Câu 1: Quan điểm về việc bổ sung quy định trong Dự thảo Bộ luật Tố
tụng dân sự sửa đổi đối với yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa
án trong Tố tụng dân sự.
Ngoài quy định về việc “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ
việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” thì Dự thảo Bộ luật Tố tụng
dân sự sửa đổi có một điểm rất mới đó là quy định về “công nhận kết quả hòa
giải ngoài Tòa án”. Sau đây là một vài quan điểm, ý kiến riêng của bản thân tôi
về vấn đề này.
1. Căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật dân sự, việc công nhận kết
quả hòa giải ngoài Tòa án là hợp lý. Bởi lẽ: Quy định này nhằm làm tăng giá trị
của việc hòa giải, khuyến khích việc tham gia hòa giải, giảm bớt vụ việc khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết; khuyến khích phát triển hòa giải; tôn trọng
nguyên tắc tự nguyện, tự quyết và tự chịu trách nhiệm của các bên. Ngoài ra,
quy định trên còn đảm bảo một khuôn khổ pháp lý cho các kết quả hòa giải
ngoài Tòa án. Làm tăng tính pháp lý của kết quả hòa giải và nâng cao tính khả
thi trong việc thực hiện kết quả hòa giải ngoài Tòa án của các bên.
Theo quy định tại Dự thảo thì: “Kết quả hòa giải của cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ hòa giải theo quy định của pháp luật ngoài Tòa án giữa cá nhân, cơ
quan, tổ chức tự nguyện không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội, không
nhằm trốn tránh nghĩa vụ được Tòa án công nhận khi có yêu cầu”.
2. Có một sự bất hợp lý khi dự thảo quy định điều kiện để được công nhận
kết quả hòa giải ngoài Tòa án là “không có tranh chấp sau khi có kết quả hòa
giải”. Bởi vì: điều kiện như vậy đã vô hiệu hóa phương thức hòa giải khi có
tranh chấp xảy ra. Đây cũng có thể là “kẽ hở” để bên thiếu thiện chí vận dụng
kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ, dẫn tới vô hiệu kết quả hòa giải.
3. Khi được Tòa án công nhận, các kết quả hòa giải sẽ có giá trị pháp lý và
được bảo đảm thực thi bằng thủ tục thi hành án. Trước khi công nhận kết quả
hòa giải, Tòa án cần phải xem xét lại nội dung hòa giải. Việc thừa nhận kết quả
hòa giải không loại trừ trách nhiệm chứng minh của tòa án. Theo đó, Tòa án
phải được cung cấp hồ sơ để nghiên cứu vì trong nhiều trường hợp các bên cung
cấp tài liệu chưa đầy đủ. Thực tế cho thấy, không hiếm trường hợp kết quả hòa
giải ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên thứ ba, do đó việc rà soát về tình
tiết, xem xét kết quả hòa giải thật kỹ lưỡng, sau đó mới khẳng định kết quả hòa
giải có được công nhận hay không.
4. Cũng cần quy định rõ Tòa án chỉ được kiểm soát những nội dung gì?
Nếu Tòa án mà kiểm soát tất cả thì chả khác gì thủ tục hòa giải tại Tòa án.
Phạm vi kiểm soát ở đây chỉ nên xác định ở một giới hạn sao cho thỏa thuận đó
không vi phạm các điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và không
ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
5. Nên có quy định về việc giám đốc thẩm đối với kết quả hòa giải. Bởi vì:
Khi Tòa án đã ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, có
nghĩa là quyết định đó có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm.
6. Cách trình bày quy định trên của dự thảo gây khó hiểu cho người đọc.
Quy định này nên được viết lại như sau: “Kết quả hòa giải của cơ quan, tổ chức
có nhiệm vụ hòa giải theo quy định của pháp luật được Tòa án công nhận khi
có yêu cầu nếu kết quả hòa giải đó được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa
vụ đối với bên thứ ba”.
