nguyên tắc tổ chức, thực hiện
quyền lực nhà nước có những khía cạnh khác nhau.
Như vậy, nhìn chung những vấn đề liên quan tới nguyên tắc tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước, từ lâu đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Các công trình trên đã đề cập vấn đề tổ chức, thực hiện quyền lực nhà
nước từ nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau như triết học, chính trị học, lí luận nhà
nước và pháp luật, luật hiến pháp… Các công trình, bài viết của các tác giả trong và
ngoài nước đã tập trung làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa nguyên tắc căn bản trong tổ
chức, thực hiện quyền lực nhà nước theo chế độ dân chủ, pháp quyền, bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hiệu lực, hiệu quả thực hiện quyền lực
nhà nước. Nhưng đối với mỗi quốc gia, dân tộc tùy theo điều kiện, trình độ phát

triển kinh tế, chính trị - xã hội, truyền thống văn hoá, nguyên tắc tổ chức, thực hiện
quyền lực nhà nước lại có những nét biểu hiện riêng. Mặt khác, trên nền tảng những
giá trị chung được thừa nhận, nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước
cũng được nhận thức, kế thừa, phát huy và phát triển lên những tầm cao mới phù
hợp với yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc ở các giai đoạn, thời kỳ lịch sử
khác nhau. Do đó, nội dung tư tưởng giá trị thực tiễn của nguyên tắc tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước không phải là “nhất thành bất biến” mà luôn được bồi đắp,
ngày càng hoàn thiện hơn. Kết quả nghiên cứu từ những công trình, bài viết đó tạo
thành hệ thống tri thức lí luận và thực tiễn vô cùng phong phú, sâu sắc, là cơ sở cho


9

học viên học tập, kế thừa khi thực hiện đề tài luận văn này. Tuy nhiên, ở Việt Nam
trong điều kiện hiện nay, từ một tư tưởng, chủ trương, đường lối chính trị của Đảng
với tư cách là đảng cầm quyền, nguyên tắc Hiến pháp về tổ chức, thực hiện quyền
lực nhà nước theo quy định mới trong Hiến pháp năm 2013 vẫn cần tiếp tục được
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, cụ thể và sâu sắc hơn nhằm làm rõ những tư
tưởng hiến định, qua đó có thể cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch
định chính sách, cụ thể hoá thành các quy định ở các đạo luật quan trọng về tổ chức
và hoạt động của các thiết chế thuộc bộ máy nhà nước. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ
luật học và từ góc độ chuyên ngành luật hiến pháp, luận văn này cố gắng tập trung
làm rõ cơ sở lí luận, lịch sử, kinh nghiệm các nước cũng như những khía cạnh cụ
thể trong nội dung các nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước theo quy
định của Hiến pháp năm 2013 một cách có hệ thống, toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Dựa trên các quy định và tinh thần, tư tưởng của Hiến pháp năm 2013, luận
văn làm rõ những tư tưởng mang tính chỉ đạo nội dung của nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và việc đưa ra ý

kiến đề xuất về phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá Hiến pháp,
góp phần hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Để đạt được mục đích đó,
luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực
nhà nước được quy định trong Hiến pháp;
Thứ hai, phân tích làm sáng tỏ những khía cạnh trong nội dung của nguyên
tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước theo tinh thần quy định của Hiến pháp
năm 2013;
Thứ ba, đề xuất ý kiến về phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể
hoá nguyên tắc Hiến pháp nhằm xây dựng một số quy định về tổ chức bộ máy nhà
nước ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 2013.


10

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, từ góc độ chuyên ngành luật hiến
pháp, luận văn tập trung nghiên cứu nội dung nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền
lực nhà nước ở Việt Nam theo các quy định của Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt làm
rõ những nội dung nguyên tắc này trong Hiến pháp năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật macxit; tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp khi làm rõ những vấn đề về khái quát quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức,
thực hiện quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam và một số nước trên
thế giới.
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu khi tìm hiểu
nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới để từ

đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam. Phương pháp lịch sử cũng được tác giả
luận văn sử dụng khi đề cập quá trình phát triển của nguyên tắc tổ chức, thực hiện
quyền lực nhà nước ở Việt Nam, trải qua quá trình lịch sử lập hiến từ khi có bản
Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946 tới nay. Tác giả luận văn còn sử dụng
phương pháp diễn dịch, quy nạp khi làm rõ nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực
nhà nước ở Việt Nam trong Hiến pháp năm 2013.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, từ góc độ chuyên ngành luật hiến pháp,
luận văn đề cập một cách có hệ thống, toàn diện cơ sở lý luận, phân tích làm rõ
những nội dung cũng như đề xuất một số ý kiến về phương hướng nâng cao nhận
thức, tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay theo Hiến pháp năm 2013.
Luận văn cũng đóng góp một phần vào việc nâng cao nhận thức, triển khai
thi hành các chế định của Hiến pháp như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân
(TAND)… theo Hiến pháp năm 2013. Triển khai xây dựng và thi hành các luật về


11

tổ chức, hoạt động của các thiết chế thuộc bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Chính
phủ (TCCP), Luật tổ chính quyền địa phương…
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm có 2 chương, với 5 mục, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, gồm:
i) Khái quát về nguyên tắc tổ chức, thực quyền lực nhà nước;
ii) Nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước theo Hiến pháp một số
nước và kinh nghiệm cho Việt Nam;

iii) Quá trình hình thành, phát triển nguyên tắc tổ chức, thực quyền lực nhà
nước theo Hiến pháp Việt Nam.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013 và phương hướng
nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá.
i) Nội dung nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013;
ii) Phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo Hiến
pháp năm 2013.


12

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC LÀ
THỐNG NHẤT, CÓ SỰ PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP, KIỂM SOÁT
GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC
QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP
1.1. Khái quát về nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước
1.1.1. Khái niệm và cơ cấu quyền lực nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm quyền lực nhà nước
Cho đến nay, thuật ngữ “quyền lực” đã có nhiều định nghĩa khác nhau, tuy
nhiên vì đứng từ những góc độ khác nhau nên cũng chưa có định nghĩa nào được
coi là hoàn toàn đầy đủ và chính xác. Trong Từ điển Tiếng Việt có định nghĩa
quyền lực là: “Quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức

mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy” [54, tr. 815]. Quyền lực được hình
thành bởi hai yếu tố “quyền” và “lực”, trong đó quyền là: “điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Những điều do địa vị
hay chức vụ mà được làm” [54, tr. 815] và lực là: “sức, sức mạnh” [54, tr. 597].
Như vậy, quyền lực đó là sức mạnh được thừa nhận của chủ thể này đối với chủ thể
khác phải thực hiện theo ý chí của mình. Trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào
cũng có quyền lực. Trong chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực hoà nhập
cùng cộng đồng, tất cả mọi người trong xã hội đều có quyền ngang nhau. Lúc này,
nhà nước chưa xuất hiện và quyền lực nhà nước cũng chưa có.
Nhà nước ra đời khi nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy được thay thế bởi nền
kinh tế sản xuất - xã hội - trao đổi và xã hội phân chia thành những giai cấp mâu
thuẫn đối kháng không thể điều hoà được. Lúc này, nhà nước là tổ chức quyền lực
chính trị đặc biệt đại diện cho toàn xã hội mới ra đời để điều hoà các mâu thuẫn đó xuất hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, quyền lực nhà nước là “yếu tố” hình thành
nên bản chất nhà nước, là “sản phẩm” cần thiết và tất yếu của nhà nước. Tuy nhiên,
quyền lực nhà nước là của ai, do ai (nguồn gốc, chủ nhân của quyền lực nhà nước)
và phục vụ cho lợi ích của ai (mục đích của quyền lực nhà nước) luôn là những vấn


