BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------o0o----------
NGUYỄN VĂN ĐẠT
THỦ TỤC CÔNG NHẬN KẾT QUẢ HÒA GIẢI THÀNH NGOÀI TÒA ÁN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Hà Nội xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN
NGƯỜI CAM ĐOAN
HƯỚNG DẪN
PGS.TS.Nguyễn Minh Hằng
Nguyễn Văn Đạt
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
TTDS
: Tố tụng dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
BLDS
: Bộ luật dân sự
KDTM
: Kinh doanh thương mại
VIAC
: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
VADS
: Vụ án dân sự
VKS
: Viện Kiểm sát
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục yêu cầu công nhận
kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục yêu cầu công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án
9
1.2. Cơ sở Pháp luật tố tụng dân sự quy định về thủ tục công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án
16
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án
22
Chương 2: Nội dung quy định của pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
29
2.1. Yêu cầu và thụ lý đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án
29
2.2. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án
42
2.3. Phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án và giá trị pháp lý của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án
43
Chương 3: Hoàn thiện quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
53
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến yêu cầu công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong tố tụng dân sự
53
3.2. Thực trạng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện các quy định về thủ tục
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam
64
KẾT LUẬN
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động khác của cuộc sống
không tránh khỏi những tranh chấp có thể xảy ra. Lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp nào tuân thủ đúng quy định của pháp luật và có thể đảm bảo tốt nhất
quyền và lợi ích giữa các bên luôn là vấn đề quan trọng và được quan tâm. Giải
quyết tranh chấp bằng hòa giải có vai trò rất lớn trong việc bảo đảm quyền lợi giữa
các bên tham gia, bởi chính những ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp
bằng hòa giải như nhanh gọn, hiệu quả, ít tốn kém, khả năng thi hành án cao…
Thực tiễn hiện nay đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp như
phương thức ngoài tố tụng tư pháp và phương thức giải quyết theo thủ tục tư pháp,
trọng tài. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải (hòa giải
ngoài tòa án cũng như hòa giải tại tòa án) có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ
biến trên thế giới. Hòa giải thành có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự
nguyện, tự giác thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc
phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trong quá trình thi hành
án. Trên thực tế, tại Việt Nam, trước thời điểm BLDS 2015, BLTTDS 2015 được
ban hành, chế định hòa giải ngoài Tòa án đã được quy định trong Luật hòa giải ở
cơ sở, Luật Đất đai, Bộ luật hàng hải…, Luật Thương mại 2005, Qui tắc hòa giải
của Trung tâm Trọng tài Quốc Tế Việt Nam (VIAC)... Tuy nhiên, Pháp luật Việt
Nam hiện hành còn thiếu rất nhiều những quy định pháp lý cần thiết để phát huy
vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp, đặc biệt là các tranh chấp trong
thương mại như: điều kiện hòa giải, trình tự, thủ tục hòa giải, các vấn đề liên quan
đến lựa chọn hòa giải viên, tiêu chuẩn hòa giải viên, giá trị pháp lý của thỏa thuận
hòa giải thành….Đây là những vấn đề cần được phân tích, làm rõ để từ đó có
những đề xuất xây dựng chế định hòa giải cụ thể, chi tiết trong việc giải quyết
tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng.
2
Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật và
các nước Đông Nam Á, phương thức hòa giải ngoài Tòa án được nhiều thương
nhân áp dụng khi gặp bất đồng, tranh chấp trong quan hệ thương mại. Nhiều tổ
chức quốc tế đó ban hành những quy tắc hòa giải với những quy định phù hợp,
hiệu quả được các chủ thể kinh doanh ưu tiên sử dụng. Đặc biệt đối với hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ - là một trong những hệ thống pháp luật đề cao vai trò của các
phương thức giải quyết thay thế. Hoạt động hòa giải tại Hoa Kỳ phát triển rộng rãi
trong các thập kỷ trước, nhưng chỉ kể từ khi Đạo luật hòa giải thống nhất (Uniform
Mediation of American - UMA) năm 2001 được thông qua, hoạt động hòa giải mới
chính thức được công nhận như một phương thức giải quyết tranh chấp chuyên
nghiệp.