Lý do sửa: Trái pháp luật khác với vi phạm điều cấm của pháp luật. Công
dân có quyền làm những gì pháp luật không cấm. Khi nói sự thỏa thuận của hai
bên tức là ta phải đặt vấn đề về khả năng xảy ra hiện tượng trốn tránh nghĩa vụ
đối với bên thứ Ba chứ không thể nói trốn tránh nghĩa vụ nói chung. Không cần
thiết có cụm từ “ngoài Tòa án” bởi vì tên Điều luật đã nói lên điều đó, hơn nữa
đã có cụm từ “được Tòa án công nhận khi có yêu cầu” thì không có lý gì mà Tòa
án lại công nhận văn bản do chính mình lập ra.
7. Dự thảo cần quy định rõ xem được công nhận khi có yêu cầu của ai? Cơ
quan, tổ chức đã tiến hành hòa giải gửi yêu cầu hay các bên có tranh chấp gửi
yêu cầu tới Tòa án. Đồng thời, cần xác định rõ “kết quả hòa giải” ở đây là gì,
được hiểu là sự thống nhất thỏa thuận của các bên sau khi được hòa giải hay là
toàn bộ các nội dung tại biên bản hòa giải, kết quả của hoạt động hòa giải (bao
gồm hòa giải thành và hòa giải không thành). Tòa án có được công nhận trong
trường hợp hòa giải không thành hay không?
Câu 2: Bài tập tình huống
1. Yêu cầu của các bên đương sự
- Yêu cầu của chị Hương:
+ Yêu cầu 1: bà Văn phải thực hiện việc bán nhà và chuyển nhượng quyền
sử dụng đất 358 phố K, quận H, TP. Hà Nội.
+ Yêu cầu 2: Nếu bà Văn không thực hiện yêu cầu 1 thì bà Văn thực hiện
đúng nội dung cam kết của hợp đồng đặt cọc là trả lại tiền cọc và bồi thường gấp
đôi tiền cọc. Tổng số tiền bà Văn phải bồi thường là 3.000.000.000 đồng.
- Yêu cầu của Bà Văn:
+ Bà Văn không bán nhà và không chuyển nhượng quyền sử dụng đất 358
phố K, quận H, TP. Hà Nội.
+ Yêu cầu Tòa tuyên hợp đồng đặt cọc vô hiệu. Bà Văn đồng ý trả cho chị
Hương số tiền đặt cọc là 01 tỷ, tuy nhiên bà Văn không chấp nhận bồi thường 2
tỷ cho chị Hương. Bà Văn chỉ đồng ý bồi thường 300 triệu đồng.
2. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết
- Về hợp đồng đặt cọc
Theo quy định tại khoản 1 Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005, đặt cọc là
việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật
có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.
Theo như nội dung tình huống đã nêu, thì việc chị Hương và bà Văn ký
hợp đồng đặt cọc là có thật. Hợp đồng đặt cọc giữa hai bên đã được lập thành
văn bản. Tồn tại hai bản khác nhau, trong đó một bản không có dấu của Công ty
TNHH dịch vụ thương mại và địa ốc Hoàng Gia và một bản có dấu của Công ty
TNHH dịch vụ thương mại và địa ốc Hoàng Gia nhưng nội dung của hai bản này
giống nhau. Dấu của Công ty TNHH dịch vụ thương mại và địa ốc Hoàng Gia
cũng không phải là yếu tố bắt buộc của hợp đồng đặt cọc. Do đó, sự khác biệt
này không phải là yếu tố quyết định tính hợp pháp của hợp đồng này. Hợp đồng
này được giao kết tự nguyện, không bị ép buộc.