13

đề hết sức quan trọng. Ở kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến thì quyền
lực nhà nước thuộc về một giai cấp (nhà nước chủ nô, quyền lực nhà nước thuộc về
giai cấp chủ nô; nhà nước phong kiến, quyền lực nhà nước phong kiến thuộc về giai
cấp địa chủ phong kiến). Đến kiểu nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước đã có
những đặc trưng, điển hình và sự tiến bộ vượt bậc so với quyền lực trong các kiểu
nhà nước trước. Đó là sự ra đời và phát triển của nền dân chủ tư sản và hiến pháp,
với bản hiến pháp thành văn đầu tiên của Hoa Kỳ vào năm 1787. Về mặt hiến định,
hầu hết các nhà nước tư sản đều khẳng định tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ
nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân và phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, do ưu thế về kinh tế mà giai cấp tư sản đã thể hiện, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Cuối cùng là kiểu nhà nước XHCN gắn với sự ra đời các
bản hiến pháp của các nước XHCN mà bắt đầu là Hiến pháp của Cộng hoà Xô viết
XHCN Liên bang Nga năm 1918. Trong nhà nước XHCN, nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước, chủ thể đó chiếm số đông trong xã hội. Chủ nghĩa Mác cho
rằng quyền lực nhà nước bắt nguồn từ quyền lực nhân dân. Trong các nhà nước tiến
bộ, nhân dân trao quyền lực của mình cho nhà nước thông qua các văn bản quy
phạm pháp luật, mà đầu tiên và quan trọng nhất đó là thông qua hiến pháp. Do đó,
quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Từ
những phân tích trên có thể hiểu trong xã hội dân chủ, quyền lực nhà nước là quyền
lực của nhân dân trao cho nhà nước thông qua hiến pháp, nhằm bảo vệ, bảo đảm
thực hiện các quyền con người, quyền công dân [20, tr. 13].
1.1.1.2. Cấu trúc của quyền lực nhà nước
Từ góc độ triết học có thể khẳng định bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là
sự thống nhất giữa mặt nội dung và hình thức. Quyền lực nhà nước cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Nội dung của quyền lực nhà nước là ý chí của lực lượng lãnh đạo
xã hội, đó là ý chí của một giai cấp, của liên minh giai cấp và theo phân tích ở trên
trong xã hội dân chủ thì nội dung của quyền lực nhà nước là ý chí chung của nhân
dân. Hình thức quyền lực nhà nước là toàn bộ cách thức, phương pháp tồn tại, thể
hiện quyền lực, cấu trúc quyền lực, cách thức tổ chức, thực hiện quyền lực nhà


14

nước. Cách thức tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước chính do ý chí của nhân dân
là chủ thể quyền lực nhà nước quyết định. Hay nói cách khác, việc tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước phù hợp với ý chí của nhân dân sẽ thúc đẩy, phát triển một
xã hội dân chủ. Do đó, việc xác định cấu trúc của quyền lực nhà nước là vấn đề hết
sức quan trọng và cần thiết.
Quyền lực nhà nước thể hiện bản chất, vai trò của nhà nước đối với đời sống
và sự phát triển của xã hội. Trong xã hội hiện đại, nhà nước nói chung và cụ thể là

quyền lực nhà nước đóng vai trò hết sức cần thiết và ngày càng quan trọng, không
thể nói đến sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc cũng như cộng đồng
quốc tế nếu thiếu đi vai trò của quyền lực nhà nước. Trong mỗi nhà nước, quyền lực
nhà nước được biểu hiện cụ thể ở khả năng, sức mạnh của hệ thống các cơ quan, tổ
chức nhà nước, hiệu lực của pháp luật và những nguyên tắc vận hành của hệ thống
đó. Tất cả tạo nên một cơ chế tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Cơ chế đó
được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại và
được cụ thể hoá ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và chủ
quan ở mỗi thời kỳ phát triển.
Quan niệm về tổng thể cấu trúc quyền lực nhà nước, ngay từ trước Công
nguyên, các nhà tư tưởng lớn như Platon và Aristote đã nhắc tới phân quyền, nhưng
chỉ dừng lại ở quan niệm về một sự phân công lao động và phân nhiệm trong bộ
máy nhà nước. Cho đến tận thế kỷ thứ XVI - thế kỷ thứ XVIII, J. Locke và S.L.
Montesquieu đã phát triển các tư tưởng này thành học thuyết "phân chia quyền lực”.
Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự”, J. Locke
phân chia quyền lực thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên hợp.
Trong đó, quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về nhà vua;
quyền liên hợp là nhằm để xử sự với các sức mạnh ngoại quốc, để tuyên bố chiến
tranh, để áp dụng những quy tắc của pháp luật quốc tế công và tư, quyền này thuộc
về nhà vua. Như vậy, theo quan điểm J. Locke, quyền lực nhà nước cần thiết phải
chia thành các quyền khác nhau, để có sự chuyên môn hóa của mỗi quyền. Tuy
nhiên, ông lại cho rằng quyền hành pháp, quyền liên hợp đều thuộc về nhà vua, điều