Trong bối cảnh BLTTDS năm 2015 được ban hành và bắt đầu có hiệu lực kể
từ ngày 1/7/2016 với việc lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của
Pháp luật tố tụng ghi nhận thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án. Việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện cả về cơ sở lý luận của việc
pháp luật ghi nhận, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này
và dự liệu những vấn đề thực tiễn nảy sinh khi triển khai áp dụng rất có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Thủ tục công nhận kết quả
hoà giải ngoài Toà án trong tố tụng dân sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta vấn đề hoà giải trong các
vụ án dân sự không phải là vấn đề mới, đã có một số công trình nghiên cứu chuyên
sâu và có hệ thống về chế định hòa giải, nhưng hầu hết là các công trình được
nghiên cứu về thủ tục hòa giải trong tố tụng dân sự có thể điểm xuyết tổng quan
một số công trình như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự
3
Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà nội, năm 2002. Luận văn thạc sỹ Luật
học: “Thủ tục hòa giải vụ việc hôn nhân gia đình”, Trần Văn Duy, khoa Luật Đại
học Quốc gia, năm 2009. Một số các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như:
“Hoà giải và tự thoả thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động” Phan Hữu
Thư, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/1999; “Hoà giải và tự thoả thuận trong tố
tụng dân sự, kinh tế và lao động”, Nguyễn Đình Cung, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 2/1999; “Hoà giải - Một trình tự quan trọng trong việc giải quyết các vụ án
kinh tế”, Đào Xuân Lan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 3/1999; “Hoà giải tranh
chấp lao động trong giai đoạn tiền tố tụng - một số vấn đề đặt ra và hướng hoàn
thiện”, Nguyễn Văn Bình, Tạp chí Nhà nước pháp luật, Viện Nhà nước và pháp
luật, số 3/2006,…
Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái
quát về từng khía cạnh của thủ tục hòa giải, tiếp cận dưới một vài góc độ của thủ
tục hòa giải tiền tố tụng, thủ tục hòa giải theo quy định của Pháp luật tố tụng dân
sự. Đến BLTTDS 2015, lần đầu tiên thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
ngoài Tòa án chính thức được pháp điển trong luật. Quá trình nghiên cứu xây dựng
bổ sung quy định mới của Pháp luật về vấn đề này cũng có một số các công trình
nghiên cứu sau:
- Bài viết về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án từ dự thảo Bộ
luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, của tác giả Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí Nội chính số
28/2015. Kết quả nghiên cứu xác định kết quả hòa giải của cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ hòa giải theo quy định tại Điều 381 Dự thảo BLTTDS và đề xuất nên bỏ
quy định giới hạn chỉ kết quả hòa giải của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ hòa giải
theo quy định của pháp luật thì cá nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền công nhận
hòa giải ngoài Tòa án. Nghiên cứu về điều kiện để được công nhận kết quả hòa
giải ngoài Tòa án và trao đổi xung quanh việc bổ sung quy định về thủ tục công
4
nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án theo quy định tại Điều 384 Dự thảo BLTTDS.
- Bài viết về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án tong Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Oanh, trên trang:
Bài viết
đề cập đến những nội dung chính về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành
ngoài Tòa án trong Chương XXXIII Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như (i) về
công
nhận
kết
quả
hòa
giải
thành
ngoài
Tòa
án
theo quy định tại Điều 416 BLTTDS 2015; (ii) Điều kiện công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra những quy định cơ bản của
BLTTDS năm 2015 về đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án, về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
- Bài viết về “Làm rõ quy định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án” của tác giả Thu Trang trên trang:
Tác giả nghiên cứu trao đổi về
điều kiện để được công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án theo quy định tại khoản
3 Điều 411 Dự thảo là “không có tranh chấp sau khi có kết quả hòa giải”. “Có
giám đốc thẩm kết quả hòa giải hay không?” Kết quả nghiên cứu đã tổng hợp được
một số ý kiến khác nhau từ các chuyên gia và đề xuất quan điểm nghiên cứu của
mình.
- Bài viết về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án nhân
dân” của tác giả Nguyễn Văn Tiến trong cuốn Bình luận những điểm mới trong bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 của NXB Hồng Đức, do PGS.TS Nguyễn Thị Hoài
Phương chủ biên. Với bài viết này, tác giả chỉ nêu lại những nội dung cơ bản về
thủ tục yêu cầu công nhận hòa giả thành ngoài Tòa án theo quy định tại BLTTDS
năm 2015.
