Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính Tây Tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.21 KB, 8 trang )

Tây Tiến hào hoa – hào hùng!
BÀI MẪU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC VỀ ĐỀ THI MINH HOẠ CỦA BỘ –
CÂU 5 ĐIỂM
Đề : Phân tích vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính Tây Tiến (Tây
Tiến – Quang Dũng)
BÀI LÀM
Trong vườn hoa thơ ca viết về người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có rất
nhiều bông hoa lạ mà đẹp. “Tây Tiến” là một trong những bông hoa viết về người
lính mang một vẻ đẹp khác với vẻ đẹp của người lính các bài thơ cùng thời. Vẻ
đẹp của người lính Tây Tiến kiên dũng mà tình tứ, cháy bỏng khát vọng lập công
của một thời anh hùng rực lửa mà lại rất lãng mạn hào hùng, hào hoa.
Tây Tiến ra đời vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp khi mà
những chàng trai “mang chí nam nhi thời loạn,” “xếp bút nghiên ra xa trường”.
Họ coi gian nan là “nợ anh hùng phải vay” nên sẵn sàng dấn thân đương đầu với
mọi gian nan thử thách trong hàng binh trận mạc. Họ ra đi bỏ lại sau lưng
mình “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” , bỏ lại sau lưng “luống cày đất đỏ,
tiếng mõ đêm trường”, họ ra đi “lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm/ Áo vải
chân không đi lùng giặc đánh”. Họ là nam nhi thời loạn với vẻ đẹp của người
thanh niên Việt Nam “trượng phu có chí anh hùng”. Nhưng họ cũng là những con
người mà khi “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” nên bản thân họ chứa đựng
hai vẻ đẹp hào hùng và hào hoa.
Hào hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào
hoa là thuộc về tình cảm lãng mạn. Hai nét hào hùng và hào hoa dường như đối
lập nhau, hào hùng là ý chí là sức mạnh là hào khí của một lớp thanh niên mang
tinh thần thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hào hoa lại là một tâm hồn
mềm mại lãng mạn “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, “Nhạc về Viêng Chăn


xây hồn thơ”. (thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi Quốc Gia Ngữ
Văn)
Viết về người lính trong chiến tranh văn học nói chung, thơ ca nói riêng chủ


yếu chỉ đề cập đến vẻ đẹp dũng cảm anh hùng mà ít khi bộc lộ vẻ đẹp lãng mạn
tình tứ trong tâm hồn người lính, thực ra đây chính là một điểm thành công
của Tây Tiến, chính nhờ có điểm thành công này mà vẻ đẹp của người lính Tây
Tiến mang sắc thái vừa riêng biệt vừa cùng với vẻ đẹp của người lính trong các
bài thơ khác. Đồng chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu… đã hoàn chỉnh về
vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp. (thầy giáo Phan
Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi Quốc Gia Ngữ Văn)
Vẻ đẹp hào hùng hào hoa của người lính Tây Tiến hiện lên qua cuộc sống
chiến đấu vô cùng gian khổ. Một cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến đầy gian nan
thử thách. Núi cao, dốc đứng, thác ghềnh,vực sâu… Có lúc như chìm vào thung
lũng sương mù hay đỉnh núi cao chọc trời Tây Bắc “Sài Khao sương lấp đoàn
quân mỏi”. Có lúc đoàn quân rơi vào trận địa của núi non trùng điệp:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử thách bất cứ lúc nào cũng sẵn
sàng bẻ gẫy ý chí của con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn thân, cứ
dần vượt qua hiểm trở của lộ trình oai linh của rừng thiêng núi độc. Sự rình mò
của thú dữ, sự dãi dầu của thân xác. Rồi cái chết hiện ra, người lính Tây Tiến
phải đối mặt với tất cả:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời


Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hào hùng nhất mà cũng lãng mạn nhất có lẽ là lúc Quang Dũng khắc họa
chân dung người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Chân dung ấy được khắc họa bởi hai nét vẽ chủ đạo: Bi và Tráng. Bi là bi
thương. Tráng là hào hùng. “Bi tráng” vừa đối lập mà cũng vừa thống nhất hài
hòa, nghĩa là vừa đau thương vừa hào hùng hay càng đau thương càng hào
hùng. Bi thương ấy hiện lên qua ngoại hình người lính ốm đau, tiều tụy, đầu trọc
“không mọc tóc” , da dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Ma thiêng nước
độc của Tây Bắc thật khủng khiếp. (thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện
thi Quốc Gia Ngữ Văn) Lam sơn chướng khí núi rừng và hậu quả của sốt rét rừng
ác tính, của đói rét, gian khổ đã bào mòn đi sức trẻ của những người lính. Sốt rét
là một thực tế khắc nghiệt. Thơ ca kháng chiến chống Pháp không ít những lần
nhắc đến như thế:
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
(Chính Hữu)
Sốt rét đến “Má anh vàng nghệ” (Tố Hữu), đến “Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật/
Đâu còn tươi nữa những ngày xanh” (Thôi Hữu)… Còn lính Tây Tiến sốt rét đến
rụng hết tóc trông đến kỳ dị.(thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi
Quốc Gia Ngữ Văn)


Đối lập với “bi” là “Tráng”. Nghệ thuật tương phản giữa cái bên trong trong
(tinh thần) và cái bên ngoài (ngoại hình) đã tạo nên vẻ đẹp của Tây Tiến. Đoàn
quân ốm mà không yếu, bi mà vẫn hùng vì: Hình ảnh “không mọc tóc” gợi cái
ngang tàng, ngạo nghễ, coi thường gian khổ của chất lính trẻ luôn hóm hỉnh đùa
vui. Từ “đoàn binh” mang nghĩa rộng hơn “đoàn quân” để chỉ sự đông đảo,
hùng mạnh. Ba từ “dữ oai hùm” là phi thường hóa người lính. Đó là những con
người đang làm chủ tình thế, áp đảo kẻ thù. Vì thế cái hùng lấn át cái bi, sức
mạnh chiến đấu lấn át hoàn cảnh tạo nên một tập thể có sức mạnh “thôn Ngưu

đẩu”.
Hai câu thơ tiếp, người lính hiện lên bởi vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa trong
mộng trong mơ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Vẻ đẹp Lãng mạn là vẻ đẹp tâm hồn vượt qua hiện thực gian khổ hướng tới
niềm lạc quan. Ở đây, trong gian khổ thiếu thốn nhưng người lính vẫn mộng mơ.
“Mắt trừng” là đôi mắt vừa có chí vừa có tình: “Chí” trong ý chí đánh giặc.
Đôi mắt ấy đang gửi về bên kia biên giới giấc mộng đánh giặc, mộng lập công,
mộng hòa bình, mộng trở về. “Tình” trong tình yêu quê hương, con người. Đôi
mắt ấy gửi vào giấc mơ về Hà Nội “Đêm mơ Hà Nội”. Hà Nội là quê hương của
người lính cũng là thủ đô yêu dấu. Hà Nội của cả nước, của biết bao vần thơ
trong nỗi nhớ. Một Nguyễn Đình Thi xao xuyến với mùi hương cốm mới, một làn
hơi may rất mỏng, lá vàng rơi…(thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi
Quốc Gia Ngữ Văn)
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa


Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Tướng Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc” với “Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Trời
Nam thương nhớ đất Thăng Long”.
Lính Tây Tiến ra đi thì mãi nhớ về một Hà Nội với “dáng kiều thơm”. Kiều
thơm là chỉ bóng dáng những người bạn gái đẹp, thanh lịch, dịu dàng. Còn là
hình bóng trong mộng của Quang Dũng (Theo lời kể của nhà thơ Vân Long thì
người người yêu Quang Dũng dạo ấy có tên chữ lót là Kiều).

Từng một thời bài thơ Tây Tiến bị xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ
trong hai câu thơ này. Nhưng thời gian đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất
lãng mạn chính là liều thuốc tinh thần cho người lính vượt lên hoàn cảnh khắc
nghiệt thời bấy giờ. Đó là lãng mạn cách mạng chứ không phải là cái lãng mạn
kiểu “mộng hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản như Hoài Thanh và một số
nhà phê bình từng nhận xét. (thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi
Quốc Gia Ngữ Văn)
Giữa những ngày gian khổ các chiến sĩ Tây Tiến vẫn vui vẫn sống vẫn giữ
nguyên cốt cách hào hoa của mình, họ tổ chức những đêm lửa trại tưng bừng
náo nhiệt
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.