15

này ảnh hướng tới sự cân bằng quyền lực và không tạo ra hệ thống kiềm chế và đối
trọng; Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu phân chia quyền lực nhà
nước thành quyền lập pháp (thuộc nghị viện), quyền hành pháp (thuộc chính phủ)
và quyền tư pháp (thuộc toà án). Sự phân chia nhằm mục đích kiểm soát quyền lực,

tránh lộng quyền và lạm quyền. Thuyết phân quyền của Montesquieu được ủng hộ
và áp dụng phổ biến ngày nay ở nhiều nước trên thế giới và cả ở Việt Nam. J.J.
Rousseau cho rằng “Quyền tối thượng không thể chuyển nhượng được, nó cũng
không thể bị phân chia” [28, tr. 60]. Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là biểu
hiện quyền lực tối thượng của nhân dân. Chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về
nhân dân, quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân. Như vậy, kế thừa các quan
điểm của Montesquieu về phân chia quyền lực và J.J. Rousseau về quyền lực nhà
nước thống nhất ở nhân dân, khẳng định rằng ở bất kỳ nhà nước nào đều nằm trong
tay một giai cấp hay liên minh giai cấp nhất định. Mặt khác, để hạn chế sự lạm dụng
quyền lực, độc đoán, chuyên quyền của các tổ chức cũng như cá nhân của các nhà
cầm quyền, trong mọi xã hội đều phải hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực sao
cho phù hợp với từng nhà nước cụ thể. Trong xã hội hiện đại, quyền lực nhà nước
bao gồm 3 nhánh quyền lực chủ yếu là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tùy thuộc
vào hình thức chính thể các quyền này được trao cho các cơ quan tương ứng. Trong
các nhà nước có chính thể cộng hòa dân chủ, quyền lập pháp thuộc về nghị viện hay
quốc hội, quyền hành pháp thuộc về người đứng đầu nhà nước hay đứng đầu chính
phủ, còn quyền tư pháp thuộc về toà án. Cơ cấu quyền lực nhà nước gồm các quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được hiến pháp rất nhiều quốc gia trên
thế giới quy định và được Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013
quy định tại khoản 3 Điều 2:“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”.


16

1.1.2. Khái niệm và nội dung các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
1.1.2.1. Khái niệm và nội dung của quyền lập pháp
Thời cổ đại, Xôlông cho rằng, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ chính những
cá nhân sống trong cộng đồng. Tất cả dân chúng bầu ra những đại diện cho cộng

đồng để giải quyết những công việc chung của xã hội. Tuy nhiên, tới kiểu nhà nước
tư sản, khi mà hiến pháp thành văn xuất hiện, nghị viện ra đời và thực hiện chức
năng lập pháp. Monesquieu, đưa ra khái niệm:“quyền lập pháp, nhà vua hay pháp
quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay hủy bỏ
luật này”[12, tr. 100]; Từ điển Luật học đưa ra khái niệm quyền lập pháp là: “1.
Quyền làm luật và sửa đổi luật, hủy bỏ, bãi bỏ luật” [55, tr. 406]. Như vậy, khái
niệm quyền lập pháp chưa được nhận thức một cách sâu sắc và đầy đủ nếu như chỉ
dừng lại ở đây.
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của
quốc gia. Những người được nhân dân trao cho quyền này là những người do phổ
thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là quốc hội hay nghị viện. Thuộc tính
cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm
cho ý chí chung của nhân dân và được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ
quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu
quyết thông qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình
xử sự cho xã hội. Vì vậy, bản chất của quyền lập pháp là quyền đại diện chứ không
đồng nhất với quyền làm luật [18, 20]. Từ đó, quyền lập pháp có thể nhận thức:
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho ý chí nhân dân của một quốc gia [19].
Nội dung cốt lõi của quyền lập pháp là quyền thông qua luật. Với nội dung
như vậy, quyền lập pháp mới thực sự là duy nhất của quốc hội, vì quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền thông qua hay không thông qua một đạo luật. Trong một
nhà nước dân chủ, pháp quyền, tất cả mọi vấn đề, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều
phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Cơ quan thực hiện quyền lập
pháp đại diện cho ý chí của nhân dân, có quyền thông qua hoặc không thông qua bất
kỳ dự án luật nào phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Tuy nhiên, nguyên


