Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1. Cơ sở hình thành đề tài:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Doanh nghiệp Việt Nam
không chỉ chịu sức ép cạnh tranh với các công ty trong nước mà gay gắt, quyết liệt
hơn từ các tập đoàn đa quốc gia, những công ty hùng mạnh cả về vốn, thương hiệu
và trình độ quản lý. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải
tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận và tìm cho mình
một hướng đi hợp lý. Một trong số những giải pháp cần phải làm là Doanh nghiệp
không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả và hoàn thiện bộ máy quản lý, cải tiến cơ
sở vật chất kỹ thuật, đầu tư cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học và nâng cao trình
độ của đội ngũ cán bộ, công nhân viên,… mà thông tin để làm cơ sở không thể
khác hơn ngoài thông tin kế toán.
Là một công cụ thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về các hoạt động kinh
tế cho nhiều đối tượng khác nhau một cách thường xuyên, nhanh nhạy và có hệ
thống bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, kế toán là một trong những nội
dung quan trọng nhất trong quản lý kinh tế, là công cụ quan trọng không thể thiếu
trong quá trình quản lý hoạt động của một tổ chức. Và quan trọng hơn nữa, vai trò
của kế toán không chỉ là thực hiện công việc ghi chép, lập báo cáo tài chính mà còn
tham gia đội dự án để phân tích, thiết kế, đánh giá một hệ thống thông tin kế toán.
Bộ máy kế toán trong doanh nghiệp được tổ chức khoa học, hợp lý có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu giúp cho hệ thống thông tin kế toán đáp ứng được các
yêu cầu quản lý của doanh nghiệp trong việc ghi nhận, xử lý, cung cấp thông tin
một cách linh hoạt, hiệu quả và đồng bộ nhằm đạt tới mục tiêu chung là tăng cường
được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và đảm bảo an toàn cho tài
sản.
Tổ chức công tác kế toán là xương sống của một công ty, tổ chức công tác
kế toán có tốt thì việc quản lý tài chính và kinh doanh mới hiệu quả. Tổ chức công
tác kế toán phải xây dựng theo từng doanh nghiệp, phù hợp với nhu cầu quản lý của
doanh nghiệp đó. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp nào có hệ thống kế toán phù hợp
với đặc điểm kinh doanh và đáp ứng được yêu cầu quản lý, thì hoạt động kế toán-
tài chính của doanh nghiệp đó sẽ hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán trong công ty nên tôi
đã chọn đề tài: “ Tổ chức công tác kế toán tại Công ty cổ phần
NTACO ” làm đề tài nghiên cứu cho mình và đề ra một số kiến nghị phù hợp
nhằm hoàn thiện công tác kế toán và nâng cao hiệu quả quản lý của công ty.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 1
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
- Tìm hiểu khái quát công tác tổ chức Kế toán tại công ty cổ phần NTACO
- Đưa ra một số nhận xét nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức kế
toán tại Công ty cổ phần NTACO.
1.3. Phạm vi nghiên cứu:
o Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức công tác kế toán.
o Phạm vi không gian: Tổ chức công tác kế toán tại Công ty Cổ phần
NTACO
o Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung vào nghiên cứu công tác kế toán
tại Công ty trong giai đoạn 2008 – 2010.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu:
- Thông tin sơ cấp: tiến hành phỏng vấn nhân viên kế toán, để tìm hiểu
sơ bộ về công tác kế toán,
- Thông tin thứ cấp: Báo cáo bộ phận, sổ sách trực tiếp tại Công ty,
thông tin cần thiết từ sách báo, tạp chí, internet,…và các đề tài nghiên cứu
trước đó có liên quan.
1.4.2. Phương pháp xử lý số liệu:
Đối với các dữ liệu thu được, áp dụng các phương pháp xử lý sau:
tổng hợp, phân tích, đối chiếu so sánh.
1.5. Ý nghĩa nghiên cứu :
Tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm còn tồn tại trong quá trình quản
lý, tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp.