Có thể nói, các bài viết mới phần nào đề cập đến về một số khía cạnh pháp lý
về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Do các quy định của
5
Pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này mới có hiệu lực, chưa có quá trình đánh giá
tổng kết vì vậy tác giả chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu một
cách sâu sắc và đầy đủ về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án. Với tình hình trên, đề tài “Thủ tục công nhận kết quả hoà giải ngoài Toà
án trong tố tụng dân sự”, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ
một cách chuyên sâu, toàn diện và đầy đủ hơn, đảm bảo được tính logíc, hệ thống,
không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện các mục đích:
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục yêu cầu công nhận
kết quả hoà giải thành ngoài Tòa án trong tố tụng dân sự. Tìm hiểu thực trạng pháp
luật điều chỉnh về vấn đề này.
Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chưa hợp lý trong quy định của Pháp
luật tố tụng dân sự về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hoà giải thành ngoài Tòa
án, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục tiêu này, Luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu và phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm, cơ sở của việc Pháp
luật tố tụng Việt Nam ghi nhận về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hoà giải
thành ngoài Tòa án để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục này
trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam;
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của Pháp luật tố tụng dân
sự về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hoà giải thành ngoài Tòa án.
6
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn pháp luật về thủ tục yêu cầu công nhận kết
quả hoà giải thành ngoài Tòa án; chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn thiếu
sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật
về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hoà giải thành ngoài Tòa án, đồng thời đề ra
các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu nội dung các quy định của Pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hoà
giải thành ngoài Tòa án và tìm hiểu thực trạng pháp luật về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, không xem
xét theo thủ tục đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Phần thực tiễn áp dụng
do Luật vừa có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2016 nên chưa thể có những bản án, quyết
định hay bất kỳ số liệu cụ thể nào cho việc tổng kết đánh giá. Vì vậy, tác giả chú
trọng nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật và đề xuất những hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về quy định này.
5.
Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Thứ nhất, khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của việc pháp luật ghi nhận về
thủ tục yêu cầu công nhận kết qua hòa giải thành ngoài Tòa án trong Pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam là gì?
Thứ hai, nội dung các quy định của BLTTDS Việt Nam hiện hành về thủ tục
yêu cầu công nhận kết qua hòa giải thành ngoài Tòa án như thế nào? Những thiếu
sót, bất cập, hạn chế đối với nội dung cụ thể của chế định này trong BLTTDS
2015.
Thứ ba, trên cơ sở nhận thức các quy phạm pháp luật và thực trạng pháp luật
cần những giải pháp cụ thể nào đề xuất cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng
7
dẫn cụ thể về thủ tục yêu cầu công nhận kết qua hòa giải thành ngoài Tòa án trong
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
6.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng Bộ luật tố
tụng dân sự.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu như phương pháp phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, qui nạp, khảo sát
thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn,... nhằm làm
sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. Trong đó:
- Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng như là một phương pháp chủ
đạo nhằm để đảm bảo tính mạch lạc, tính logic khi triển khai các nội dung đề tài.
- Phương pháp so sánh được phát huy tối đa để chỉ ra những điểm nổi bật,
khác biệt của thủ tục yêu cầu công nhận kết qua hòa giải thành ngoài Tòa án so với
các thủ tục việc dân sự khác.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các quy định, ưu và
khuyết điểm về thủ tục công nhận kết qua hòa giải thành ngoài Tòa án nhằm đưa ra
những tổng kết quan trọng liên quan đến vấn đề này.
Ngoài ra, tác giả sử dụng đan xen giữa các phương pháp trên trong để tạo tính
mạch lạc, dễ hiểu, dễ tiếp cận trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này.
7.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này luận văn góp phần làm sáng tỏ và khẳng
định rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản, về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu đồng thời
8
làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Từ đó, góp phần vào việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp nói chung và về thủ tục công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án nói riêng trong TTDS Việt Nam.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các học viên, những
người quan tâm nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến thực tiễn áp dụng pháp
luật về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong TTDS
Việt Nam.
8.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án.
Chương 2: Nội dung quy định của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ
tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật quy định về thủ tục yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC YÊU CẦU
CÔNG NHẬN KẾT QUẢ HÒA GIẢI THÀNH NGOÀI TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án
1.1.1. Khái niệm thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án
Từ điển Luật học định nghĩa hòa giải (conciliation) là “sự can thiệp, sự làm
trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh
chấp nhằm thuyết phục họ giàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ. Việc giải
quyết tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập)”1. Khoản 1
Điều 2 Luật Hòa giải cơ sở năm 2013 quy định “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải
viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với
nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này.”