17

tắc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước được đặt ra nhằm giới hạn quyền lực của

chính quyền. Do đó, chúng ta cũng phải xác định được phạm vi của quyền lập pháp.
Thông qua việc xác định phạm vi quyền lập pháp, xác định được trách nhiệm của
quyền lập pháp, kiểm soát quyền lập pháp và giúp cho quyền lập pháp được thực
hiện hiệu lực, hiệu quả.
1.1.2.2. Khái niệm và nội dung của quyền hành pháp
Hiến pháp các nước thường có quy định quyền hành pháp và quy định quyền
hành pháp được trao chủ yếu cho Chính phủ mà người đứng đầu phổ biến là Thủ
tướng hoặc Tổng thống, tuy vậy hầu như không có bản hiến pháp nào đưa ra được
khái niệm quyền hành pháp. Khái niệm hành pháp do các nhà tư tưởng cuối thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII đưa ra trong học thuyết về phân chia quyền lực nhà nước.
Theo Montesquieu, quyền hành pháp lrưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
(khoản 4 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về
những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99); Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản
pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các
văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật (Điều
100); Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu
cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự phiên họp của
Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan (Điều 101).
* Kiểm soát đối với quyền tư pháp
Quốc hội kiểm soát thực hiện quyền tư pháp từ phương diện tổ chức hoạt
động: Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của TAND (khoản 6 Điều 70); kiểm
soát nội dung hoạt động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của TAND: thực hiện
quyền giám sát tối cao, bãi bỏ văn bản của TAND tối cao, VKSND tối cao trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; UBTV Quốc hội bãi bỏ văn bản của
TAND tối cao, VKSND tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của UBTV Quốc hội;


54


kiểm soát đối với cá nhân thực hiện quyền tư pháp: Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao; phê chuẩn đề nghị bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao; đại biểu Quốc hội chất
vấn, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn;
không được sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp,
không có sự đồng ý của UBTV Quốc hội thì không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại
biểu Quốc hội (Điều 81)…
Chính phủ thống nhất nền quản lý hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về
cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công
tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy nhà nước… cũng là một phương thức kiểm soát đối với cơ
quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, việc thông qua lập pháp ủy quyền, cơ
quan hành pháp có thể ban hành khung pháp luật để giới hạn phạm vi tùy tiện xem
xét của các cơ quant ư pháp khi xét xử một vụ án cụ thể có thể liên quan. Tuy nhiên,
cũng thấy rằng hiện nay ở Việt Nam việc cán bộ trong cơ quan thực hiện quyền tư
pháp phải sinh hoạt cấp ủy bên cơ quan hành chính ảnh hưởng ít nhiều tới tính độc
lập của cơ quan tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 quy định điểm mới rất quan trọng là việc Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND tối cao phải tuyên
thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp (khoản 7 Điều 70) thể hiện
nâng cao ý thức trách nhiệm và hiệu ứng xã hội đối với những người đứng đầu các
cơ quan tối cao của Nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. Đó cũng là sự kiểm soát và nâng cao niềm tin của nhân dân, xã hội đối với
những người đứng đầu các cơ quan nhà nước tối cao của Nhà nước.
Hiến pháp năm 2013, bổ sung thêm hai chế định hiến định độc lập là Kiểm
toán nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm toán việc quản lí, sử dụng tài chính, tài
sản công của các cơ quan nhà nước (khoản 1 Điều 118) và Hội đồng bầu cử quốc
gia có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và hướng dẫn công
tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (khoản 1 Điều 117), trong đó có