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 2
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Khái niệm, nội dung của việc tổ chức công tác kế toán trong
doanh nghiệp:
2.1.1 Khái niệm Tổ chức công tác kế toán:
Tổ chức công tác kế toán là tổ chức việc thực hiện các chuẩn mực
và chế độ kế toán để phản ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tổ chức thực hiện chế độ kiểm tra kế toán, chế độ bảo
quản, lưu trữ tài liệu kế toán, cung cấp thông tin tài liệu kế toán và các
nhiệm vụ khác của kế toán.
2.1.2 Nội dung của Tổ chức công tác kế toán:
Tổ chức công tác kế toán bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
• Tổ chức thực hiện chế độ chứng từ kế toán;
• Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán ở doanh nghiệp;
• Tổ chức thực hiện chế độ sổ kế toán ở doanh nghiệp;
• Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo kế toán.
2.1.2.1 Tổ chức vận dụng chế độ chứng từ kế toán
Chứng từ kế toán là những chứng minh bằng giấy tờ về nghiệp vụ
kinh tế đã phát sinh và thực sự hoàn thành.
Chứng từ kế toán phải được lập rõ ràng, đầy đủ, kịp thời, chính xác
theo nội dung quy định trên mẫu.
Trong trường hợp chứng từ kế toán chưa có đơn vị mẫu thì đơn vị
kế toán được tự lập chứng từ kế toán nhưng phải có đầy đủ các nội dung
quy định.
Chế độ chứng từ kế toán được nhà nước quy định trong Luật kế toán
có tính chất chung, liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động cũng như các
thành phần kế toán khác nhau. Do vậy, cần căn cứ vào quyết định của chế
độ chứng từ kế toán và đặc điểm hoạt động của Doanh nghiệp để chọn lựa,
xác định các loại chứng từ cần phải sử dụng trong công tác kế toán. Cần lưu
ý bên cạnh những chứng từ được quyết định bắt buộc trong chế độ, còn có
những chứng từ hoàn toàn mang tính chất hướng dẫn liên quan đến kỹ thuật
và phương pháp hạch toán mà Doanh nghiệp cần phải thiết lập một cách
thích ứng với yêu cầu cung cấp và xử lý thông tin.
Chứng từ kế toán được lập ở nhiều biện pháp khác nhau trong
Doanh nghiệp kể cả bên ngoài Doanh nghiệp nên việc xác lập quá trình luân
chuyển chứng từ cho các loại chứng từ khác nhau nhằm bảo đảm chứng từ
về đến phòng kế toán trong thời hạn ngắn nhất có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc bảo đảm tính kịp thời cho việc kiểm tra, xử lý và cung cấp
thông tin.
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 3
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
2.1.2.2 Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán
Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất vận dụng trong Doanh nghiệp
là một mô hình phân loại đối tượng kế toán được Nhà nước quyết định để
thực hiện việc xử lý thông tin gắn liền với từng đối tượng kế toán nhằm
phục vụ cho việc tổng hợp và kiểm tra, kiểm soát.
Các nội dung cơ bản được quy định trong hệ thống tài khoản bao
gồm: Loại tài khoản, Tên gọi tài khoản, Số lượng tài khoản. công dụng và
nội dung phản ánh vào từng tài khoản, một số quan hệ đối xứng chủ yếu
giữa các tài khoản có liên quan.
Hệ thống tài khoản kế toán được quy định chung cho nhiều loại hình
Doanh nghiệp khác nhau nên Doanh nghiệp cần phải căn cứ vào đặc điểm
hoạt động, yêu cầu và khả năng quản lý để lựa chọn các tài khoản phù hợp
và sử dụng chúng đúng theo các quyết định về ghi chép trong từng tài
khoản.