Bây giờ ta sẽ xem xét các yếu tố của hợp đồng này. Chủ thể của hợp đồng
là Chị Hương và bà Văn. Nội dung của giao dịch: Chị Hương đặt cọc 1 tỷ để
mua nhà và quyền sử dụng đất 358 phố K, quận H, TP Hà Nội. Bà Văn sau khi
nhận 1 tỷ đặt cọc có trách nhiệm sẽ thực hiện việc bán nhà và quyền sử dụng đất
nói trên. Đối tượng của giao dịch: 1 tỷ đồng tiền đặt cọc.
* Lưu ý: Khi xác lập giao dịch đặt cọc và có sự thỏa thuận như của bà Văn
và chị Hương, tức là chị Hương cũng đã dự liệu được trường hợp bà Văn không
thể thực hiện được việc bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, trong hợp
đồng có quy định về việc bồi thường nếu bà Văn không thực hiện việc bán nhà
và chuyển quyền sử dụng đất. Ở đây, bà Văn cũng không đảm bảo 100% là sẽ
thực hiện việc bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất. Các bên đều đã lường
trước được những rủi ro có thể phát sinh.
- Về hợp đồng vô hiệu:
Bộ luật dân sự năm 2005 có các quy định cụ thể về hợp đồng vô hiệu. Đó
là: Hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411), vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 128), giao dịch dân sự
vô hiệu do giả tạo (Điều 129), giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện (Điều 130), giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều
131), giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132), giao dịch dân sự
vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
(Điều 133), giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
(Điều 134), giao dịch dân sự vô hiệu từng phần (Điều 135), giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122).
- Hợp đồng đặt cọc trên có vô hiệu hay không?
Ta nhận thấy, hợp đồng trên đã được lập thành văn bản theo quy định tại
Khoản 1 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005 và không thuộc loại hợp đồng phải
công chứng, chứng thực. Do vậy, hợp đồng trên không thể vô hiệu về hình thức.
Đối chiếu với các trường hợp vô hiệu của hợp đồng nêu trên, ta sẽ thấy, hợp
đồng trên chỉ có thể vô hiệu nếu rơi vào các trường hợp sau: Giao dịch dân sự vô
hiệu do bị lừa dối, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
+ Trường hợp 1: hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
Ở đây, đối tượng của hợp đồng đặt cọc là 1 tỷ đồng tiền đặt cọc chứ không
phải là nhà và quyền sử dụng đất nêu trong tình huống. Do đó, việc bà Văn
không bán nhà và không chuyển quyền sử dụng đất không được coi là “đối
tượng của hợp đồng không thể thực hiện được”. Do đó, hợp đồng đặt cọc không
thể vô hiệu theo trường hợp này.
+ Trường hợp 2: Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối.
Như tình huống nêu, thì bà Văn mặc dù biết diện tích đất và nhà nói trên
đang thế chấp tại Ngân hàng nhưng vẫn ký hợp đồng đặt cọc với chị Hương.
Đây có phải là hành vi lừa dối hay không?
Đây không phải là hành vi lừa dối. Bởi vì, theo khoản 1 Điều 132 Bộ luật
dân sự năm 2005, lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể giao dịch, tính
chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự”.
Bên thứ ba ở đây là Công ty TNHH Hoàng Gia không hề biết và không có
trách nhiệm phải biết việc căn nhà và quyền sử dụng đất nói trên đang được thế
chấp tại Ngân hàng. Bà Văn cũng không làm cho chị Hương hiểu sai lệch về chủ
thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch. Lập luận này gắn với
việc xác định chủ thể, đổi tượng và nội dung của giao dịch đã được trình bày ở
phần trên. Bà Văn không đảm bảo 100% là sẽ bán nhà và chuyển quyền sử dụng
đất cho chị Hương. Nên việc bà Văn ký hợp đồng đặt cọc trong trường hợp này
không phải là lừa dối. Tại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở số 100111976 ngày 11/02/2001 do UBND TP. H cấp thì chủ sở hữu
nhà ở và sử dụng đất ở chỉ đứng tên mình bà Hương, tài sản có trước thời kỳ hôn
nhân. Không lý gì bà Văn cố tình lừa dối để chịu bồi thường. Do đó, hợp đồng
đặt cọc trên không thể vô hiệu do bị lừa dối.