Bên cạnh thuật ngữ “hòa giải”, trong các văn bản pháp luật và trong các công trình
khoa học pháp lý còn có khái niệm “thương lượng hòa giải”, “trung gian hòa giải”
và “tự hòa giải”. Các khái niệm này được sử dụng như những cụm từ cố định khi
đề cập đến những phương thức giải quyết tranh chấp có tính thay thế (alternative
dispute resolution). Phương thức “hòa giải”, “thương lượng”, “trung gian” có nhiều
đặc điểm chung. Tuy nhiên sẽ không chính xác nếu khẳng định rằng “thương
lượng”, “trung gian”, “hòa giải”, “trung gian hòa giải” là tên gọi khác nhau của
cùng một biện pháp giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật. Thực tế thì
đây vẫn là những cách thức giải quyết tranh chấp khác nhau. Thương lượng là
“bàn bạc nhằm đi đến thỏa thuận một vấn đề nào đó giữa hai bên”2. Thương lượng
1
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp & NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr365
2
Hoàng Phê chủ biên (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.35
10
là “hình thức giải quyết tranh chấp theo đó, các bên tự bàn bạc để thống nhất cách
thức loại trừ các tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp đỡ của người
thứ ba”3. Với điểm nổi bật này, có thể thấy “thương lượng” và “tự hòa giải” cùng
có chung bản chất. Cơ sở để phân biệt được “thương lượng”, “tự hòa giải” và hòa
giải khi có sự xuất hiện của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Trung gian là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
ngoài tố tụng tư pháp “phương thức giải quyết tranh chấp thông qua vai trò của
người thứ ba giữ vai trò môi giới, đứng giữa để giúp hai bên tranh chấp đạt được
môt sự thỏa thuận”4. Cũng giống như phương thức hòa giải, ở biện pháp trung
gian, vai trò của người thứ ba được ghi nhận trong việc giải quyết mâu thuẫn, bất
đồng giữa các bên.
Người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ
giàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ được gọi là “Hòa giải viên”. Theo định
nghĩa của Từ điển luật học thì “Hòa giải viên là bên thứ ba được các bên tranh
chấp thỏa thuận chọn làm trung gian giải quyết tranh chấp của họ trong quá trình
hòa giải. Nhiệm vụ của hòa giải viên là làm người trung gian giúp các bên tìm
được tiếng nói chung để giải quyết tranh chấp. Trong quá trình hòa giải, hòa giải
viên không có quyền đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực hiện. ”5.
Từ việc nhận diện các khái niệm khoa học về hòa giải, có thể nói trên thực tế
tồn tại hai hình thức: hòa giải ngoài tố tụng tư pháp và hòa giải trong tố tụng tư
pháp. Hòa giải trong tố tụng là hòa giải được tiến hành tại tòa án theo các trình tự,
3
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp & NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr.45
4
Trần Văn Quảng, Phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải và trung
gian ở Việt Nam, Van Quang.doc, tr.3
5
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp & NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr.366
11
thủ tục luật định khi Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp căn cứ vào yêu cầu của các
bên theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc được tiến hành tại cơ quan trọng tài theo thủ
tục tố tụng trọng tài. Hình thức hòa giải ngoài tố tụng là hòa giải trung gian,
thường được các bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tư pháp, sử
dụng những qui trình, thủ tục do các bên tự chọn hoặc tự xây dựng. Giải quyết
tranh chấp ngoài tố tụng tư pháp nói chung và hòa giải ngoài tố tụng tư pháp nói
riêng được hiểu như là “hệ phương pháp được sử dụng trong giải quyết tranh chấp
không có sự phân chia rõ ràng hai trận tuyến, không có áp lực quá lớn với việc
thắng bại”6 . Cơ sở hình thành và tồn tại của phương thức này xuất phát từ quyền
tự do định đoạt, tự do kinh doanh, tự do lựa chọn các phương thức giải quyết tranh
chấp. Dù cho phương thức giải quyết tranh chấp nào được lựa chọn thì bản chất
của các phương thức giải quyết tranh chấp cũng luôn gánh vác một “sứ mệnh cao
cả” cần phải đạt được, đó là loại bỏ được những bất đồng, xung đột, đảm bảo tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Bên cạnh những ưu điểm đạt được, hình
thức hòa giải ngoài tố tụng tư pháp trong giải quyết tranh chấp thương mại nói
riêng và các tranh chấp nói chung cũng có những hạn chế sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nền tảng của hòa giải dựa trên sự tin tưởng, tự thỏa
thuận của các bên dẫn đến hạn chế về hiệu lực của thỏa thuận hòa giải. Ý chí, sự tự
nguyện của hai bên tranh chấp có vai trò quyết định trong suốt quá trình hòa giải.