Việc xác định các tài khoản phải sử dụng là cơ sở để tổ chức hệ
thống sổ kế toán tổng hợp và chi tiết nhằm xử lý thông tin phù hợp với yêu
cầu quản lý của Doanh nghiệp. Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các
Doanh nghiệp bao gồm 10 loại tài khoản trong đó có các tài khoản từ loại 1
đến loại 9 thực hiện theo phương pháp ghi kép,còn tài khoản loại 0 thực
hiện theo phương pháp ghi đơn.
Loại 1, 2 : Nhóm tài khoản Tài sản
Loại 3, 4 : Nhóm Tài khoản Nguồn vốn
Loại 5, 6, 7, 8, 9: Nhóm Tài khoản trung gian
Loại 0 : Có số dư cuối kỳ ghi ngoài bảng Cân đối kế toán
2.1.2.3 Tổ chức vận dụng chế độ sổ kế toán
Tổ chức hoàn thành sổ kế toán tổng hợp và chi tiết để xử lý thông
tin từ các chứng từ kế toán nhằm phục vụ cho việc xác lập các Báo cáo tài
chính và Quản trị cũng như phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát, từng loại
tài sản, từng loại nghiệp vụ cũng như từng quá trình hoạt động của Doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các chức năng của kế
toán.
Hệ thống sổ kế toán bao gồm nhiều loại sổ khác nhau,trong đó có
những loại sổ được mở theo yêu cầu và đặc điểm quản lý của Doanh
nghiệp. Để tổ chức hệ thống sổ kế toán phù hợp cần phải căn cứ vào quy
mô của Doanh nghiệp,đặc điểm về tổ chức sản xuất và quản lý, tính chất
của quá trình sản xuất và đặc điểm về đối tượng kế toán của Doanh nghiệp.
Theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính thì Doanh nghiệp có thể tổ chức
hệ thống sổ kế toán theo 1 trong 4 mô hình khác nhau (gọi là hình thức sổ
kế toán).
Hình thức kế toán: Nhật ký – Sổ cái
Hình thức kế toán: Nhật ký chung
Hình thức kế toán: Chứng từ ghi sổ
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 4
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
Hình thức kế toán: Nhật ký – chứng từ
Việc sử dụng hệ thống kế toán nào là do Doanh nghiệp tự quyết
định dựa trên những căn cứ đã nêu và phải tuân thủ nguyên tắc nhất quán.
Tuy nhiên, trong các hình thức kế toán trên thì Nhật ký chung là hình thức
kế toán có ưu điểm là rất dễ áp dụng, vận dụng phù hợp cho mọi loại hình
Doanh nghiệp và rất dễ dàng trong ứng dụng tin học vào kế toán.
2.1.2.4 Tổ chức vận dụng chế độ báo cáo kế toán
Báo cáo kế toán là két quả của công tác kế toán trong Doanh nghiệp,
là nguồn thông tin cho các nhà quản trị của Doanh nghiệp cũng như cho tất
cả các Doanh nghiệp khác bên ngoài Doanh nghiệp trong đó có các chức
năng của nhà nước.
Báo cáo kế toán gồm 2 phân hệ : Hệ thống Báo cáo tài chính và hệ
thống Báo cáo kế toán quản trị.
Hệ thống báo cáo tài chính bao gồm:
Bảng Cân đối kế toán
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Bảng thuyết minh báo cáo tài chính
Báo cáo kế toán quản trị bao gồm các báo cáo được lập ra để phục
vụ cho yêu cầu quản trị của doanh nghiệp ở các cấp độ khác nhau. Báo cáo
kế toán quản trị không bắt buộc phải công khai.
Hệ thống báo cáo tài chính gồm : báo cáo tài chính năm và báo cáo
tài chính giữa niên độ.
2.2 Ý nghĩa và nguyên tắc của việc tổ chức công tác kế toán
trong doanh nghiệp:
2.2.1 Ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán:
Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao
động. Kế toán là một trong những công cụ quản lý kinh tế nhằm phản ánh
và giám đốc toàn diện các mặt hoạt động kinh tế tài chính ở doanh nghiệp.