Ngoài ra, bà Văn có thể ký hợp đồng đặt cọc mặc dù nhà và đất đang được
thế chấp tại Ngân hàng. Hợp đồng đặt cọc là để bảo đảm cho việc bà Văn sẽ bán
nhà và chuyển quyền sử dụng đất cho chị Hương trong tương lai. Việc mua bán,
chuyển nhượng có thể diễn ra sau khi nhà và đất được giải chấp ở Ngân hàng.
Chứ hợp đồng này không xác định bà Văn phải bán và chuyển nhượng tại thời
điểm ký hợp đồng đặt cọc cũng như không xác nhận việc bà Văn đồng ý bán nhà
và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Hương.
Kết luận: Hợp đồng đặt cọc này không vô hiệu.
- Phương án giải quyết trong trường hợp này:
Căn cứ khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, nếu bên nhận đặt cọc
từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài
sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
Trong trường hợp này, các bên có thỏa thuận khác. Đó là: Nếu bên A (bên
chuyển nhượng) không thực hiện hợp đồng, không bán nhà và chuyển quyền sử
dụng đất nữa hoặc bán, chuyển nhượng cho người khác thì bên nhận tiền đặt
cọc phải bồi thường cho bên mua số tiền gấp hai lần số tiền đã nhận đặt cọc
của bên mua. Vậy, các bên phải thực hiện theo thỏa thuận này.
Theo ngôn từ trong Điều khoản này, bà Văn phải bồi thường cho chị
Hương gấp 2 lần số tiền đã nhận đặt cọc của chị Hương. Tức là 2 tỷ đồng. Trong
điều này không có quy định bà Văn phải trả lại tiền đặt cọc là 1 tỷ đồng. Mà chỉ
có quy định mức bồi thường khi bà Văn không thực hiện đúng hợp đồng đặt cọc.
Kết luận: Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, bà Văn đã vi phạm
hợp đồng đặt cọc và phải bồi thường cho chị Hương 2 tỷ đồng. Bà Văn không
phải trả 1 tỷ đồng tiền đặt cọc. Ngoài ra, bà Văn hoàn toàn có quyền không bán
nhà và không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Hương.
3. Đề xuất phương án hòa giải
3.1. Bà Văn trả cho chị Hương 3 tỷ gồm: tiền cọc và phạt cọc
Thuận lợi
Khó khăn
Hệ quả pháp lý
Đáp ứng yêu cầu Không có cơ sở pháp lý để Các bên không thống nhất
của chị Hương
yêu cầu bà Văn chi trả số tiền được phương án. Tòa án ra
trên. Bà Văn không chấp quyết định giải quyết vụ
nhận mức bồi thường này.
án theo quy định và bà
Văn sẽ phải bồi thường
cho chị Hương 2 tỷ
3.2. Bà Văn trả 1 tỷ 3oo triệu cho chị Hương
Thuận lợi
Khó khăn
Hệ quả pháp lý
Bà Văn sẽ thực hiện ngay
Chị Hương không
Hòa giải không thành. Tòa án
chấp nhận vì mức
ra quyết định giải quyết vụ án
bồi thường thấp
theo quy định và bà Văn sẽ
phải bồi thường cho chị
Hương 2 tỷ
3.3. Bà Văn bồi thường cho chị Hương 2 tỷ.
Thuận lợi
Khó khăn
Hệ quả pháp lý
Giảm thiểu mức bồi - Chưa đáp ứng được Tòa án ra quyết định
thường mà bà Văn phải hoàn toàn yêu cầu đòi bồi giải quyết vụ án theo
chịu so với yêu cầu ban thường (không có cơ sở quy định và bà Văn sẽ
đầu của chị Hương. Đảm pháp lý) của chị Hương.