Cái dữ dội khốc liệt của chiến tranh biến mất chỉ còn lại không gian tràn ngập
ánh sáng chập chờn hội đuốc hoa và tâm hồn người lính như bốc men say trong
hội vui thắm thiết của tình quân dân. Câu thơ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” bộc lộ
tất cả cái ngỡ ngàng vui sướng cái đắm say của tâm hồn lại có cái hóm hỉnh,
tinh nghịch của lính. Có thể hình dung những tâm hồn hào hoa ấy đang đắm
chìm trong vẻ đẹp của những bóng hồng Tây Bắc. Người lính như được chắp
cánh bởi vẻ đẹp con người và cảnh vật vùng Tây Bắc, như đang bay lên trong
tiếng nhạc điệu khèn. Phải có một cái gì đó thật lãng mạn đắm say trong tâm
hồn Quang Dũng nên ông mới viết được những câu thơ hay đến thế. Những chữ
“xiêm áo”, “man điệu”, “khèn lên,” “nhạc về” gợi lên vẻ đẹp hư ảo, một vẻ đẹp
vừa gần vừa xa của một khung cảnh nơi xứ lạ phương xa, làm lòng người như
đắm say, xốn xang hơn. (thầy giáo Phan Danh Hiếu – GV chuyên luyện thi Quốc
Gia Ngữ Văn)
Đi suốt bài thơ ta gặp cái chất bốc tếu, cái ngang tàng kiêu bạc của người

lính Tây Tiến rất rõ. Vừa treo mình cùng hơi thở nặng nhọc trên các dốc núi cheo
leo ta gặp ngay cụm từ “súng ngửi trời” rất dí dỏm, rất lính. Thiên nhiên miền
Tây dữ dội với núi cao, vực thẳm, thác gầm lùi lại phía sau người lính. Vẻ đẹp
tâm hồn lạc quan của người lính được nhân lên sánh ngang thiên nhiên hùng vĩ.
Đi suốt toàn bài thơ cái chất hào hùng của người lính hiện lên qua hiện thực gian
khổ thiếu thốn tột cùng “sương lấp,” “đoàn quân mỏi,” “dãi dầu”, “không bước
nữa,” “bỏ quên đời” với ý chí dấn thân thái độ kiên định sắt đá “chẳng tiếc đời
xanh,” “không hẹn ước,” “chẳng về xuôi.”
Đến cái chết cũng thật Hào hùng hào hoa !
Nói đến người lính, nói đến chiến tranh không thể tránh khỏi cái chết. Cái
chết vẫn là một mối đe doạ, một sự thật đáng ngại và rất bi thảm, nhưng qua
ngòi bút Quang Dũng ta lại thấy dược ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến, có
thể nói ngay cái chết cũng rất đỗi hào hùng người lính Tây Tiến dù có chết cũng
“không rời vũ khí, không xa đội ngũ”.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Rồi những cái chết nơi rừng hoang biên giới “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”.
Nhưng câu thơ thứ hai lại vang lên như một lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh”, đúng là giọng điệu của bậc trượng phu “Coi cái chết nhẹ như lông
hồng” sáng ngời chí trai cường: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/Gieo Thái Sơn
nhẹ tựa hồng mao”.
Hai câu thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
đã đẩy vẻ kiêu dũng lên cực điểm, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ để tái tạo
ở đây vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi thực trạng thiếu thốn , gợi được hào khí của chí
trai thời loạn. Chữ “về” nói thái độ ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết.
Phong Lan trong “Bài thơ Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” đã

nói về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua cái chết như sau: “Lý tưởng cách
mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất
men say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.
Ngày nay đọc lại “Tây Tiến” của Quang Dũng, bỗng thấy nhớ đến nao lòng
một thời kỳ lịch sử bi tráng của dân tộc, một thời đại “Một đi không trở lại”. Các
anh đã ngã xuống cho “lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm”, cho tượng đài tự do
được tôn cao. Lịch sử sẽ mãi nhớ tên các anh những người anh hùng bất tử.
“Tây Tiến” của Quang Dũng là bài thơ về một thế hệ thanh niên với lý
tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – họ là những con người đã nguyện
dâng hiến máu xương mình cho tổ quốc. Thời gian đã đi qua, gió bụi thời gian có
thể phù mờ bao huyền thoại nhưng tượng đài về người chiến binh Tây Tiến năm
xưa thì mãi mãi bất tử cùng thời gian. Càng trân trọng và yêu quý thế hệ cha
anh ngày ấy đã ngã xuống vì hòa bình, thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay
phải quyết tâm sống sao cho thật xứng đáng.




×