Trong kế toán, mọi nghiệp vụ kinh tế đều được ghi chép đầy đủ, liên tục, có
hệ thống trên cơ sở các chứng từ hợp lệ. Chính điều này đã làm tăng ý nghĩa
kiểm tra, giám sát của kế toán.
Nhiệm vụ của kế toán là thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán
theo đối tượng và nội dung công việc kế toán theo quy định của chuẩn mực
và chế độ kế toán; kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa
vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn
hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về
kế toán; phân tích thông tin, số liệu kế toán giúp đơn vị, người quản lý, điều
hành đơn vị; cung cấp thông tin số liệu kế toán theo quy định của pháp luật.
Do vậy, việc tổ chức công tác kế toán khoa học và hợp lý tại doanh
nghiệp giúp cho việc cung cấp thông tin kế toán kịp thời, đầy đủ, phản ánh
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 5
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
kịp thời tình hình biến động của tài sản, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt
động kinh doanh, qua đó làm giảm bớt khối lượng công tác kế toán trùng
lắp, tiết kiệm chi phí, đồng thời giúp cho việc kiểm kê, kiểm soát tài sản,
nguồn vốn, hoạt động kinh tế, đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế, xác
định lợi ích của Nhà nước, của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường…..
Tóm lại, việc tổ chức công tác kế toán khoa học và hợp lý tại doanh
nghiệp không những đảm bảo cho việc thu nhận, hệ thống hóa thông tin kế
toán đầy đủ, kịp thời, đáng tin cậy phục vụ cho công tác quản lý kinh tế, tài
chính mà còn giúp doanh nghiệp quản lý chặp chẽ tài sản của doanh nghiệp,
ngăn ngừa những hành vi làm tổn hại đến tài sản của doanh nghiệp.
2.2.2 Nguyên tắc của việc tổ chức công tác kế toán:
Đảm bảo thu nhận và hệ thống hóa thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế - tài
chính ở doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin kế toán đáng tin cậy phục vụ
cho công tác quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước và quản trị kinh doanh
của doanh nghiệp;
Phù hợp với quy mô và đặc điểm tổ chức sản xuất, kinh doanh, đặc điểm tổ
chức quản lý của doanh nghiệp;
Phù hợp với trình độ, khả năng của đội ngũ cán bộ kế toán của doanh nghiệp và
khả năng trang bị các phương tiện kỹ thuật tính toán, ghi chép của doanh
nghiệp;
Phù hợp với chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành.
2.3 Các hình thức tổ chức công tác kế toán:
2.3.1 Ý nghĩa và căn cứ của việc lựa chọn hình thức tổ chức công tác
kế toán:
Trên thực tế có nhiều hình thức tổ chức công tác kế toán khác nhau. Doanh
nghiệp phải lựa chọn hình thức tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm hoạt
động, quy mô đầu tư và địa bàn tổ chức sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, với
mức độ phân cấp quản lý kinh tế, tài chính ở doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay
và xu thế sau này, với biên chế bộ máy kế toán và trình độ nghề nghiệp của cán bộ
kế toán hiện có, khả năng thuê dịch vụ kế toán, phù hợp với yêu cầu hoạt động và
khả năng tài chính và với mức độ trang bị các phương tiện kỹ thuật tính toán, sử
dụng cho công tác kế toán, với chất lượng phần mềm kế toán đang sử dụng hoặc
khả năng xây dựng phần mềm kế toán.
Lựa chọn hình thức tổ chức công tác kế toán thích hợp nhằm thu nhận, xử
lý hệ thống hóa và cung cấp đầy đủ, kịp thời toàn bộ thông về hoạt động kinh tế, tài
chính phát sinh, tình hình biến động tài sản, nguồn vốn, chi phí, doanh thu và kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lựa chọn hình thức tổ chức công tác
kế toán khoa học, hợp lý sẽ làm giảm bớt khối lượng công việc kế toán, tiết kiệm
được chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,… Điều đó có ý nghĩa quan
trọng và tác động quyết định đến hiệu quả và chất lượng của công tác kế toán, giúp
cho việc tổ chức công tác kế toán thực hiện được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của
kế toán qua đó phát huy được vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế, tài chính
của doanh nghiệp.