55

những người đứng đầu hoặc là thành viên các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Về kiểm soát hai thiết chế hiến định độc lập, chương X của Hiến pháp năm
2013 đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, như:
thực hiện quyền giám sát tối cao, xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử quốc
gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước,
người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn danh sách thành
viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Hội đồng bầu cử Quốc gia v.v.
Hiến pháp năm 2013 quy định việc phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa
trung ương và địa phương, HĐND và UBND là một thể thống nhất (dưới tên chung
là chính quyền địa phương), có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước (Điều 111). Trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Hiến
pháp mới đã quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị ví, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho
chính quyền địa phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại
địa phương, vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi
nhiệm vụ của cơ quan này. Sự kiểm soát từ phía cơ quan lập pháp đối với chính
quyền địa phương được thể hiện qua việc UBTV Quốc hội có quyền giám sát,
hướng dẫn hoạt động của HĐND; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Từ phía cơ quan hành pháp, bên cạnh chức năng,
nhiệm vụ lãnh đạo công tác của UBND các cấp, Chính phủ có quyền kiểm tra
HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên... Thủ tướng
Chính phủ có quyền đình chỉ, bãi bỏ các văn bản pháp luật của UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng
thời đề nghị UBTV Quốc hội bãi bỏ.


56

Những nội dung, tư tưởng về nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được thể hiện nhất quán trong
đường lối, quan điểm và thực tiễn xây dựng thể chế chính trị ở Việt Nam. Trong
giai đoạn hiện nay, tư tưởng này đã và đang phát huy được vai trò trong tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới theo
Hiến pháp năm 2013.
2.2. Phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp theo Hiến pháp năm 2013
“Hiến pháp là đạo luật gốc, là luật cơ sở vì vậy nó là “luật mẹ”, từ các quy
định của nó hàng loạt các luật và các văn bản pháp luật khác nhau ra đời vì vậy có
thể coi hiến pháp là tinh túy của pháp luật và “tinh thần pháp luật” của một quốc
gia” [51, tr. 46]. Để nâng cao nhận thức và hiện thực hoá “tinh túy”, “tinh thần
pháp luật” của nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp theo Hiến pháp năm 2013, tác giả luận văn xin được nêu một số
ý kiến đề xuất những phương hướng nâng cao nhận thức, tiếp tục cụ thể hoá nguyên
tắc như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về Hiến pháp, nội dung nguyên tắc tổ chức,
thực hiện quyền lực nhà nước.
Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp. Chỉ khi đội ngũ,

cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể các tầng lớp nhân dân
hiểu sâu sắc về Hiến pháp thì đây sẽ là cơ sở bảo đảm Hiến pháp được thống nhất
trong nhận thức và thực thi có hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể các tầng lớp nhân
dân, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài về Hiến pháp là nội dung có ý nghĩa rất


57

quan trọng. Các cơ quan nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu
quan khác tổ chức tuyên truyền sâu rộng nội dung của Hiến pháp tại cơ quan, tổ
chức, địa phương mình nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành Hiến pháp,
bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Các cơ quan thông tấn, báo chí có kế hoạch tuyên truyền
bằng nhiều hình thức thích hợp với nội dung của Hiến pháp, nhất là những điểm
mới được bổ sung; tổ chức tập huấn các báo cáo viên, tuyên truyền viên về Hiến
pháp; giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp đến mọi tầng lớp nhân
dân. Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng không
những đối với nhà nước mà cả hệ thống chính trị. Các thế lực thù địch luôn lợi dụng
để chống phá Đảng, Nhà nước. Vì thế, các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hóa,
báo chí, xuất bản, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức đảng, các nhà khoa học cần đi
đầu trong việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; góp phần tạo sức
đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân phê phán những nhận thức sai trái, lệch
lạc, mơ hồ về Hiến pháp [39].
Chỉnh lý, biên soạn lại sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng
dạy về Hiến pháp và pháp luật [39]. Hiện nay, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp và pháp luật đã và đang được xây dựng, đổi
mới theo tinh thần và nội dung Hiến pháp năm 2013 nhưng tiến độ vẫn còn chậm.
Do đó các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đào tạo, nhất là các viện nghiên cứu
về nhà nước và pháp luật và các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật cần khẩn trương sửa

đổi, bổ sung, cập nhật các quy định mới của Hiến pháp để có kế hoạch biên soạn lại
sách giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về Hiến pháp. Mặt khác, cần đẩy
mạnh việc phổ biến, tuyên truyền Hiến pháp phục vụ công tác đối ngoại.
Tăng cường giáo dục phẩm chất chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức, thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Kiên quyết đưa ra khỏi nền công cụ những cán bộ, công chức,
viên chức yếu kém về phẩm chất đạo đức và trình độ năng lực.


×