Thỏa thuận hòa giải và quyết định của hòa giải viên không có ý nghĩa bắt buộc với
các bên. Ngay cả trong trường hợp được các bên đồng ý thì nó cũng không có giá
trị pháp lý cưỡng chế. Đây là điểm khác biệt cơ bản nhất đối với phương thức hòa
giải trong tố tụng dân sự, luôn có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quyền lực Nhà
nước. Kết quả hòa giải trong tố tụng tư pháp được công nhận bằng một quyết định
có hiệu lực pháp luật và buộc các bên có nghĩa vụ thi hành.
6
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp & NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr.13
12
Thứ hai, Với phương thức hòa giải ngoài tố tụng, khả năng không đạt được
thỏa thuận là điều có thể xảy ra (do hai bên không thống nhất được ý chí, do một
trong hai bên đơn phương chấm dứt hòa giải…). Điều này không những làm giảm
ý nghĩa của hòa giải (tốn kém thời gian và công sức của các bên), mà còn gây tổn
thương tới quan hệ của các bên trong tương lai.
Thứ ba, Vai trò của hòa giải viên rất quan trọng trong giải quyết tranh chấp
bằng hòa giải ngoài tố tụng tư pháp. Tuy nhiên việc sử dụng bên thứ ba này để giải
quyết tranh chấp nhiều khi làm cho tính bảo mật, một trong những ưu điểm của
phương thức hòa giải không được đảm bảo. Đó là khi hòa giải viên có thể vô tình
hoặc vì lợi ích của một chính bản thân hay một trong các bên đã không có những
biện pháp bảo đảm cần thiết để giữ kín những thông tin bảo mật của các bên tranh
chấp. Ngược lại, đối với biện pháp giải quyết tranh chấp bằng thương lượng không
có sự tham gia của bên thứ ba, điều này ít khi xảy ra.
Thủ tục tố tụng theo định nghĩa của Từ điển luật học “Cách thức trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lí
hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật”7. Thủ tục tố tụng dân sự được quy
định áp dụng cho việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, những
tranh chấp về kinh doanh thương mại, những tranh chấp về lao động thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Thủ tục tố tụng dân sự được tiến hành dựa trên những nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải
quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động (án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc
về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (việc
dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại Tòa án; thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
7
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp & NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr.729
13
ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị
vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có
liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng,
chính xác, công minh và đúng pháp luật. Thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án là một thủ tục thuộc về thủ tục việc dân sự.
Có thể khái quát, khái niệm về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án như sau: “Thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành
ngoài Tòa án là một thủ tục tố tụng dân sự đặc biệt thuộc đặc trưng của thủ tục
việc dân sự. Trong đó tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định công nhận hoặc
không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi có yêu cầu giải quyết
của người yêu cầu.”
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án
Thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thuộc về thủ
tục tố tụng việc dân sự. Về bản chất, việc dân sự là việc không có tranh chấp về
quyền và lợi ích hợp pháp giữa các đương sự do các đương sự đã thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp và yêu cầu Tòa án công nhận
giá trị pháp lý của sự thỏa thuận đó hoặc do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ
có một bên đương sự yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý, công nhận hoặc
không công nhận quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động. Do đó, thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có
những đặc điểm chung thủ tục tố tụng việc dân sự so với thủ tục tố tụng án và thủ
tục tố tụng rút gọn.
Thứ nhất, Thủ tục này không có nguyên đơn và bị đơn mà chỉ có người yêu
14
cầu tòa án giải quyết việc dân sự và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Người yêu cầu có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của
mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình
quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Người
có quyền, nghĩa vụ liên quan là người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự;
Thứ hai, các đương sự trong việc dân sự không có tranh chấp với nhau về
quyền và nghĩa vụ dân sự, không có sự đối kháng với nhau về mặt lợi ích.
Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự Tòa án sẽ công nhận hoặc không công
nhận một sự kiện pháp lý mà từ sự kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự
của đương sự.