2.3.2 Các hình thức tổ chức Bộ máy kế toán: (*)
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 6
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
Tổ chức bộ máy kế toán là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu
trong tổ chức công tác kế toán ở Doanh nghiệp, bởi suy cho cùng thì chất lượng của
công tác kế toán phụ thuộc trực tiếp vào trình độ, khả năng thành thạo, đạo đức
nghề nghiệp và sự phân công, phân nhiệm hợp lý của các nhân viên trong Bộ máy
kế toán.
Tổ chức Bộ máy kế toán là tổ chức vế nhân sự để thực hiện việc thu nhập,
xử lý và cung cấp thông tin kế toán cho các đối tượng khác nhau.
Về cơ bản việc tổ chức công tác kế toán ở doanh nghiệp có thể theo một
trong ba hình thức sau đây:
2.3.2.1 Hình thức tổ chức công tác kế toán tập trung:
Là mô hình tổ chức có đặc điểm toàn bộ công ciệc xử lý thông tin trong
toàn Doanh nghiệp được thực hiện tập trung ở phòng kế toán trung tâm, còn ở các
bộ phận và đơn vị trực thuộc chỉ thực hiện việc thu nhập, phân loại và chuyển
chứng từ cùng các báo cáo nghiệp vụ về phòng kế toán xử lý và tổng hơp thông tin.
(gọi chung là đơn vị báo số).
Phòng kế toán trung tâm thực hiện toàn bộ công tác kế toán ở doanh nghiệp,
chịu trách nhiệm thu nhận, xử lý và hệ thống hóa toàn bộ thông tin kế toán phục vụ
cho quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Phòng kế toán trung tâm lưu trữ,
bảo quản toàn bộ hồ sơ, tài liệu kế toán của doanh nghiệp.
Tại các đơn vị phụ thuộc (xí nghiệp, của hàng, tổ, đội…), phòng kế toán
trung tâm bố trí nhân viên kế toán làm nhiệm vụ hướng dẫn hạch toán ban đầu, thu
nhận và kiểm tra chứng từ ban đầu để định kỳ chuyển chứng từ về phòng kế toán
trung tâm. Ở đơn vị phụ thuộc hoạt động có quy mô lớn, khối lượng nghiệp vụ kinh
tế, tài chính phát sinh nhiều, phòng kế toán trung tâm có thể bố trí nhân viên kế
toán trực tiếp thực hiện một số phần hành công việc kế toán cụ thể và định kỳ lập
báo cáo đơn giản (báo cáo nội bộ) kèm theo chứng từ gốc gửi về phòng kế toán
trung tâm.
Phòng kế toán trung tâm thực hiện cả kế toán tài chính, cả kế toán quản trị
đáp ứng yêu cầu quản trị kinh doanh ở doanh nghiệp.
Mô hình tổ chức kế toán tập trung có ưu điểm là công việc tổ chức bộ máy
gọn nhẹ, tiết kiệm, việc xử lý và cung cấp thông tin nhanh nhạy. Tuy nhiên, những
ưu điểm này chỉ có thể phát huy được trong điều kiện Doanh nghiệp có tổ chức sản
xuất và quản lý mang tính tập trung, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc xử lý
thông tin được trang bị hiện đại, đầy đủ, đồng bộ. Hình thức tổ chức công tác kế
toán tập trung thường phù hợp với những đơn vị kế toán có quy mô vừa và nhỏ, địa
bàn hoạt động hẹp.