phải bồi thường cho chị
bảo đúng quy định của
Hương 2 tỷ
pháp luật
3.4. Bà Văn bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất cho chị Hương
Thuận lợi
Khó khăn
Hệ quả pháp lý
Bà Văn không phải bồi Bà Văn không còn Tòa án ra quyết định giải quyết
thường, không vi phạm nhu cầu bán nhà vụ án theo quy định và bà Văn
hợp đồng đặt cọc. Chị và chuyển quyền sẽ phải bồi thường cho chị
Hương được nhu cầu sử dụng đất cho Hương 2 tỷ
mua nhà và quyền sử chị Hương
dụng đất
3.5. Bà Văn bồi thường cho chị Hương 1,5-1,8 tỷ
Thuận lợi
Khó khăn
Hệ quả pháp lý
Giảm thiểu mức bồi Bà Văn sẽ phải bỏ Tòa án có thể ra quyết định
thường mà bà Văn phải thêm
tiền
để
bồi công nhận sự thỏa thuận của
chịu so với yêu cầu ban thường cho chị Hương các đương sự về việc bà Văn
đầu của chị Hương. nhưng mức bồi thường bồi thường cho chị Hương
Đảm bảo đúng quy định này có thể chấp nhận khoản tiền từ 1,5 -1,8 tỷ đồng
của pháp luật. Đáp ứng được
cơ bản nhu cầu các bên
Phương án tối ưu: Hai bên thỏa thuận mức bồi thường là 1,5-1,8 tỷ đồng.
Đây là mức có thể chấp nhận được đối với các bên.
Điểm mấu chốt: Bà Văn đã nhận ra lỗi của mình trong việc thực hiện hợp
đồng đặt cọc và thiện chí bồi thường cho chị Hương. Tuy nhiên, bà Văn chỉ
muốn bồi thường mức thấp hơn so với yêu cầu của chị Hương.
Trường hợp này, trước tiên ta sẽ giải thích cho chị Hương hiểu rằng: căn cứ
các quy định của pháp luật, chị Hương chỉ có thể yêu cầu bồi thường tối đa là 2
tỷ chứ không thể được 3 tỷ. Nếu theo quy định bà Văn phải bồi thường cho chị 2
tỷ, việc bồi thường cũng rất khó khăn vì khả năng chi trả của bà Văn. Nên thuyết
phục chị có thể chấp nhận mức bồi thường từ 1,5,-1,8 tỷ đồng. Nếu để Tòa án ra
quyết định giải quyết thì thủ tục nhận được tiền sẽ rất phức tạp và nếu bà Văn
không thiện chí thi hành thì sẽ mất nhiều thời gian chị Hương mới có thể nhận
được tiền bồi thường.
Tiếp theo, phải phân tích, thuyết phục cho bà Văn thấy rằng: nếu bà Văn
không thỏa thuận được thì số tiền bồi thường sẽ là 2 tỷ đồng. Như vậy, bà Văn
sẽ phải bồi thường nhiều hơn con số 300 triệu. Khi đó, ta đưa ra đề xuất mức bồi
thường như trên chắc chắn bà Văn sẽ chấp thuận. Mấu chốt ở đây là thuyết phục
chị Hương chấp nhận mức bồi thường này.
Vai trò của quy định của pháp luật trong hòa giải: Các quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005 về mức bồi thường là cơ sở để các bên tiến hành hòa giải,
giúp các bên nhận thức rõ lợi ích của việc hòa giải. Nếu hòa giải được thì bà
Văn sẽ giảm được mức tiền phải bồi thường và chị Hương có thể được bồi
thường ở một mức hợp lý. Nếu các bên không thực hiện được, thì bà Văn sẽ
phải bồi thường theo quy định nhưng khi đó thủ tục để chị Hương nhận được
tiền bồi thường sẽ phức tạp và không dễ dàng. Là cơ sở để các bên nhận ra điều
bất hợp lý trong yêu cầu của mình từ đó có phương án thỏa thuận phù hợp.