Thứ tư, Thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có
trình tự giải quyết gọn gàng, đơn giản, thời gian giải quyết nhanh bằng việc mở
phiên họp công khai để xét đơn yêu cầu. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự là cơ sở pháp lý để Toà án tiến
hành giải quyết việc dân sự, bảo đảm cho việc giải quyết việc dân sự được thuận
lợi, đúng đắn, nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự trước Tòa án.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của thủ tục việc dân sự, thủ tục thủ tục yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án còn có những đặc điểm riêng cơ
bản sau:
-
Điều kiện phát sinh thủ tục, thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án phát sinh khi có thỏa thuận hòa giải hợp pháp giữa
15
các bên và có yêu cầu của một trong các bên yêu cầu Tòa án công nhận
kết quả hòa giải thành.
-
Điều kiện thực thi thủ tục, khi có đơn yêu cầu hợp pháp và yêu cầu đó
đáp ứng đủ điều kiện luật định. Hiệu lực của quyết định công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Quyết định công nhận hoặc không công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay,
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án
Các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án là cơ sở pháp lý để Toà án tiến hành giải quyết
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án của đương sự được thuận
lợi, đúng đắn, nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự trước Tòa án.
Bằng việc quy định rõ căn cứ, thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án việc, Pháp luật tố tụng dân sự
đã tạo ra hành lang pháp lý bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong việc giải quyết yêu cầu
công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, những người tham gia tố tụng thực
hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình để giải quyết việc dân sự
được chính xác và đúng đắn. Với những quy định này, nếu một trong các bên tham
gia hòa giải cố tình vi phạm thỏa thuận hòa giải đã cam kết, thì bên còn lại, thay vì
phải tiến hành khởi kiện hoặc thực hiện các thủ tục phức tạp khác tiêu tốn rất nhiều
thời gian cũng như chi phí của các bên có thể làm thủ tục yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Với thủ tục này, trường hợp Tòa án chấp nhận và
16
ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành thành ngoài Tòa án thì bên yêu cầu
chỉ còn làm thủ tục thi hành án nữa là tranh chấp đã có thể được giải quyết.
Việc Pháp luật tố tụng dân sự quy định về việc dân sự và thủ tục giải quyết
việc dân sự sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho cả Nhà nước và đương sự đó là tiết
kiệm thời gian, công sức, tiền của Nhà nước và của các đương sự. Hơn thế nữa
việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các yêu cầu của đương sự còn đem lại hiệu
quả cao cho việc xét xử, đạt được mục đích của xét xử là bảo vệ kịp thời các quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự và Toà án có điều kiện tập trung thời gian,
công sức cho việc giải quyết các vụ án dân sự khác.
Ngoài ra, với quy định trao quyền cho một thẩm phán giải quyết sẽ nâng cao
tinh thần trách nhiệm cá nhân của thẩm phán, giúp thẩm phán chủ động hơn trong
việc ra các quyết định. Đồng thời sẽ giảm được áp lực về việc tồn đọng án ở các
Toà án, tập trung được nhân lực vào giải quyết các vụ án dân sự.
Có thể nói thủ tục công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án lần đầu tiên được
ghi nhận trong BLTTDS là điểm mới quan trọng, có ý nghĩa trong việc khuyến
khích hòa giải, hạn chế tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết; bảo vệ tốt hơn quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên có thiện chí và tuân thủ đầy đủ các thỏa thuận, cam
kết trong các giao dịch dân sự. Đây là thủ tục rất quan trọng và cần thiết, phù hợp
với yêu cầu thực tiễn hiện nay và thông lệ quốc tế, nhằm khắc phục tình trạng sau
khi các bên đã hòa giải theo quy định pháp luật nhưng không có cơ quan nào tổ
chức thi hành kết quả hòa giải đó.
1.2. Cơ sở Pháp luật tố tụng dân sự quy định về thủ tục công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án
1.2.1. Quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án xuất
phát từ yêu cầu cải cách tư pháp
Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, quy định: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân
sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để
17
tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong cơ quan tư
pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ
nộp đơn đến Toà án, Toà án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc
giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; Toà án
hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Do đó, để thể chế hóa tinh
thần cải cách tư pháp về việc khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông
qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án sẽ là cơ quan hỗ trợ bằng quyết
định công nhận việc giải quyết thông qua hòa giải của các chủ thể.
Nhìn lại lịch sử tại Việt Nam, sau khi đất nước dành được độc lập (tháng
9/1945), ngay trong Điều 3 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước quy
định: “Ban tư pháp xã có quyền: Hòa giải toàn bộ các việc dân sự và thương sự.