2.3.2.2. Hình thức tổ chức công tác kế toán phân tán:
Là mô hình tổ chức có đặc điểm công việc kế toán được phân công cho các
bộ phận và đơn vị trực thuộc thực hiện một phần hoặc toàn bộ những nội dung phát
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 7
Tổ chức công tác Kế toán tại CTCP NTACO GVHD: Châu Hồng Phương Thảo
sinh tại bộ phận và đơn vị mình. (cũng có thể có những bộ phận chỉ thực hiện công
viêc kế toán ) kết hợp với báo cáo kế toán do các đơn vị trực thuộc gửi lên để tổng
hợp và lập ra các báo cáo chung cho toàn Doanh nghiệp theo quy định.
Theo hình thức này, doanh nghiệp thành lập phòng kế toán trung tâm (đơn
vị kế toán cấp trên); còn ở các đơn vị kế toán cấp cơ sở đều có tổ chức kế toán
riêng (đơn vị kế toán cấp cơ sở). Doanh nghiệp lựa chọn hình thức tổ chức công tác
kế toán này thường là những doanh nghiệp đã phân cấp quản lý kinh tế, tài chính
cho các đơn vị kế toán cấp cơ sở ở mức độ cao hơn, tức là đã phân phối nguồn vốn
riêng, xác định lỗ, lãi riêng nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kế
toán cấp cơ sở này trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trường hợp này, toàn bộ công việc kế toán của doanh nghiệp được phân
công như sau:
- Phòng kế toán trung tâm có nhiệm vụ:
+ Thực hiện các phần hành công việc kế toán phát sinh ở đơn vị kế toán
cấp trên và công tác tài chính của doanh nghiệp;
+ Hướng dẫn và kiểm tra công tác kế toán ở các đơn vị kế toán cấp cơ sở;
+ Thu nhận, kiểm tra báo cáo tài chính của các đơn vị cơ sở gửi lên và
cùng với báo cáo tài chính phần hành công việc kế toán ở đơn vị kế toán
cấp trên để lập báo cáo tài chính tổng hợp của toàn doanh nghiệp.
- Ở các đơn vị kế toán cấp cơ sở: Thực hiện toàn bộ công tác kế toán phát
sinh ở đơn vị kế toán cấp cơ sở, tổ chức thu nhận, xử lý và hệ thống hóa toàn bộ
thông tin kế toán ở đơn vị mình để lập được các báo cáo tài chính định kỳ gửi
về phòng kế toán trung tâm. Từng đơn vị kế toán cấp cơ sở phải căn cứ vào
khối lượng công việc kế toán ở đơn vị mình để xây dựng bộ máy kế toán ở đơn
vị cho phù hợp.
Tại các đơn vị kế toán phụ thuộc, các bộ phận kế toán cũng thực hiện chức
trách, nhiệm vụ như các bộ phận kế toán tương ứng ở phòng kế toán trung tâm, chỉ
khác là chỉ phản ánh hoạt động kinh tế, tài chính phát sinh ở đơn vị kế toán cấp cơ
sở.
Mô hình tổ chức kế toán phân tán có ưu điểm là đáp ứng được yêu cầu về
thông tin phục vụ cho quản lý nội bộ ở các bộ phận, đơn vị trực thuộc nhưng nếu
không khéo tổ chức thì bộ máy kế toán sẽ trở nên cồng kềnh, tốn kém và chồng
chéo trong công việc chuyên môn .
Hình thức tổ chức công tác kế toán phân tán thường phù hợp với những
doanh nghiệp có quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc có trụ sở đóng ở nhiều địa
phương khác nhau, địa bàn hoạt động rộng, hoạt động kinh doanh mang tính chất
đa ngành, đa lĩnh vực.
2.3.2.3 Hình thức tổ chức kế toán vừa tập trung, vừa phân tán:
Theo hình thức tổ chức công tác kế toán này, ở đơn vị kế toán cấp trên vẫn
lập phòng kế toán trung tâm, còn ở đơn vị kế toán cấp cơ sở thì tùy thuộc vào quy
mô, yêu cầu quản lý và trình độ cán bộ quản lý mà có thể tổ chức kế toán riêng
SVTH: Đoàn Thị Hồng Mịn MSSV: DKT083079 Trang 8