Nếu hòa giải được, ban tư pháp có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên và
những đương sự ký” [1]. Ngày 25/09/1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp
lệnh Hợp đồng Kinh tế, trong Pháp lệnh này, lần đầu tiên hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh tế được ghi nhận trong Điều 7: "Các tranh chấp phát sinh khi thực
hiện hợp đồng kinh tế được giải quyết bằng cách tự thương lượng giữa các bên
hoặc đưa ra trọng tài kinh tế" [2]. Ngay sau khi có Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế,
ngày 10/01/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Trọng tài kinh tế, Trọng
tài kinh tế là cơ quan của Chính Phủ làm trọng tài nhằm giải quyết các tranh chấp
kinh tế. Tuy nhiên, vì Trọng tài kinh tế không phát huy được vai trò trong thời kỳ
chế độ kế hoạch hóa nền kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh không nhiều, các tranh chấp lại phần lớn do cơ quan chủ quản, cấp trên
đứng ra dàn xếp giải quyết. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của hoạt động kinh tế,
Tòa Kinh tế được thành lập trên cơ sở Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế ngày 16/03/1994, Trọng tài kinh tế chấm dứt sự tồn tại của mình.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 đã ghi nhận hòa giải là một trong
18
những biện pháp đầu tiên để các chủ thể lựa chọn khi có tranh chấp thương mại
xảy ra: “Các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc
giữa các bên liên doanh cũng như các tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh với các doanh
nghiệp Việt Nam trước hết phải được giải quyết thông qua hòa giải...”. Khi Luật
Thương mại 1997 ra đời, tiếp tục khẳng định hòa giải là một trong những phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại. Lần đầu tiên, luật đã ghi nhận các bước của
quá trình giải quyết tranh chấp thương mại và hòa giải viên có thể là tổ chức, cá
nhân cụ thể: “Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận chọn một cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân làm trung gian hòa giải…”.
Tại các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam hiện nay cũng đã ghi nhận
và có những quy định về việc hòa giải, việc hòa giải được xem như là một phương
pháp ưu tiên để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Một trong những bước tiến lớn
trong lịch sử hình thành và phát triển của Pháp luật tố tụng Việt Nam những năm
qua đó chính là việc lần đầu tiên ghi nhận thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án của BLTTDS năm 2015. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
nhằm đảm bảo cho việc hòa giải giữa các bên được thực thi một cách hiệu quả và
có sự can thiệp cần thiết từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc
hòa giải giữa các bên. Đây là một điểm mới quan trọng, có ý nghĩa trong việc
khuyến khích hòa giải, hạn chế tranh chấp yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết.
Song song với các quy định của pháp luật nội dung về hòa giải như đã nêu
trên thì việc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung thêm một chương hoàn toàn
mới quy định về “Thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”.
Có thể nói, từ những yêu cầu cụ thể của cải cách tư pháp đòi hỏi Pháp luật tố tụng
dân sự phải xây dựng một cơ chế xét xử linh hoạt, đơn giản, gọn nhẹ; giải quyết
các yêu cầu của đương sự một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí tố
tụng của Nhà nước và của các đương sự đồng thời bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
19
hợp pháp của các đương sự có thể xem là một bước tiến lớn trong luật tố tụng dân
sự ở Việt Nam. Quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
tạo hành lang pháp lý thúc đẩy các hoạt động hòa giải trở nên phổ biến hơn, được
các bên tin dùng và yên tâm hơn với kết quả hòa giải của mình.
1.2.2. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động hòa giải
trong đó có Pháp luật luật tố tụng dân sự
Nhờ những ưu điểm của hòa giải khi các bên có bất đồng, tranh chấp nên hòa
giải luôn là phương án ưu tiên hàng đầu được các bên lựa chọn. Các văn bản pháp
luật qua các lần sửa đổi, bổ sung cũng dần dần pháp điển hóa các quy định về hòa
giải. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành của Việt Nam còn thiếu những quy định pháp
lý cần thiết để phát huy hơn nữa vai trò của hòa giải ngoài Tòa án. Trong bối cảnh
Hiến pháp năm 2013, Luật Hòa giải cơ sở được ban hành năm 2013, việc sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật Tố tụng dân sự,
xây dựng Nghị định hướng dẫn riêng về hòa giải thương mại..., vấn đề ghi nhận
hành lang pháp lý để công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án nhằm thúc đẩy sự
phát triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải tại Việt Nam, phù hợp
với xu hướng phát triển của hoạt động hòa giải thương mại trên thế giới và thông lệ
quốc tế.
Các quy định về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án tại BLTTDS năm 2015 là các quy định về quyền của các chủ thể đối với Luật tố
tụng còn cụ thể việc thỏa thuận của các bên như thế nào, cách thức ra sao, có hợp
pháp hay không hợp pháp…lại cần các quy định của luật chuyên ngành (luật nội
dung). Do đó, vấn đề cần thiết đặt ra là cần phải xây dựng một cách đồng bộ, đầy
đủ và ăn khớp giữa luật nội dung và luật thủ tục để việc áp dụng pháp luật được
minh bạch, thuận lợi và đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích của các bên.
20
1.2.3. Quy định về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể trong luật
dân sự
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của các chủ thể trong luật dân sự bắt nguồn từ
nguyên tắc bảo đảm quyền tự quyết của các bên đối với các vấn đề liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự. Trong luật dân sự, nguyên
tắc quyền tự định đoạt của chủ thể thể hiện ở khả năng những người tham gia các
giao dịch dân sự tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền, các thỏa
thuận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Đó cũng là quan niệm chung nhất về
nguyên tắc quyền tự định đoạt được nhiều luật gia trên thế giới chia sẻ. Nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của các chủ thể trong giao kết dân sự là một trong
những nguyên tắc cốt lõi, đặc trưng nhất của Luật dân sự. Việc ghi nhận thủ tục
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án xuất phát từ việc tôn trọng
quyền tự định đoạt của các chủ thể trong giao kết, thỏa thuận dân sự. Theo đó, các
chủ thể của quan hệ dân sự có quyền tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc thiết
lập các quyền và nghĩa vụ dân sự phục vụ cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích
chung của xã hội. Các chủ thể có quyền tự do quyết định việc tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự, quyết định nội dung của quan hệ (các quyền và nghĩa vụ của
các bên), quyết định các phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ, quyết định
cách thức, biện pháp để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các chủ thể đã
giải quyết được tranh chấp bằng con đường thỏa thuận và muốn sự thỏa thuận đó
có giá trị về pháp lý nên đã yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận. Khi giải quyết
yêu cầu này, Tòa án thực chất chỉ kiểm tra tính hợp pháp của sự thỏa thuận và ghi
nhận sự thỏa thuận đó bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật. Như vậy, việc
giải quyết không mất nhiều thời gian và có thể kết thúc bằng một thủ tục đơn giản,
nhanh gọn.
21
1.2.4. Quy định về thủ tục yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự
Trước khi BLTTDS có hiệu lực thi hành, PLTTGQCVADS được áp dụng để
giải quyết mọi vụ án dù có tranh chấp hay không có tranh chấp theo một thủ tục tố
tụng chung thống nhất. Có nghĩa là, việc giải quyết mọi vụ án bắt buộc phải tuân
theo một trình tự, thủ tục nhất định với một khoảng thời gian do pháp luật quy
định, không được rút ngắn thời gian hoặc bất cứ một thủ tục nào. Điều này là hoàn
toàn không hợp lý, gây mất thời gian, tiền của Nhà nước và của các đương sự và
không bảo vệ được kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như
không phát huy được tính chủ động của thẩm phán. Ngoài ra, việc giải quyết mọi
vụ án theo một thủ tục chung dẫn đến việc số lượng án bị tồn đọng chưa được Toà
án giải quyết là rất lớn.
Thực tiễn xét xử đòi hỏi phải có một thủ tục đơn giản, gọn nhẹ để giải quyết
một số loại việc nhất định. Thực tiễn chính là cơ sở để xây dựng thủ tục giải quyết
việc dân sự trong BLTTDS Việt Nam nói chung và thủ tục yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án nói riêng. Đặc biệt, trong bối cảnh, nền kinh tế thị
trường đã và đang phát huy những mặt tích cực của nó nhưng mặt khác cơ chế thị
trường cũng làm gia tăng các tranh chấp dân sự đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
khi chúng ta đã là thành viên của APEC và WTO. Vì vậy, để tạo ra sự ổn định của
các giao lưu dân sự đồng thời vừa tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ đó phát triển
thì cần có cơ chế giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn đó một cách nhanh chóng,
đơn giản; kịp thời bảo vệ những quyền và lợi ích bị xâm hại, đồng thời tạo điều
kiện cho các đương sự không bỏ lỡ những cơ hội làm ăn của mình hoặc cơ hội
tham gia vào những quan hệ khác.